Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chìa Khóa Dẫn Đến Giác Ngộ

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 21930)
Chìa Khóa Dẫn Đến Giác Ngộ

CHÌA KHÓA DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ
(The Key to Enlightenment)

Thứ hai, ngày 02 tháng 05 năm 1994
Lời khai thị tâm yếu từ Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII

blankSự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không là điều không thể chắc chắn. Tích cực khai triển trí tuệ thế gian trước khi ta bước trên con đường đạo của sự trải nghiệm thực chứngviệc làm thực tiễn, hữu ích và quan trọng, tuy nhiên chỉ với điều kiện ta đủ sắc bén để không bị ‘lạc đường’ mà điều này thì dĩ nhiên phụ thuộc nơi sức mạnh của nội tâm. Ở đây, tôi dùng từ ‘lạc đường’ để hàm chỉ rằng thông qua trí tuệ thế gian tầm thường ta có thể làm đánh mất Đại Trí Tuệ.

blank
Hình bên phải: Đức Pháp VươngThượng sư của ngài - đại hành giả Yogi Gen Khyentse

Hình bên trái: Ngài Gyalwang Drukpa quang lâm chùa Quang Ân - Hà Nội (ảnh: Tùng Lâm)

Thực tế là tất cả chúng ta đều biết rất nhiều điều về thế giới sự vật hiện tượng và điều đó không hề giúp ích gì cho chúng ta tìm ra con đường chân thật tới giác ngộ. Mà trái lại, nó gây chướng ngại cho trí tuệ chân thực và vì thế, chúng ta lừa dối chính bản thân mình. Những gì mà rất nhiều người trong chúng ta cho là rất có ý nghĩa thì thực tế chúng lại chẳng có ý nghĩa gì, và chúng ta cứ mãi hành động một cách si mê tất cả chỉ vì chúng ta không có chiếc chìa khóa vàng Đại Trí Tuệ.

Có hai loại si mê - si mê về mặt tâm linhsi mê thế gian. Si mê trong tâm linh đơn giản là một sự bám chấp vào cuộc sống, đặc biệt là bám chấm vào những nghi lễ mà không một chút hiểu biết chân thực về ý nghĩa sâu xa của nó. Loại si mê này sẽ tan biến khi bạn khai triển được Đại Trí Tuệ chân thật về những gì mà bạn gắn kết trong quá trình tu tập như bản tôn, các nghi thức, thiền địnhcầu nguyện, v.v…

Sự gắn kết này cũng có thể được gọi là tín tâm chí thành hay đức tin (hay chính tín chứ không phải mê tín, niềm tin mù quáng). Là một hành giả thực hành chính đạo, bạn cần phải có sự hiểu biết tư duy logic và chân thực. Sẽ rất đáng kinh ngạc nếu một ai đó có thể đặt chân bước đi trên con đường đạo pháp với một niềm tin mù quáng. Cho dù không có gì là không thể xảy ra trên thế giới này, điều này là hầu như không thể.

Về tín tâm chí thành dâng hiến, một hành giả cần phải biết phân biệt giữa tín tâm chí thànhái chấp hay sự bám chấp thường tình. Hầu hết chúng ta đều thủ nhiễm ái chấp một cách rất tự nhiên mà không một chút trí tuệ hiểu biết. Nếu con đường giác ngộ chỉ yêu cầu thứ ái chấp này thì tại sao chúng ta đến giờ vẫn chưa giác ngộ? Như đã bàn đến trước đó, tín tâm chí thành dâng hiến là trí tuệ hiểu biết sâu xa không điều kiện. Ví dụ như, nếu một người nào đó hiểu biết về cây tre rằng thân tre rỗng ở bên trong thì dù người khác có cố thuyết phục họ rằng một thân tre nào đó là đặc, không rỗng đâu thì cũng không thể thuyết phục nổi họ.

Vì thế, bạn cần phải thực sự hiểu được sự khác biệt giữa tín tâm dâng hiến và thủ chấp. Để làm được điều này, như đã đề cập tới ở trên, bạn phải có được trí tuệ đúng đắn. Trong tiếng Tạng, trí tuệ này được gọi là ‘sherab’, nghĩa là ‘đại trí’. Trí tuệ ấy siêu việt hơn mọi thứ trí tuệ hiểu biết thông thường khác. Gọi là ‘đại’ vì nó thù thắng hơn sự hiểu biết thế gian của phàm nhân, bởi vì nó có năng lực giúp ta tái sinh vào những cõi giới cao hơn và cuối cùng là vì nó mang lại sự giải thoát tối thượng. Ngoài ra, trí tuệ ấy ‘vĩ đại’ vì nó có năng lực ban mọi điều tốt đẹp của thế gianxuất thế gian.

Nếu bạn thực hành tiệm tu hoặc bằng cách sử dụng thứ trí tuệ siêu việt này như là nền tảng căn bản, hoặc bằng cách xem nó như phần tinh túy bên trong bất khả phân của tín tâm dâng hiến, thì bạn sẽ nuôi dưỡng được tín tâm đúng đắn chân thật dựa trên một nền tảng vững chãi. Thông qua sức mạnh năng lực trưởng dưỡng tín tâm chân thật ấy, một cách tự nhiên vô tác, bạn sẽ khai phát tâm nguyện muốn giải phóng khỏi cỗ máy của luân hồi sinh tử và mong muốn đạt đến sự an lạc thù thắng siêu vượt luân hồi tử sinh. Quan kiến vô biên về thực tại sẽ bừng sáng trong tâm bạn thông qua trưởng dưỡng tín tâm chân thành ấy. Bạn sẽ thực chứng rõ ràng minh xác Đức Thượng Sư, Phật, Pháp, Tăng của chính mình, lý nhân quả, ý nghĩa của kiếp sống quá khứvị lai cũng như trực nhận được rằng vạn pháp đều là thân giác ngộ. Tất cả những âm thanh bạn nghe thấy đều là khẩu giác ngộ và bạn sẽ biết được tâm của người khác như tâm của chính mình vậy. Được truyền cảm hứng từ niềm tin xác quyết rằng trí tuệ bí mật này hiện hữu trong tất cả mọi chúng sinh phàm tình, bạn sẽ phát khởi tâm nguyện thành tựu đại giác ngộ. Đây được gọi là tâm chí thành tín nguyện.

Thủ chấp hoàn toàn đối lập với tâm chí thành tín nguyện. Bạn cần phải quán chiếu tầm quan trọng để không bị lẫn lộn mịt mờ.

Bạn cũng cần phải soi xét tìm hiểu xem mục đích đến với đạo pháp của mình là gì. Thực hành đạo vì mục đích mưu cầu hạnh phúc cho đời này và để được tái sinh vào cảnh giới cao hơn được gọi là sơ tín tâm. Tuy nhiên, một số Phật tử trong xã hội hiện đại ngày nay xem đây là tín tâm chân thànhtín tâm khởi phát nơi mỗi người có thể là ngụy tạo và duy ý chí.

Nếu bạn thực hành Phật Pháp với tâm nguyện muốn giải thoát mình khỏi luôn hồi thì đó gọi là trung tín tâm.

Nếu phát tâm thực hành đạo pháp không chỉ vì lợi ích giải thoát khỏi luân hồi của riêng mình mà còn thành tâm mong muốn giải thoát hết thảy chúng sinh khỏi luân hồithiết lập họ trong đại giải thoát vô thượng thì đây gọi là thượng tín tâm. Sự tín tâm này được thực hành chủ yếu dựa trên tâm từ bi. Sẽ khá là khó khăn nếu trưởng dưỡng lòng tín tâm thượng đẳng này mà không có sự hỗ trợ của tình yêu thươnglòng bi mẫn, cho dù thậm chí nếu nó có thể được dựa trên nền tảng trí tuệ đã được khai triển ở một mức độ nhất định.

Bàn về tín tâm dâng hiến, tôi cho rằng những hành động như ‘ngước mắt sùng bái’ hay chảy nước mắt xúc động trước một bài pháp là rất không phù hợp bởi lẽ đó đơn thuần chỉ là những cảm xúc bột phát của một sự xả ly giả tạo. Phản ứng này giống như bông hoa khô héo vào buổi cuối thu vậy. Tín tâm dâng hiến chân thật là thứ trí tuệ tôn quý hợp nhất của tín tâm, tinh tiến, trí tuệ và hạnh xả ly.

Đặc biệt là trong mối liên kết thượng sưđệ tử, tôi chẳng thấy ở đó bất kỳ một ý nghĩa nào trừ phi mối quan hệ ấy được truyền cảm hứng từ tâm xả ly mạnh mẽ của đại trí tuệ trân quý. Mọi người theo đuổi nó rất nghiêm chỉnh nhưng thực sự giống như họ đang chơi trò xây lâu đài bằng cát của trẻ con vậy. Những người thày và đệ tử như thế thật đáng chê cười. Mối quan hệ của họ được gắn kết với nhau bằng một sự dính chấp mạnh mẽ ngụy trang dưới vỏ bọc của tín tâm nhưng lại không có sự xả ly trong đó.

Một hành giả phải có ít nhất là sơ tín tâm như giảng giải ở trên. Dường như những người đệ tử thời nay không chịu trưởng dưỡngtín tâm cũng như chẳng tìm thấy lý do gì để dự phần vào mối liên kết thày trò ngoại trừ họ tự mắc bẫy chính mình với tâm bám chấp và ái nhiễm, giống như loài thú đói khát hau háu tìm miếng mồi ngon vậy, và họ sẽ chỉ chuốc lấy khổ đau và lừa dối lẫn nhau mà thôi.

Tựu chung, một cảm giác an lạc trong sáng tự nhiên hiện khởi khi bạn hiểu được những nguyên nhân căn bản dẫn bạn đến với đạo pháp, rồi sau đó lắng nghe, tìm hiểu và ghi nhớ những phẩm tính giác ngộ. Đây được gọi là tín tâm chí thành minh quang (đức tin chân thật).

Sự khác biệt giữa chính tín tâm này với dục lạc đến từ thủ chấp rất vi tế cho nên rất khó phân biệt chúng. Câu kệ dưới đây trích từ một trong những bài ca của Đức Jetsun Milarepa vô song có lẽ sẽ giúp ta phân biệt được sự khác biệt:

Ngươi, giống như loài cá,
Tín tâm càng nhiều
Con nước càng sâu hơn,
Còn ta, hành giả yogi
Mang lòng sùng kính trong tâm.

Tín tâm của một hành giả yogi sẽ bất động không đổi thay trước những khó khăn dù là khắc nghiệt nhất. Nó không phụ thuộc vào hoàn cảnh thuận hay nghịch. Cho nên tôi thiết nghĩ các bạn cũng có thể phân biệt được theo cách này.

Ha! Ha! Hãy kiểm chứng xem điều này đúng hay không!
Hi! Hi! Như Đức Phật Thích Ca đã dạy:
Tựa như vàng phải dùng lừa để thử,

Cắt, mài và dũa,

Hãy kiểm chứng chân lý

Đừng vội chấp nhận chỉ vì lòng tôn kính.

Vì thế, bạn có quyền được kiểm chứng chiêm nghiệm.

Người thày ít nhất phải là người có sự trải nghiệm thực chứng trong tu tập thực hành, có những phẩm hạnh hoàn hảo rõ ràng không lầm lẫn như tín tâm chí thành và những phẩm chất khác mà tôi đã đề đề cập đến ở trên về những tiêu chí yêu cầu đối với người đệ tử. Chắc chắn không phải là người thày không cần tuân theo những quy tắc còn người đệ tử thì bị buộc phải kinh qua những thử thách gam go. Vai trò trách nhiệm của người thày phải là nhấn mạnh được tầm quan trọng của sự gắn kết với Phật đạo (chứ không phải là với tích cách của người thày). Trong khi nhất tâm hướng về Phật đạo một cách đúng pháp vì lợi ích tha nhân, người thày cũng đồng thời bảo hộ chăm lo cho những người đệ tử bắt đầu bước trên con đường đạo. Dẫn dắt đệ tử trên con đường tu Phậtnhiêu ích tha nhânmục đích chính yếu của thực hành Phật đạo. Nếu không làm lợi ích cho hữu tình thì toàn bộ sự nghiệp tu hành Phật Pháp mất đi mục đích đích thực của nó.

Đức Jetsun Milarepa đã hát rằng:

điên đảo nếu một người dẫn dắt những người khác ra khỏi luân hồi trong khi bản thân họ còn chưa đáo bỉ ngạn. Cũng giống như một người đuối nước mà lại cố sức giải cứu mình bằng cách túm lấy một kẻ chết đuối khác vậy’.

Theo cách này, mọi nỗ lực chắc chắn đều tan thành mây khói. Mục đích ý nghĩa chân thực của đời này và các kiếp vị lai đều là uổng phí, bản thân mình và tha nhân đều chuốc lấy khổ đau mà thôi.

Tôi, Drukpa đời thứ XII, tên thường gọi đơn giản là ‘Padma’, vì không thể khước từ lời cầu pháp chân thành của bạn hữu nên viết bài pháp này với mong nguyện nhỏ nhiệm thôi là có thể đem lại lợi ích cho tha nhân.

Nguồn/Source: The Key to Enlightenment (www.drukpa.com)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9630)
Phật giáo không công nhận có một Đấng Thượng Đế Sáng Tạo, tiếng Anh là The Creator God và thường gọi tắt là God.
(Xem: 23113)
Đêm Rằm tháng Giêng, sân vắng, trăng sáng đầy trời. Trăng vẫn sáng đẹp như xưa, không có gì thay đổi...
(Xem: 8102)
Có ma hay không có ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Nếu phải trừ ma thì phải làm như như thế nào ?...
(Xem: 20520)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19532)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18405)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16267)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 15945)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 19043)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 14311)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 9620)
Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị Bồ tát nổi bật và được biết đến nhiều nhất trong tất cả các truyền thống Đại thừa, và đôi khi cả Tiểu thừa, như trường hợp ở xứ Tích lan và Thái lan cũng có thờ Ngài.
(Xem: 8720)
Philippe Cornu là một học giả uyên bác, thông thạo tiếng Tây Tạng, tiếng Phạn, tiếng Pali, tiếng Hán… Ông viết bảo, dịch thuật rất nhiều kinh sách, và thường được mời thuyết giảng về Phật giáo trên đài truyền hình Pháp.
(Xem: 8209)
Lý tưởng Bồ tátảnh hưởng lớn trên đời sống, tư tưởng và hành động của người Phật tử trong suốt hơn hai ngàn năm nay...
(Xem: 8916)
Đề tài của buổi giảng hôm nay là nhằm giới thiệu bức tranh ‘Địa Ngục Biến Tướng Đồ’, còn có tên là ‘Thập Vương Đồ’, do lão sư Giang Dật Tử vẽ tại Đài Trung, hiện nay đang được triển lãm tại Kinh Đô, Nhật Bản.
(Xem: 10969)
Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở mình, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấnđộng lực chính giúp con người vươn đến cõi toàn thiện...
(Xem: 9144)
Tác phẩm Ba Mươi Bảy Phẩm Trợ Đạo Giác Ngộ của Ngulchu Gyalsas Thogmed Zangpo là một trong những luận bản phổ biến nhất của Phật Giáo Tây Tạng...
(Xem: 8882)
Đức Phật đã dạy: “Chính sự khao khát là điều dẫn đến sự tái sinh. Đây chính là lần sinh thành cuối cùng của ta. Nay sẽ không bao giờ có sự tái sinh đối với ta”.
(Xem: 7952)
Đây là thắc mắc mà thanh niên Subha Todeyyaputta từng nêu ra cho Đức Phật với hy vọng tìm kiếm câu trả lời từ Ngài.
(Xem: 9096)
Mọi phương pháp dạy cho con người tránh né khổ đau hay trốn chạy khổ đau để tìm kiếm hạnh phúc đều không phải là những phương pháp giáo dục hoàn chỉnh.
(Xem: 35633)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 8560)
Việt Nam Đạo Phật vốn là một tôn giáo gắn bó với dân tộc, có nhiều ảnh hưởng sâu đậm đến lịch sử phát triển của đất nước, nhất là về mặt văn hóa giáo dục.
(Xem: 15096)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 8703)
Thiền định là một phương pháp hành thiền có nguồn gốc từ đạo Phật được phát triển vững mạnh trong 3 thập niên qua ở Mỹ và nhiều nước khác.
(Xem: 15294)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 9183)
Đại Tạng Kinh là một kho báu chung của mọi người Phật tử, nhưng do nhu cầu học Phật ở mỗi quốc gia mà có sự hình thành các Đại Tạng Kinh bằng những ngôn ngữ khác nhau.
(Xem: 8844)
Tâm Phật rỗng rang, không chất chứa gì cả. Tâm chúng sinh là một kho chứa khổng lồ chất đầy gánh nặng vui buồn, sướng khổ, hận thù, oan khiên nghiệt ngã của quá khứ.
(Xem: 9360)
Gót tu sĩ bốn phương trời rảo bước, Cõi Ta-bà đâu chẳng phải nhà ta, Một mình đi bình bát với cà sa, Đói xin ăn, dưới gốc cây nằm ngủ…
(Xem: 8458)
Hơn ba mươi năm, tôi làm ở hội Từ Tế. Bởi vì, tôi thường làm việc cứu trợ trong và ngoài nước, cho nên tôi cảm nhận được thiên tai, nhân họa liên tục ập xuống trái đất.
(Xem: 10303)
Báo Chánh Pháp số 34, tháng 9 năm 2014, do ĐLHT. Thích Thắng Hoan (CA) và Brodard Chateau, Brodard Restaurant & Bamboo Bistro ủng hộ ấn phí.
(Xem: 7664)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler
(Xem: 9542)
Những chướng duyên có thể giúp hành giả trên đường giải thoát. Ý niệm này, thường tìm thấy trong kinh Phật, dạy cách đánh giá cao những chướng duyên mà chúng ta gặp phải, vì nhờ chúng nên trí tuệtừ bi mới được nảy sinh.
(Xem: 7519)
Chất lượng của tâm niệm thiện lành sẽ tăng rất nhiều khi xưng danh tha thiết; vì thế, từ trạng thái nhớ nghĩ chuyển qua thực hành xưng danh niệm Phật là điều tất yếu.
(Xem: 17231)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15021)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 9502)
Kính thưa thầy, con có một thắc mắc về chơn tâmbản tánh. Sao gọi là chơn tâm? Sao gọi là bản tánh? Vậy giữa chơn tâmbản tánh giống nhau hay khác nhau?
(Xem: 20905)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 9215)
Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo.
(Xem: 7180)
Nếu chúng ta phân tích kinh nghiệm của chúng ta một cách cẩn thận, thế thì tôi nghĩ thật rõ ràng rằng hầu hết những quấy nhiễu tinh thần đến từ những tình trạng tinh thần tiêu cựcchúng ta gọi là phiền não.
(Xem: 17714)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17638)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 25825)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 7835)
Những người được gọi là "siêu việt" là những kẻ chân thành muốn làm tan biến tất cả khổ não của người khác bằng việc thấu hiểu nổi khổ đau của chính họ.
(Xem: 9921)
Cái không của A-hàm là xem trọng con đường giải thoát để tu trì. Cái không của Bộ phái dần dần có khuynh hướng bình luận, phân tích về ý nghĩa của pháp.
(Xem: 7274)
Tất cả mọi giáo huấn của Đức Phật đều hướng đến việc đem tới sự thực chứng nguyện vọng tức thời của chúng ta...
(Xem: 9656)
Chết là sự chấm dứt tạm thời của một hiện tượng tạm thời. Chết không phải là đoạn diệt hẳn, chết tại chỗ này nhưng lại sanh chỗ khác.
(Xem: 8148)
Thật là đại hạnh cho chúng tôi, nếu đức Thế Tôn cho phép nữ giới được sống đời xuất gia phạm hạnh thiêng liêng trong pháp và luật của đức Thế Tôn!
(Xem: 9112)
Thời hạn của ba kỳ, có thuyết cho là sau khi Phật diệt độ, Chánh pháp trụ thế 500 năm, Tượng pháp được 1.000 năm và Mạt pháp trải qua 10.000 năm...
(Xem: 7420)
Nếu bằng "cùng một nơi" chúng ta muốn nói thiên đàng[1] hay giải thoát khỏi vòng luân hồi, thế thì đấy là khó khăn...
(Xem: 8783)
Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày...
(Xem: 7936)
Đức Phật nói lý nhân duyên là nói đến sự thật của đời sống con người và muôn loài vật trên thế gian này.
(Xem: 8363)
Sự hình thành các hệ tư tưởng của Phật giáo Bộ phái không ngoài mục đích đáp ứng nhu cầu thực tế của Phật giáo đương thời, xã hội hoá Phật giáo.
(Xem: 7547)
Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
(Xem: 8730)
Chúng sinh trong cõi luân hồi vô thủy vô chung ấy đến rồi đi, đi rồi đến giống như hạt bụi nhỏ, phút chốc bỗng sinh trên trời, bỗng chốc sinh trên mặt đất...
(Xem: 8168)
“Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức” là một chân lý, một sự thật được nói nhiều trong tông Duy thức, và rộng ra, có trong tất cả kinh, luận.
(Xem: 8890)
Dựa theo thuyết Thiên mệnh của Khổng Tử thì thiên mệnh là mạng lịnh của Trời. Thiên mệnh là chủ thuyết rất quan trọng trong triết lý của đạo Nho.
(Xem: 7300)
"Sau khi tôi nhập diệt, giới luật sẽ thay tôi để làm thầy của quí vị, ở đâu có giới luật thì ở đó có tôi..."
(Xem: 14002)
Tập hợp các bài viết của nhiều tác giả cùng 1 chủ đề: Tứ Diệu Đế, Bốn Chân Lý cao cả
(Xem: 7110)
... nghành Tâm lý học sẽ không bao giờ có thể giúp con người thấy đúng và rõ sự thật của tâm lý mình và tâm lý người khác.
(Xem: 10365)
Duy thức học là một học thuyết tuy được xác lập vào khoảng thế kỷ thứ tư...
(Xem: 7699)
Giáo huấn của Đức Phật nhấn mạnh rằng không có một linh hồn độc lập hay một tự ngã độc lập.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant