Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hiện Tượng LuậnBản Thể Luận Trong Phật Giáo

19 Tháng Hai 202219:22(Xem: 2376)
Hiện Tượng Luận Và Bản Thể Luận Trong Phật Giáo
Hiện Tượng LuậnBản Thể Luận Trong Phật Giáo  

Thích Nữ
Hạnh Tri

doi song tu bi

Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu, do hệ thống triết lý nhà Phật khá nhiều, đặc biệt trải qua thời kỳ Phật giáo bộ phái “trăm hoa đua nở”. Trong lịch sử nghiên cứu Phật học, có rất nhiều hoài nghi xoay quanh về nguồn gốc cũng như quá trình hình thành một vài bộ kinh Đại thừa. Thậm chí kinh điển Đại thừa được cho không phải Phật thuyết mà chỉ có kinh điển Nikāya. Đây là một cách suy luận chưa hoàn toàn chính xác. Vì khi khảo cứu năm bộ Nikāya, có nhiều bài kinh văn mang tư tưởng mầm mống của Phật giáo Đại thừa. Sự phát triển của tư tưởng, quan điểm đôi khi mâu thuẫn với nhau, điều đó gây khó khăn cho người tìm hiểu Phật giáo. Nhưng nếu dựa vào nguyên tắc, đặc điểm chung của từng thời kỳ thì mọi vấn đề sẽ được hiểu một cách rõ ràng và không bị nhầm lẫn. Từ đó, chỉ cần đọc vào một bản kinh hay tiếp xúc với một quan điểm, sẽ dễ dàng nhận biết được đó là quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy hay Phật giáo Đại thừa.

HIỆN TƯỢNG LUẬNBẢN THỂ LUẬN TRONG PHẬT GIÁO

Các quan điểm trong Phật giáo tuy nhiều nhưng luồng tư tưởng chính vẫn quy về hai trường phái: hiện tượng luậnbản thể luận. Trong đó, Thượng tọa bộ được xem là đại diện cho hiện tượng luậnĐại thừa đứng trên mặt bản thể luận. Đại thừa đứng trên lập trường duyên khởi nhấn mạnh các pháp vốn “không”, còn Tiểu thừa (cụ thểHữu bộ) đứng trên lập trường sự hiện hữu của Uẩn Xứ Giới thiết lập quan điểm cho rằng bản chất của các pháp là thật có (bhava) [1].

Nguyên lý của hiện tượng luận là gì? Đó là căn cứ vào không gianthời gian để xác định, làm nền tảng để hiểu biết. Ví dụ như: Chúng ta nói đây là cái bàn, nhưng mười năm trước đó hoặc mười năm sau, đây chưa chắc là cái bàn. Do đó, nói đây là cái bàn thì phải nói đến khoảng thời giantồn tại dưới hình dạng cái bàn. Bao giờ đề cập đến hiện tượng luận cũng phải liên hệ đến không gianthời gian thì ý nghĩa của nó mới thật sự được hiểu đúng.

Khi không gianthời gian mờ mịt, không được làm rõ, chúng ta không thể xác định đó là cái gì được. Ví dụ, việc xác định con gà và cái trứng, cái nào có trước. Nếu câu hỏi này được trả lời sẽ là vô cùng vô tận vì nói cách nào cũng có lỗ hổng, không chính xác, do đó không thể xác định. Tuy nhiên, khi chúng ta đưa thời giankhông gian vào trong câu trả lời thì vấn đề trở nên rõ ràng. Chẳng hạn như, chúng ta khi nói tháng trước con gà sanh ra cái trứng, một tuần sau cái trứng nở ra con gà. Như vậy, vấn đề được làm rõ, không có gì để bàn cãi. Vì vậy, khi chúng ta muốn thảo luận vấn đề gì thuộc hiện tượng luận thì phải dựa trên yếu tố không gianthời gian. Nếu tách rời không gian thời gian thì vấn đề trở nên mù mờ, không thể nào giải quyết được. Thượng tọa bộ nhìn thế giới bằng hiện tượng luận, Kinh Tượng Tích Dụ khẳng định: “Này chư Hiền, nếu nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý xứ bên trong bị hư hoại thì các pháp bên ngoài sẽ không được ánh sáng rọi đến nên không có niệm, do đó ý thức không sanh khởi được. Này chư Hiền, nếu nội ý xứ không bị hư hoại thì pháp bên ngoài sẽ được ánh sáng rọi đến và liền có niệm nên sanh ra ý thức” [2].

Hiện tượng luận là đứng trên mặt hình thức mà nói. Bản thể luận là nói đến bản chất của sự vật. Ví dụ như: cái bàn của giáo sư, bàn của học trò là dựa trên hình thức mà nói, không thể đi sâu phân tích được. Vì nó được hình thành cái tên và công năng sử dụngdo nơi hình dáng bên ngoài thể hiện ra. Nếu đề cập đến bản thể luận của cái bàn thì bản chấtduyên sanh, là “không”. Do đó, không có cái nào được gọi là cái bàn. Cái đầu tiên là gì, cuối cùng là gì, bản chất của nó là gì, chúng ta không thể tìm được. Trong Đại thừa thường gọi là vô thủy vô chung, bất nhị, bất khả thuyết, bất khả tư nghì… tất cả những từ đó mô tả thực trạng mà chúng ta không bao giờ nắm bắt được. Muốn hiểu được phải dựa trên hiện tượng luận. Trên thực tế, tất cả những gì chúng ta sống đều phải dựa trên hiện tượng luận, nhưng trường hợp sống được với bản thể luận là khi giác ngộ Phật quả. Còn tất cả hàng phàm phu phải sống với những quy định, hiện tượng.

CHÂN ĐẾTỤC ĐẾ

Đức Phật thường nói hai pháp đó là Chân đếTục đế. Vì người bình thường thấy được sự vật, hiện tượng bằng mắt thường nên Đức Phật nói pháp thế tục. Con người phải dựa vào hiện tượng luận để nói, sinh hoạt. Đức Phậtcăn cơ trình độ của người đó, muốn giáo hóa nên trước tiên Ngài sẽ dựa vào trình độ để nói pháp thế tục, không thể nói Chân đế. Nhưng khi họ đến với đạo Phật, trải qua thời gian tu tập, hiểu được chút giáo pháp thì sẽ tuyên thuyết pháp Chân đế. Chân đế chính là tư tưởng của Đại thừa Phật giáo.

Đức Phật nói tất cả pháp đều “không” là đứng từ bản thể, bản chất của các pháp. Nhưng với người phàm phu thì không thể hiểu được, sẽ phản đối. Vì người thế tục thường quan sát các sự vật hiện tượngphân biệt đây là sách, vở, bàn, bút viết… Không thể sử dụng khác được, thiết lập như trật tự của thế gianchấp chặt vào đó. Nhưng trật tự này có giá trị hạn hẹp khi nó thay đổi vị trí thì chúng ta mơ hồ, phát sanh phiền não. Do đó, Đức Phật dạy trong Kinh Trung Bộ: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý Idapaccāyata Paṭiccasamuppāda (Y tánh duyên khởi pháp); sự kiện này thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết bàn. Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!” [3].

Như vậy, cuộc sống của con người dựa vào hiện tượng luận hay bản thể luận? Xét trên thực tế, chúng ta luôn sử dụng hiện tượng luận để thảo luận, làm cứ điểm để trao đổi lẫn nhau, không sống ở mặt bản thể luận. Đứng về mặt tương đối mà nói, không gianthời gian là hai khái niệm làm nền tảng cơ bản cho sự nhận thức của con người, nếu không có thì vấn đề đúng sai, tốt xấu, thiện ác, luật pháp… không thể thiết lập. Ví dụ, qua ngã tư, đèn báo đỏ thì dừng lại, xanh được đi. Chúng ta phải thực hiện nghiêm túc. Đây là nhìn nhận về mặt hiện tượng luận, tức là đứng từ mặt hình thức của một đèn xanh đèn đỏ, hình thành nguyên tắc để ta chấp hành luật lệ giao thông. Vì cuộc sống không thể không dựa vào hiện tượng luận để tồn tại, nhờ vào hệ không gianthời gian này mà các trật tự xã hội cũng được thành lập và có giá trị, ngay cả khái niệm đạo đức cũng phải dựa vào hệ quy chiếu này. Không gianthời gian thay đổi thì nhận thức con người cũng thay đổi theo. Luật pháp là những quy điều được thiết lập theo từng thời kỳ, từng xã hội, không cố định. Do vậy, không có không gianthời gian con người không thể nhận thức được sự vật. Đây là nguyên tắc cho sự nhận thức.
“Này các Tỳ kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỳ kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới”.

Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, học thuyết đương thời có hai khuynh hướng: 1. Tư tưởng Bà-la-môn, thuyết “trong nhân có quả” cho rằng sự hình thành vũ trụ là từ một nhân căn bản chuyển biến hình thành những cái khác. Dùng nó để chỉ đạo thực tiễn, những người theo tư tưởng này lấy tu tập thiền định làm trung tâm, để nhận thức cái gọi là “nhân căn bản”, từ đó có thể đạt đến cảnh giới giải thoát. 2. Tư tưởng phi Bà-la-môn, cho rằng sự vật do nhiều nhân kết hợp mà thành, phái này được gọi là thuyết “trong nhân không có quả”. Học thuyết này dùng để chỉ đạo cuộc sống, sau đó phái này lại chia thành hai phái khác nhau, một phái đề cao tu tập khổ hạnh và một phái đề cao thỏa mãn dục vọng. Đối với những lý thuyết trên Đức Phật đều không chấp nhận, Ngài đưa ra thuyết Duyên khởi, cho rằng các pháp cùng nhau nương tựa, cùng làm điều kiện sanh diệt cho nhau, chẳng phải do một nhân sanh nhiều quả, cũng chẳng phải nhiều nhân sanh một quả, mà cùng nhau làm nhân làm quả [4]. Hai hệ thống học thuyết vừa tường thuật trên đều lấy bản thể luận làm điểm căn cứ, nhưng Đức Phật trên căn bản không đề cập, thảo luận đến vấn đề liên quan đến bản thể luận. Chẳng hạn như mười bốn vấn đề vô ký: Vũ trụthường hay vô thường? Vũ trụhữu biên hay vô biên? Sanh mạng sau khi chết còn hay mất? Sanh mạng và thân là một hay khác? Những vấn đề này, đối với các nhà học giả, luận sư ngoại đạo đương thời đưa ra thảo luận, bàn bạc, nhưng riêng Đức Phật Thích Ca thì ngược lại, Ngài không bao giờ trả lời hay luận bàn khi các luận sư Bà-la-môn đến hỏi. Đức Phật dạy: “Ta không xác quyết điều này. Vì lý do gì mà Ta không xác quyết những điều này? Vì những điều này không tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải là căn bản phạm hạnh, không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết bàn. Cho nên Ta không xác quyết những điều này” [5].

Đồng thời, Đức Phật tuyên bố: “Này các Tỳ kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỳ kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới” [6]. Ngài khuyên các Tỳ kheo không nên bàn luận những vấn đề không liên quan đến đời sống phạm hạnh vì “Những câu chuyện này, này các Tỳ kheo, không đưa đến mục đích, không phải căn bản cho phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn” [7]. Do đó, học thuyết của Đức Phật từ đầu đến cuối luôn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh từng vấn đề. Lúc đầu giữa hai khuynh hướng hưởng thọ dục vọngkhổ hạnh, Ngài chọn con đường “Trung đạo”, chú trọng phương diện hành động thực tế. Ngài cho rằng, quan điểm của những nhà duy vật đương thời, chủ trương thỏa mãn dục vọng là không hợp lý, ngay cả việc Ni kiền tử chủ trương hà khắc trong việc tu khổ hạnh cũng không đúng. Ngược lại Ngài cho rằng, chỉ có con đường “Trung đạo” là con đường không khắc khổ cũng không đắm chìm trong dục lạc mới là con đường chân chính. Ngài xuất phát từ cái nhìn thực tế nơi hiện trạng của cuộc sống mà tự bản thân Ngài đã trải qua.

TRỪ BỎ CHẤP THỦ

Tuy nhiên, bản thể luận không dựa vào bất cứ hiện tượng gì để giải thíchdựa vào bản chất. Do đó, chuyện khi nào đèn đỏ, đèn xanh là chuyện vô cùng vô tận cho nên không có chuyện xanh đỏ. Ví dụ có một người có quan điểm bản thể luận vượt qua hiện tượng luận, không chấp nhận hiện tượng luận, do đó sống không dựa vào hiện tượng, xem xanh như đỏ, đỏ như xanh, lúc đèn đỏ, không dừng lại, nguy cơ bị tai nạn giao thông rất lớn. Đó là nhận thức nguy hiểm vô cùng. Vì vậy, khi chúng ta khi còn sống trong thế giới hữu vi thì thân thể chúng ta cũng bị giới hạn hữu vi. Không thể dùng tinh thần bản thể luận để giải quyết mọi vấn đề của hiện tượng luận.

Mặc dù, nguyên tắc chúng ta sống dựa vào hiện tượng luận, nhưng nếu quá bám víu, chấp thủ thì sẽ sanh đau khổ. Cái khổ tâmxuất phát từ việc ta bám vào hiện tượng. Ví dụ ngày còn trẻ, thân thể ta khỏe mạnh, đi đứng linh hoạt, nhưng khi lớn tuổi, thân thể mệt mỏi, đau nhức. Ta cảm thấy đau khổ. Trong khi thực tại đã thay đổi mà ta cứ bám, không chấp nhận hiện tại cho nên khổ đau. Do đó, phiền não còn hay không là do ta bám chấp hay không. Phật giáo Đại thừa là xóa sạch cố chấp của tâm. Phật giáo Đại thừa làm cách nào để loại bỏ những cố chấp trong tâm? Đầu tiên, trong Kinh Tương Ưng, Đức Phật dạy: “Này Ananda, như vậy là Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác. [8]”

Tức là nương tựa mình, đừng nương tựa bất cứ gì khác. Tuy nhiên, trước khi nương tựa mình thì hãy nương tựa Pháp. Pháp đó là dựa trên nguyên tắc của cuộc sống, đạo lý của cuộc đời. Lúc Đức Phật nói câu này thì chưa có chữ nghĩa nào để viết thành văn tự. Pháp đó là muốn chỉ pháp Duyên khởi hay bản chất sự vật. Đức Phật chỉ là người phát hiện ra nguyên lý, bản chất của cuộc đời, không phải là những gì Ngài sáng tạo ra.
“Này các Tỳ kheo, Ta tuyên bố rằng sự tận cùng thế giới không thể biết, không thể thấy, không thể đạt được bằng cách đi đến tận cùng thế giới. Ta cũng không tuyên bố rằng, này các Tỳ kheo, sự chấm dứt đau khổ có thể làm được bằng cách đạt đến sự tận cùng thế giới”.

Đồng thời, Đức Phật dạy chúng Tỳ kheo tùy theo đối tượng, nhân duyên, hoàn cảnhtuyên thuyết giáo pháp. Giáo pháp đó, chỉ phù hợp cho trường hợp của Tỳ kheo đó, trong bối cảnh đó, không phải là cho tất cả hay cho những ai có những trường hợp tương tự. Đó chính là lý do tại sao cùng một vấn đềĐức Phật giải thích khác nhau. Ví dụ, khi trình bày vấn đề giới dâm, đối với cư sĩ thì chỉ cần giữ tà dâm. Thế nhưng, đối với các Tỳ kheo thì Đức Phật lại cấm hẳn dâm dục. Mỗi giới điều chuyển tải một ý nghĩa, một đạo lý nào đó của Phật, nhằm giải quyết một vấn đề cụ thể cho một đối tượng cụ thể, ắt hẳn có giá trị với đối tượng đó trong vấn đề đó, nhưng không đồng nghĩa, phương pháp đó giải quyết cho mọi vấn đề và cho mọi người. Khi thời gian không giancon người thay đổi phương pháp giải quyết cũng phải thay đổi.

Đây chính là lý do tại sao trong kinh điển Phật giáo Đại thừa hình thành pháp “Tứ y” và xem đó như là phương pháp vận dụng lời Phật dạy vào cuộc sống thực tế, thể hiện quan điểm, lập trường không cố chấp vào hình thức. Như Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 6 Phẩm Tứ y đưa ra quan điểm: “Y theo pháp không y theo người, y theo nghĩa không y theo lời, y theo trí không y theo thức, y theo kinh liễu nghĩa không y theo kinh chẳng liễu nghĩa. Bốn pháp như vậy, nên phải chứng biết không phải bốn hạng người” [9].

Vì vậy, tư tưởng “tứ y” là cơ sở hình thành nên Phật giáo Đại thừa, sau khi hình thành thì bắt đầu mới có con người Bồ-tát phá vỡ phương cách, con đường đi đến giải thoát. Nguyện độ chúng sanh dưới nhiều hình thức, Thánh Vương, Tiểu vương,Trưởng giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, phụ nữ của Tể quan, phụ nữ của Bà-la-môn, đồng nam đồng nữ, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhơn cùng Phi nhơn… [10]. Bằng cách đề cao trí tuệ Bát nhã ba la mật, phá chấp hình tướng của người tu hành, dẫn đến hàng tại gia cũng được xem là hàng Bồ-tát khi họ có đủ phẩm chất cần thiết. Đó là con đường bản thể luận. Ví dụ như hình ảnh cư sĩ Duy Ma Cật [11], Thắng Man phu nhân… Vì bản thể luận không nằm trong bất kỳ hình tướng nào. Do đó, trong Kinh Pháp Hoa mới có hình ảnh Long nữ chỉ trong sát na liền chuyển thành thân nam [12]. Hoặc Đức Phật thọ ký cho mẹ của La-hầu-la là bà Gia-du-đà-la Tỳ kheo ni [13] . Đồng thời, nhân vật Devadatta phạm ngũ nghịch tội, đọa vào địa ngục Vô gián [14]. Tuy nhiên, trong Phật giáo Đại thừa, ông được xem là một vị Bồ-tát nghịch hạnh, được Đức Phật thọ ký thành Phật ở đời vị lai hiệu là Thiên Vương Như Lai [15]. Bồ tát không phải là con đường dành riêng cho các hàng Thánh giả xuất thế, các bậc đại trượng phu, lại cũng không phải chỉ riêng biệt cho một hạng người đặc biệt nào, mà bởi vì Phật tính vốn bình đẳng nơi tất cả chúng sanh cho nên chí nguyệntrách nhiệm Đại thừa vẫn có thể được đảm trách trọn vẹn bởi cốt cách của bất cứ ai có tâm nguyện Bồ-tát. Điều này chỉ có Đại thừa Phật giáo mới đủ sức trình bày mà không gặp bất cứ rào cản nào, vì xuất phát từ bản thể luận để khai triển.

Bởi vì sự vật có từ vô thủy, trôi mãi đến vô chung, trong quá trình chuyển biến duyên khởi thì không có một cái nào tiêu biểu cố định. Và mỗi thời gian thay đổi là tướng trạng của nó chứ không phải là một cái cụ thể cố định nào cả. Đặc biệt, người học Phật phải chú trọng tinh thần giảng dạy của Đức Phật, vận dụng tinh thần đó vào đời sống cụ thể từng nhóm người và từng xã hội, thong dong trên đạo lộ giải thoát. Vì sự tồn tại của Phật pháp và sự lợi ích của con người, do vậy Phật giáonhân gian cần phải y cứ vào tinh thần giáo dụchình thức giáo dục của Đức Phật, biết phối hợp “pháp” và “luật” làm nền tảng cho việc tu học. Nếu như người xuất gia xem thường đời sống nề nếp của Tăng giànguyên nhân xuất hiện những hiện tượng bất chính, người đó cũng không thể nhờ đâu mà thân tâm được thanh tịnh. Ngược lại, người thọ giới nên hiểu biết mục đích của hành trì giới luật, có như vậy mới đi đúng tinh thần giác ngộgiải thoát.

Phật giáo Đại thừa làm theo tinh thần Đức Phật dạy, không làm kiểu rập khuôn khi ý nghĩa đã thay đổi theo thời giankhông gian. Tùy theo từng thời đại, căn cơ mà hình thành cách thức giáo dục khác nhau, đem đến lợi ích thiết thực cho hành giả tu tập. Điều này dẫn đến tranh luận việc phân phái Phật giáo liên quan đến hai nguyên nhân đó là năm điều của Đại Thiên [16] và thập phi pháp sự. Do đó, không thể dựa vào lời nói ngay nơi bối cảnh mà Đức Phật dạy để áp dụng cho mọi trường hợp. Ví như giới cấm uống rượu, ngày nay, không chỉ có rượu mới nguy hại mà bia, thuốc lá, ma túy,… cũng đều nguy hại. Nếu chỉ dựa vào lời Phật dạy thì coi như mặc nhiên được uống bia, thuốc lá… Nhưng ở đây chúng ta cần hiểu được bản chất đó là cấm sử dụng những chất khiến lòng người say mê đắm đuối rồi sanh ra các tội lỗi sai lầm, đưa đến hậu quả không tốt. Đức Phật đã khẳng định, trí tuệ là cái quyết định giải thoát: “Nếu có người nào lại chỉ dựa vào một ít việc trì giới mà bảo rằng ta được lìa nhuế giải thoát, thì điều này cũng không đúng. Đoạn tận tham, nhuế, si, đó mới gọi là chân thật giải thoát” [17]. Tuy nhiên, nói như thế không phải chúng ta được phép bỏ giới luật để xem như đạt đến vô phân biệt. Đức Phật nói như vậy để tránh những kẻ ỷ vào một chút công phu tu hành mà cho mình đã được giải thoát, chứng quả vị. Còn chúng ta, hàng phàm phu sơ cơ, còn sống trong thế giới hiện tượng, vẫn phải dựa vào những quy tắc giới luật để kiểm thúc, học hạnh của bậc Thánh.
Đức Phật dạy: “Này Ananda, như vậy là Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác”.

Đặc biệt, kinh điển Đại thừa không sử dụng hiện tượng luận để giải thích vấn đề, cho nên thường dùng các từ “quá khứ bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, vị lai bất khả đắc” để mô tả các pháp, phủ nhận vấn đề thời gian. Không có chỗ này, không có chỗ kia là phủ nhận vấn đề không gian. Phật giáo Đại thừa thường sử dụng từ “vô thủy”, tìm cái cuối cùng cũng không có nên “vô chung”. Nên kinh điển Đại thừa thường sử dụng “vô thủy vô chung”. Vô thủy kiếp về trước là khi nào, vô tận kiếp về sau là khi nào? Vô lượng kiếp mô tả cũng không được. Từ này trong kinh điển Nguyên thủy không có nhưng trong kinh điển Đại thừa rất nhiều, thường xuyên. Vô thủy vô chung thì không thể mô tả sự vật, càng mô tả càng sai. Cho nên, khi nói về các pháp trong Đại thừa thường sử dụng “bất khả thuyết, bất khả tư nghì”, “bất khả thủ, bất khả thuyết, phi pháp, phi phi pháp” [18]. Như vậy, bằng cách nào để chúng ta hiểu được các pháp? Chỉ có bước vào thực hành Bát nhã ba la mật đa, tức đi vào tư tưởng Đại thừa mới hiểu, còn không sẽ không hiểu hoặc hiểu một cách sai lầm. Ví dụ như chí nguyện Đại thừa mặc dù được coi là tối thượng, tối đại về kết quả thành tựu nhưng nhân duyên để thành tựu nó thì hết sức đơn giản: “Những ai đã từng một lần xưng “Nam mô Phật” trong các tháp miếu thờ xá lợi; tất cả những người ấy, dù chỉ một lần với tâm tán loạn, đều đã thành tựu trí giác vô thượng này”. Đó là cách mô tả của Đại thừa đứng trên lập trường bản thể luận.

Cho nên, cách thảo luận của Bồ tát Long Thọ rất thuyết phục khi Ngài đưa ra tư tưởng “bát bất”: “Bất sanh diệc bất diệt, bất thường diệc bất đoạn, bất nhất diệc bất dị, bất lai diệc bất xuất” [19]. Long Thọ đứng về mặt bản thể luận, truy về hiện tượng vật chất thì không có cái gì sanh mà cũng không diệt. Sanh diệt trong từng sát na, không phải đợi thấy sanh thì gọi là sanh, diệt rồi mới biết diệt. Cũng vậy, không thường cũng không đoạn… Nếu đứng về tư tưởng Đại thừa thì không chỉ có “bát bất” mà có thể nhiều hơn thế nữa. Nhưng chung quy lại, chỉ cần đứng trên mặt bản thể luận thì có thể lý giải được tất cả vấn đề mà không cần đưa ra quá nhiều lý thuyết.

Đứng về mặt bản thể là khi nói một người đã giải thoát mới có thể sống bằng bản thể luận, còn nếu chưa thể đạt được điều đó thì phải dựa vào hiện tượng luậntồn tại trên cõi Ta bà này. Một số tu sĩ thực hành Bồ tát đạo, thành tựu đạo quả, không rốt ráo được nguyên tắc của bản thể luận, rồi thực hành một cách máy móc, đi sai bản hoài của Đức Phật. Khi chúng ta hiểu được cách lý luận của Đại thừa thì thấy được bản kinh Đại thừa có nhiều ý nghĩa sâu xa. Người thiện xảo thì đủ khả năng thì có thể phá chấp, còn chưa đủ thì không thể ứng dụng một cách tùy tiện tinh thần phá chấp của Đại thừa. Những kẻ mưu lợi riêng lại cho là phương tiện của Đại thừa, thực hành một cách sai lạc ý nghĩa, chuộc lợi riêng cho mình.

Kết luận

Phật giáo đến nay đã phổ biến trên toàn thế giới, sự tồn tại và phát triển đó chứng minh bản thân Phật giáo có sức sống mãnh liệt vượt lên trên thời giankhông gian. Khẳng định Phật giáo có nền giáo lý tuyệt vời, có giá trị thiết thực, phù hợp với đời sống con người, uyển chuyển thích nghi với mọi đời sống xã hội khác nhau. Đó chính là những yếu tố cần thiết, cơ bản để đạo Phật tồn tại và phát triển cho đến các thế hệ sau. Có lẽ đó là lý do tại sao từ Phật giáo Nguyên thủy đã chuyển sang Phật giáo Bộ phái, từ Phật giáo Bộ phái tiếp tục chuyển sang Phật giáo Đại thừa. Tùy theo bối cảnh, con người của mỗi đất nước, Phật giáo lại tiếp tục hình thành những tông phái khác nhau để đáp ứng nhu cầu con ngườixã hội đó mà không mất đi bản hoài của Đức Phật.

Đạo Phật trải qua bao nhiêu giai đoạn hoặc phương pháp tu tập có khác nhau thì mục đích đều đem đến giác ngộgiải thoát, như trăm sông đều chảy về biển cả. Mặc dù những bản kinh Đại thừatư tưởng khai phóng, triển khai bản thể luận của lời Phật dạy, có nội dung khác với kinh điển Nikāya. Nhưng chúng ta không nên vội quy kết rằng nội dung trái ngược với tôn chỉ căn bản của Đức Thế Tôn.

Đức Phật chỉ hướng dẫn cho chúng ta nhận thức cuộc đời bằng nhiều phương diện, kể từ đó tìm ra hướng tu tập thích hợp cho từng người. Với tinh thần đó, người học Phật cần có một thái độ sáng suốt, trân trọngcân nhắc trong khi tiếp cận với tư liệu kinh văn của các truyền thống Phật giáo. Vì vậy, việc nhìn nhận được hiện tượng luậnbản thể luận chính là phương cách để hàng Phật tửnhận thức đúng đắnrõ ràng hơn trong giáo pháp của Đức Phật. Từ đó, mọi nẻo đường tu tập của người phát Bồ đề tâm, thực hành Bồ tát hạnh, nên lấy chánh kiến làm ngọn đuốc soi đường, mọi hành động không trái với tinh thần giác ngộ, giải thoát đã được đề cập trong kinh luật, biết khế thời và khế cơ để thể hiện Phật pháp, làm sống dậy ý nghĩa chân chánh về Phật giáonhân gian trong bối cảnh của Phật giáo ngày nay.

SC. Thích Nữ Hạnh Tri

 

Chú thích và tài liệu tham khảo:

[1] Ấn Thuận, Hạnh Bình – Quán Như dịch, Lược Giảng Luận Trung Quán, Nxb. TP.HCM, 2010, tr.283.

[2] Hán Dịch: Tam Tạng Tăng-Già-Đề-Bà, Việt Dịch: Tuệ Sỹ, Kinh Trung A-Hàm, Tập 1, Kinh Tượng Tích Dụ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, tr.236.

[3] Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ 1, Kinh Thánh Cầu, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2012, tr.218.

[4] TT.TS. Thích Hạnh Bình, Tài liệu giảng dạy của giáo thọ sư.

[5] Hán Dịch: Tam Tạng Tăng-Già-Đề-Bà, Việt Dịch: Tuệ Sỹ, Kinh Trung A-Hàm, tập 2. Kinh Tiễn Dụ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, tr.638.

[6] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng 4, Thiên Sáu Xứ, Chương I Tương Ưng Sáu Xứ Phần III. Năm Mươi Kinh Thứ Ba II. Phẩm Thế Giới Dục Công Đức, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr.164.

[7] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng 5, Đại Phẩm, Chương XII Tương Ưng Sự Thật I. Phẩm Định II. Phẩm Chuyển Pháp Luân III. Phẩm Kotigàma IV. Phẩm Simsapà V. Phẩm Vực Thẳm VI. Phẩm Đạt Chứng VII. Phẩm Bánh Xe Lược Thuyết, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr.610.

[8] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tương Ưng 5, Đại Phẩm, Chương III Tương Ưng Niệm Xứ I. Phẩm Ambapàli, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, 1991, tr.241.

[9] Dịch giả: Thích Trí Tịnh, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Tập 1, VIII. Phẩm Tứ Y, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2013, tr.208

[10] Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quyển thứ bảy, Phẩm Diệu Âm Bồ tát thứ hai mươi bốn, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, tr.531.

[11] Thích Từ Thông, Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Chương Thứ Nhất – Cõi Nước Phật, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2011, tr.13.

[12] Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quyển thứ tư, Phẩm đề bà đạt đa thứ mười hai, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, tr.339.

[13] Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quyển thứ tư – Phẩm trì thứ mười ba, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, tr.342.

[14] Thích Minh Châu dịch, Kinh Tiểu Bộ 7, Chương XII. Phẩm Mười Hai Bài Kệ 466, Chuyện Thương Nhân Trên Biển Cả, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2002, tr.656

[15] Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Quyển thứ tư, Phẩm đề bà đạt đa thứ mười hai, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2007, tr.331.

[16] Thích Hạnh Bình, Đạo Phật xưa và nay, Quá trình diễn biến của đạo Phật, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr.44.

[17] Thích Tịnh Hạnh, Đại Tập V, Bộ A-Hàm V, Trung A-Hàm Biệt Dịch & Kinh Tạp  A-Hàm Số 1, Tạp A-Hàm Quyển 9 – Kinh 230: Tam-Di-Ly-Đề (1), Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, Taiwan, 2000, tr. 852.

[18] Cưu Ma La Thập (Hán dịch), Đoàn Trung Còn- Nguyễn Minh Tiến (Việt dịch), Kinh Kim Cang, Nxb. Tôn Giáo, TP. HCM, tr.18.

[19] Ấn Thuận, Người dịch: Hạnh Bình – Quán Như, Lược Giảng Luận Trung Quán, Các bài tụng tuyển chọn từ Trung Quán Luận, Quan điểm lập trường của luận này, Nxb. Phương Đông, TP.HCM, 2010, tr.5.A

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38508)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14657)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14654)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14074)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14960)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16574)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29915)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16233)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15560)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14925)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14913)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17895)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15589)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38693)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26746)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39685)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50800)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38765)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35069)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18322)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16481)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42422)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39271)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35633)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17474)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46553)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17171)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28512)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19010)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17607)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17121)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17563)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16550)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16906)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30863)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16950)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18517)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18475)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17395)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18176)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17085)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23520)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17008)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17472)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17689)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17074)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15749)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18057)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17224)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29540)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27747)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18194)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16129)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15384)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23062)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14846)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55140)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14212)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13264)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant