Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Góp Thêm Vài Nguồn Gốc Tư Liệu Về Bản Diễn Kệ Kinh Vô Ngã Tướng Của Ni Trưởng Huỳnh Liên

29 Tháng Năm 202215:20(Xem: 1954)
Góp Thêm Vài Nguồn Gốc Tư Liệu Về Bản Diễn Kệ Kinh Vô Ngã Tướng Của Ni Trưởng Huỳnh Liên

Góp Thêm Vài Nguồn Gốc Tư Liệu Về Bản Diễn Kệ
Kinh Vô Ngã Tướng Của Ni Trưởng Huỳnh Liên

Chúc Phú

sen chua1

 

Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đời và đạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì trong số những tác phẩm, dịch phẩm của Ni trưởng có bản diễn kệ của bài Kinh Vô ngã tướng.[1] Đặc biệt, bản diễn kệ này hiện đã được đưa vào Nghi thức tụng niệm chính thức của hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam.[2]
Trong khuôn khổ Hội thảo về Ni trưởng Huỳnh Liên - những đóng góp cho Đạo pháp - Dân tộc và các giá trị kế thừachúng tôi xin góp thêm vài cơ sở tư liệu cũng như ghi nhận một vài điểm đặc thù xoay quanh bản diễn kệ nêu trên của Ni trưởng Huỳnh Liên.

1. Về nội dung, cơ sở tư liệu và thực tiễn vận dụng

1.1. Về nội dung và cơ sở tư liệu

Sau bài Kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana Sutta), Kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) là bài kinh quan trọng thứ hai được Đức Phật thuyết cho năm anh em A-nhã Kiều-trần-như (Añña Koṇḍañña) nên cũng còn gọi là Nhóm năm vị (Pañcavaggiya). Bài kinh này xuất hiện trong Kinh Tương ưng bộ (S.22.59-III.66) và nhiều nơi khác. Để tiện theo dõichúng tôi xin dẫn lại bản dịch tiếng Việt của Hòa thượng Thích Minh Châu:
Kinh Vô ngã tướng[3]
Một thời Thế Tôn ở Bārānasī (Ba-la-nại), tại Isīpatana (Chư Tiên đọa xứ), vườn Lộc Uyển.
Ở đây Thế Tôn nói với đoàn năm vị Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo”. “Thưa vâng bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế TônThế Tôn nói như sau:
- Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu sắc là ngã, thời sắc không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các sắc như sau: “Mong rằng sắc của tôi là như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: “Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này!”
Thọ, này các Tỷ-kheo, là vô ngã. Này các Tỷ-kheo, nếu thọ là ngã, thời thọ không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể được các thọ như sau: “Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì thọ là vô ngã. Do vậy, thọ đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các thọ: “Mong rằng thọ của tôi như thế này! Mong rằng thọ của tôi chẳng phải như thế này!”
Tưởng là vô ngã…
Các hành là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu các hành là ngã, thời các hành không thể đi đến bệnh hoạn và có thể được các hành như sau: “Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì các hành là vô ngã. Do vậy, các hành đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các hành: “Mong rằng các hành của tôi như thế này! Mong rằng các hành của tôi không phải như thế này!”
Thức là vô ngã, này các Tỷ-kheo, nếu thức là ngã, thời thức không thể đi đến bệnh hoạn, và có thể có được các thức như sau: “Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!”
Và này các Tỷ-kheo, vì thức là vô ngã. Do vậy, thức đi đến bệnh hoạn, và không có thể có được thức: “Mong rằng thức của tôi như thế này! Mong rằng thức của tôi chẳng phải như thế này!”
Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn!
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thọ… Tưởng… Các hành…
Thức là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Do vậy, này các Tỷ-kheo, phàm sắc gì quá khứvị laihiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả sắc cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
Phàm thọ gì…
Phàm tưởng gì…
Phàm các hành gì…
Phàm thức gì quá khứvị laihiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, bậc Đa văn Thánh đệ tử yểm ly đối với sắc, yểm ly đối với thọ, yểm ly đối với tưởng, yểm ly đối với các hành, yểm ly đối với thức. Do yểm ly, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷtín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.
Kinh Vô ngã tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) là một bài kinh có những cơ sở nguồn cội vững chắc, được nhiều tông phái Phật giáo viện dẫn và đề cập. Cụ thểbài kinh này xuất hiện trong một số tác phẩm kinh, luật sau:
  1. Kinh Tạp A-hàmTạp,  雜 (T.02. 099.33. 0007b22-0007c12); Tạp, 雜 (T.02. 099.34. 0007c13-0008a04).
  2. Phật thuyết Ngũ uẩn giai không kinh 佛說五蘊皆空經 (T.02. 102. 0499c08).
  3. Trong Luật tạng của Hóa Địa bộ (化地部), ở phần “Thọ giới pháp” (受戒法) thuộc tác phẩm Di-sa-tắc-hòa-ê Ngũ phần luật 彌沙塞部和醯五分律 (T.22. 1421.15. 0104b08-0105a24) .
  4. Trong Luật tạng của Pháp Tạng bộ (法藏部), ở phần “Thọ giới kiền-độ” (受戒揵度), thuộc tác phẩm Tứ phần luật 四分律 (T.22. 1428.32. 0787c13-0789b04).
  5. Trong Luật tạng của Thượng Tọa bộ (Theravāda), ở chương “Trọng yếu” (Mahākhandhaka) thuộc Đại phẩm (Mahāvagga).
  6. Trong tác phẩm Tiểu diễn giải (Cūḷaniddesa), ở mục “Giải thích câu hỏi của thanh niên Mogharāja”  (Mogharājamāṇavapucchāniddesa).
  7. Trong tác phẩm Đại sự (Mahāvastu) của Thuyết Xuất Thế bộ (說出世部, Lokottaravāda).
Ngoài ra, trong những năm gần đây, giới khảo cổ đã tiếp cận một tư liệu lịch sử quan trọng liên quan đến Kinh Vô ngã tướng, đó là một phiến đoạn của bản kinh này được ghi chép bằng mẫu tự Kharosṭṭhi, thuộc ngôn ngữ Gāndhārī có niên đại khoảng thế kỷ thứ hai.[4]
Như vậyKinh Vô ngã tướng là một bài kinh quan trọng, được các bộ phái Phật giáo gìn giữtruyền thừa và ghi xuống bằng văn bản rất sớm trong lịch sử biên tập kinh điểnĐặc biệt, nội dung bài kinh đã khái quát cô đọng ba đặc tướng giáo pháp của Đức Phật, đó là Vô ngã (anattā), Vô thường (anicca) và Khổ đau (dukkha). Ba đặc tướng này cũng tương đồng như những vần kệ được ghi lại trong Kinh Pháp cú (Dhammapada, 277-279):
“Sabbe saṅkhārā aniccā”ti, yadā paññāya passati; Atha nibbindati dukkhe,esa maggo visuddhiyā.
“Sabbe saṅkhārā dukkhā”ti, yadā paññāya passati; Atha nibbindati dukkhe,esa maggo visuddhiyā.
“Sabbe dhammā anattā’ti, yadā paññāya passati; Atha nibbindati dukkhe,esa maggo visuddhiyā.
(277. "Tất cả hành vô thường. Với Tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đường thanh tịnh.”
278. "Tất cả hành khổ đau. Với Tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đường thanh tịnh.”
279. "Tất cả pháp vô ngã. Với Tuệ quán thấy vậy. Đau khổ được nhàm chán. Chính con đường thanh tịnh.” (HT.Thích Minh Châu dịch).
Với tính chất khái quát, cô đọng, thế nên ba đặc tướng, ba tính chất quan trọng này đã được Đức Phật khéo léo vận dụng trong nhiều hoàn cảnh thực tiễn khác nhau. Đặc biệt, trong một số trường hợp đã được dùng để khai thị cho các vị Tỷ-kheo hoặc cho các vị cư sĩ đang lâm trọng bệnh, được ghi lại trong nhiều bài kinh thuộc Tương ưng bộ (Saṁyutta Nikāya).

1.2. Về thực tiễn vận dụng

Có nhiều bài kinh trong Tương ưng bộ ghi nhận về ba đặc tướng của giáo pháp được Đức Phật dùng để khai thị cho các Tỷ-kheo hoặc các vị cư sĩ khi các vị này bị bệnh, bị đau đớn, bị trọng bệnh (ābādhiko dukkhito bāḷhagilāno). Bước đầu khảo sát Tương ưng bộ, có thể kể đến những kinh như: Kinh Vakkali (S.22.87-III.124); Kinh Assaji (S.22.88-III.126); Kinh Khemaka (S.22.89-III.127-132); Kinh Dīghāvu (S.55.3-V.345-34); Kinh Anāthapiṇḍika thứ nhất (S.55.26-V.380). Nhân đây, chúng tôi xin lược trích Kinh Vakkali (S.22.87-III.124) qua bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu như là một minh chứng về sự vận dụng linh hoạt này:
 Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Vakkali trú tại nhà một thợ gốm, đang bị bệnh, đau đớntrầm trọng.
Rồi Tôn giả Vakkali gọi những người thị giả:
- Đến đây, các Hiền giả! Hãy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: “Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Vakkali bị bệnh, đau đớntrầm trọng; (Vakkali) cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn và thưa: ‘Lành thay, bạch Thế TônThế Tôn vì lòng từ mẫn hãy đi đến Tỷ-kheo Vakkali.’”
[Phật dạy]:
- Này Vakkali, ông nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, là khổ hay là lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
- Thọ... Tưởng... Các hành... Thức là thường hay vô thường?
- Là vô thường, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường là khổ hay lạc?
- Là khổ, bạch Thế Tôn.
- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng khi quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"?
- Thưa không, bạch Thế Tôn.
15-16) - Do vậy, ở đây... thấy vậy... "... không còn trở lui trạng thái này nữa". Vị ấy biết rõ như vậy.
Bên cạnh những tư liệu thuộc văn hệ Pāli vừa nêu, trong tư liệu Hán tạng, cụ thể là bộ Thanh quy của ngài Bách Trượng (百丈, 720-814), cũng ghi nhận rằng, khi một vị trụ trì viên tịch, ngoài những nghi lễ cần thiết thì cần phải tụng kệ Vô thường. Theo Thanh quy hướng dẫn, “Tất cả những Phật sự [trong tang lễ] đều nên miễn giảm, chỉ nên tụng bài kệ Vô thường, giống như lễ tang của một vị Tăng thông thường, không nên phung phí tài vật của thường trụ và cũng không nên làm phiền nhọc đại chúng.[5]
Đối với thể thức tang nghi Tăng sĩ ở một số nước Nam Á, theo ghi chép của ngài Nghĩa Tịnh (義淨, 635-713) trong Nam Hải ký quy nội pháp truyện thì trong pháp thức lễ tang của hàng Tỷ-kheo có tụng bài kinh Vô thường:
Như vậy, theo lời Phật dạy, Tỷ-kheo viên tịchquán sát và biết rõ [vị ấy] đã chết hoàn toàn thì trong ngày đó khiêng [di thể] đến nơi hỏa táng rồi nhanh chóng dùng lửa hỏa thiêu. Trong lúc hỏa táng, bạn bè thân hữu đều vì người mất mà ngồi một bên, hoặc kết cỏ để làm tòa, hoặc dùng đất làm đàn tế, hoặc bày biện gạch đá để có chỗ tôn trí di vật. Thỉnh một vị có năng lực tụng một đoạn hoặc một trang kinh Vô thường, chớ [tụng] quá lâu khiến chúng mỏi mệt, (kinh này có ghi kèm trên phần Biệt lục), sau đó mỗi người đều niệm vô thường rồi trở về trụ xứ.[6]
Ở đây, việc tụng “Kệ vô thường” hoặc “Kinh vô thường” trong tang lễ được ghi nhận trong nhiều tác phẩm kinh, luật. Đặc biệt, trong những dịch phẩm của ngài Nghĩa Tịnh có bản kinh “Vô thường”, gọi đủ là “Phật thuyết vô thường kinh”[7], bản kinh này trong nội dung có liên hệ một phần với Kinh Vô ngã tướngVấn đề này, chúng tôi sẽ đề cập trong một chuyên khảo khác.
 Có thể nói, những liên hệ mở rộng ở trên đã góp phần lý giải vì sao Kinh vô ngã tướng được uyển chuyển vận dụng trong pháp sự tang nghi của nhiều truyền thống Phật giáo mà ở đây là trong Nghi thức tụng niệm của Phật giáo Khất sĩ Việt Nam.

2. Tính chất quan trọng, đặc thù trong việc chuyển thể kinh điển sang thi kệ và thực tế việc chuyển thể này trong quá khứ cũng như hiện tại

Trước hết, nếu căn cứ vào chín thể tài kinh điển theo quan điểm của Phật giáo Nguyên thủy hay mười hai thể tài theo Phật giáo Đại thừa thì bài Kinh vô ngã tướng thuộc thể loại Khế kinh (契經), cũng gọi là Trường hàng (長行), nói theo ngôn ngữ hiện đại thì thuộc về thể loại văn xuôi. Trong văn học nói chung và đặc thù kinh điển nói riêng, từ thể tài văn chương này khi được chuyển sang một dạng thể tài văn chương khác, mà ở đây là từ thể Trường hàng được chuyển sang dạng Kệ tụng đòi hỏi phải có sự cẩn trọng và nghiêm túc, vì có những liên hệ đến giới luật và cả trong thực tiễn truyền thừa kinh điển nói chung.
2.1. Việc chuyển thể tài kinh điển sang dạng có niêm luật theo quy định giới luật

Theo Cullavagga, có hai vị Tỷ-kheo tên là Yameḷu và Tekula vốn xuất thân từ dòng dõi Bà-la-môn giỏi về văn chương, đã đến cầu thỉnh Đức Phật rằng:
 - Bạch Ngài, hiện nay các Tỷ-kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy đang làm hỏng lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật (chandaso).
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: …(như trên)…
- Này những kẻ rồ dại kia, vì sao các ngươi lại nói như vầy: “Bạch Ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của Đức Phật sang dạng có niêm luật”? Này những kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,… (như trên)…
Sau khi khiển trách, Ngài đã thuyết Pháp thoại rồi bảo các Tỷ-kheo rằng:
- Này các Tỷ-kheo, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkaṭa (tác ác). Này các Tỷ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)[8].
Theo nghiên cứu của Étienne Lamotte,[9] có sáu bản Luật tạng cùng đề cập đến câu chuyện này, tức là quy định không cho phép chuyển lời Phật dạy sang dạng có niêm luật.
Về quan điểm này, theo chúng tôi, có lẽ Đức Phật đã đặc biệt nhấn mạnh rằng, nếu chuyển lời Phật từ thể văn xuôi sang dạng kệ tụng có niêm luật thì dễ xảy ra tình trạng gò câu, bớt chữ, thế nên nghĩa lý dễ bị hiểu nhầm.
Một trong những trường hợp bất cập từng xảy ra theo quan điểm vừa nêu, đó là cách hiểu về cụm từ “Chiên đàn hải ngạn” (栴檀海岸) như là một loại chiên-đàn mọc bên bờ biển trong bài kệ Tán hương (香讚).[10] Thực ra, theo Diệu pháp liên hoa kinh 妙法蓮華經 (T.09. 0262.6. 0053b02), gọi cho đầy đủ là Hải thử ngạn chiên đàn (海此岸栴檀). Khảo về nguyên tác Sanskrit của bản kinh này thì cụm từ vừa nêu nằm trong Dược Vương Bồ-tát bổn sự phẩm (藥王菩薩本事品, Bhaiṣajyarājapūrvayogaparivartaḥ) với nguyên tác Uragasāracandana (उरगसारचन्दन). Đại Phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh 大方廣佛華嚴經 (T.09. 0278.59 0778a20) dịch âm là Ưu-đà-già-sa-la chiên đàn (憂陀伽娑羅栴檀). Căn cứ vào Đà-la-ni tập kinh 陀羅尼集經 (T.18. 0901.1. 0789a09), thì đây là một trong tám loại hương, gồm Uất kim, Trầm thủy, Tô hợp, Huân lục, Hải thử ngạn chiên đànNgưu đầu chiên đànXạ hương và Long não, đó gọi là tám loại hương.[11]
Với lược khảo trên đã phần nào cho thấy dễ phát sinh những bất cập khi chuyển thể kinh điển từ thể Trường hàng sang dạng Kệ tụngTuy nhiên, khảo về lịch sử phiên dịch kinh điển trong quá khứ cũng như hiện tại, việc chuyển thể này đã từng được các nhà dịch kinh có thẩm quyền vận dụng và đã có những đóng góp nhất định.

2.2. Thực tiễn việc chuyển thể kinh điển từ văn xuôi sang kệ tụng trong quá khứ cũng như hiện tại.

Trong kinh điển Hán tạng và Nikāya,  có lẽ vị đầu tiên dùng thể kệ tụng để tán thán Phật, Pháp và Tăng là nhạc thần Bàn-già-dực (般遮翼),[12] cũng gọi là Nhạc thần Ngũ Kế (五髻, Pañcasikha)[13] với bài kệ tụng ca ngợi tình yêu, ca ngợi giáo pháp đi vào lòng người. Tương tựTương ưng bộ đã tập hợp những bài kệ tụng tán thán Tam bảo và những nhân duyên liên quan của Tỷ-kheo Vaṅgīsa thành một tuyển tập nhỏ, gọi là Tương ưng Vangīsa (Vaṅgīsasaṃyutta). Tuy nhiên, cả hai trường hợp này chỉ dựa theo hoàn cảnh thực tế để diễn kệ mà chưa phải là diễn kệ từ những bài kinh.
Có thể nói, dựa trên nên nội dung kinh để chuyển thể kệ tụng là một dạng thức của Phạm-bối. Phạm-bối, Phạn ngữ ghi là Bhāsa (भास), vốn chỉ cho một thể kịch thơ (dramatic poet)[14] trong văn chương Ấn Độ cổ đại.[15] Theo Phật Quang đại từ điển,[16] Phạm-bối là dùng lời ca và điệu nhạc để tụng kinh, tán vịnh, ca tụng ân đức của Phật. Cũng có khi được gọi là Thanh-bối, Tán-bối, Kinh-bối, Phạm-khúc, Phạm-phóng, Thanh-minh… lược xưng là Phạm-bối.
Ở Trung Hoa, sử liệu tương truyền rằng, Trần Tư Vương Tào Thực (陳思王曹植, 192-232) là con thứ của Tào Tháo (曹操, 155-220), vốn là một thi nhân, trong một lần dạo chơi núi Ngư (漁山), nghe trong không gian âm thanh Phạm-tán, nên sau đó đã soạn văn, chế âm, dựa vào kinh Thái tử thụy ứng bổn khởi, mà tạo ra Phạm-bối.[17] Sau sáng tác mang tính khởi đầu của Trần Tư Vương, Ưu-bà-tắc Chi Khiêm (優婆塞支謙) cũng là người thứ hai đã dựa trên Kinh Vô lượng thọ và Trung bổn khởi, để sáng tác nên Bồ-tát liên cú Phạm-bối (菩薩連句梵唄) theo thể tam khế thanh (thể kệ tụng ba chữ).[18]
Theo dòng chảy lịch sử, để Phật pháp dễ dàng lan tỏa vào quần chúng, nhất là trong giai đoạn mà trình độ dân trí cũng như kiến thức Phật học còn bị giới hạn như ở Việt Nam đầu và giữa thế kỷ XX, đã có nhiều nhà phiên dịch đã mạnh dạn diễn kệ những bài kinh vốn từ thể Trường hàng. Trong số đó có thể kể đến như Kinh A Di Đà theo thể thơ lục bát của HT.Thích Khánh Anh (1895-1961), ở chùa Phước Hậu, Tam Bình, Vĩnh Long; Kinh Diệu pháp liên hoaphẩm Phổ môn theo thể thơ song thất lục bát của cố HT.Thích Từ Bạch, ở chùa An Phú, Quận 8, Sài gòn… Hòa cùng xu thế này, có nhiều tác giả đã nỗ lực diễn thơ kinh điển Phật giáo mà ở đây là bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng của Ni trưởng Huỳnh Liên.

3. Vài nhận định ban đầu thay lời kết luận về bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng của Ni trưởng Huỳnh Liên

Do mục tiêu chủ yếu của bài viết là tập trung vào việc cung cấp những tư liệu mang tính cội nguồn của bài Kinh Vô ngã tướng, cũng như những mở rộng liên quan; thế nên việc khảo sát, đánh giá nội dung bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng của Ni trưởng Huỳnh Liên không phải là trọng tâm của đề tài. Mặc dù vậy, trong khuôn khổ bước đầu, người viết có những nhận định và đề xuất sơ bộ như sau:
Thứ nhất, bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng đã chuyển tải khá đầy đủ những khái niệm, những mệnh đề then chốt so với nguyên tác của bản kinh. Để dễ hình dungchúng tôi xin lược trích một vài đoạn kinh Tương ưng bộ từ nguyên tác Pāli, bản dịch của HT.Thích Minh Châu và bản diễn kệ theo bảng đối chiếu sau:

Anattalakkhaṇa Sutta (S.22.59-III.66)

Kinh Vô ngã tướng (Hòa thượng Thích Minh Châu dịch)

Kinh Vô ngã tướng (Ni trưởng Huỳnh Liên diễn kệ)

Rūpaṁ, bhikkhave, anattā

Sắc, này các Tỷ-kheo, là vô ngã.

Dạy năm vị Tỷ-kheo.

 Rằng sắc thân vô ngã.

Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe: ‘evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ti.

Và này các Tỷ-kheo, vì sắc là vô ngã. Do vậy sắc đi đến bệnh hoạn, và không thể có được các sắc: “Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này.

Vì sắc thân vô ngã

Nên thường chịu khổ đau

Vì sắc thân vô ngã

Cho nên không thể có

Xin thân được thế này

Xin thân đừng thế nọ.

 

Taṁ kiṁ maññatha, bhikkhave, rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vā”ti?

“Aniccaṁ, bhante”.

Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay vô thường?

- Là vô thường, bạch Thế Tôn.

Này Tỷ-kheo các bậc

Thân thường hay vô thường?

Thân vô thườngbạch Phật.

 

Yaṁ kiñci viññāṇaṁ atītā­nāga­ta­pa­c­cu­p­pa­n­naṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yaṁ dūre santike vā, sabbaṁ viññāṇaṁ: ‘netaṁ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti evametaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ

Phàm thức gì quá khứvị laihiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần; tất cả thức cần phải như thật quán với chánh trí tuệ như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.

Thức thô, tế, quý, tiện

Thức bên trong, bên ngoài

Thức tam thế cận, viễn

Cũng chỉ là thức thôi. 

Các Thầy dùng tuệ trí

Xem thức theo chơn lý

Đó chẳng phải là ta

Của ta, thân ta vậy!

 

 
Thứ hai, bản diễn kệ đã lựa chọn thể tài ngũ ngôn tứ tuyệt để chuyển thể, từ ngữ giản dị, vần điệu hài hòa, dễ dàng tụng đọc. Chính vì việc dễ dàng tụng đọc, thế nên trong nghi thức tụng niệm ở một vài chùa đơn lẻ hiện đang sử dụng bản diễn kệ này. Về sự đóng góp của thơ ca thông qua hình thức thi kệ, nói như nhà nghiên cứu văn họcđồng thời là đệ tử nhà Phật,[19] tên là Lưu Hiệp (劉勰, 465-522), trong tác phẩm Văn tâm điêu long (文心雕龍), khi đề cập đến thể văn chương tụng, tán (頌贊)[20]: Ở trong bốn thể thì tụng là cái cao nhất. Tụng là chứa đựng. Nó dùng để ca ngợi cái đức lớn và thuật lại các hình dung… Tụng là những bài ca chính thức của tôn miếu chứ không phải thứ thơ ca vịnh thông thường lúc yến tiệc.[21]
Thứ ba, về phương diện hạn chế, trong một số đoạn, bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng có một vài từ, ngữ dường như đi hơi xa so với nguyên tác. Chẳng hạn như thay chữ sắc (rūpa) bằng chữ thân; bổ sung cụm từ bổn ngã vốn không có trong nguyên tác, xin nêu dẫn lại theo bảng sau:

Kinh Tương ưng bộ (S.22.59-III.66)

Diễn kệ Kinh Vô ngã tướng

Mong rằng sắc của tôi như thế này! Mong rằng sắc của tôi chẳng phải như thế này

Xin thân được thế này

Xin thân đừng thế nọ.

Thế Tôn thuyết như vậy. Nhóm năm vị Tỷ-kheo hoan hỷtín thọ lời Thế Tôn dạy. Trong khi lời dạy này được nói lên, tâm của nhóm năm vị Tỷ-kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

 

Phật giảng kinh vừa dứt

Năm Tỷ-kheo hỷ hoan

Bổn ngã không còn chấp

Lậu hoặc thảy tiêu tan

 

 
 
Theo chúng tôi, nếu như những trường hợp vừa nêu được gia tâm, chăm chút và hoàn thiện thì đây là một bản diễn kệ Kinh Vô ngã tướng vừa trung thành với nguyên tác vừa tạo nên nhiều xúc cảm chân thực trong khi trì tụng.

[1] Ni giới Hệ phái Khất sĩNi trưởng Huỳnh Liên - cuộc đời và đạo nghiệp, NXB.Hồng Đức, 2016, tr.138-141.

[2] Hệ phái Khất sĩNghi thức tụng niệm, NXB.Tôn Giáo, 2013, tr.147.

[3] Anattalakkhaṇa Sutta.

[4] Allon, Mark (2020)  “A Gandhari Saṃyukta-āgama Version of the ‘Discourse on Not-self’ (Pāli: Anattalakkhaṇa-sutta, Sanskrit: Anātmalakṣaṇa-sūtra)” in Dhammadinnā, ed. Research on the Saṃyukta-āgama. Dharma Drum Institute of Liberal Arts Research Series, pp.201-258. Taipei: Dharma Drum Publishing Co.

[5] Sắc tu Bách Trượng thanh quy 勅修百丈清規 (T.48. 2025.3. 1127b06): 一切佛事並免但舉無常偈同亡僧津送毋費常住毋勞大眾.

[6] Nam Hải ký quy nội pháp truyện 南海寄歸內法傳 (T.54. 2125.2. 0216c06-0216c11): 然依佛教苾芻亡者觀知決死當日舁向燒處尋即以火焚之當燒之時親友咸萃在一邊坐或結草為座或聚土作臺或置甎石以充坐物令一能者誦無常經半紙一紙勿令疲久(其經別錄附上) 然後各念無常還歸住處.

[7] Phật thuyết vô thường kinh 佛說無常經 (T.17. 0801. 0745b07-0747a15).

[8] Cullavagga (Tiểu phẩm), chương “Các tiểu sự” (khuddakavatthukkhandhakaṃ), tụng phẩm thứ ba, đoạn 180, bản dịch tiếng Việt của Tỷ-kheo Indacanda.

[9] Lamotte, Étienne.,  History of Indian Buddhism. Paris: Institut Orientaliste Louvain-La-Neuve, 1988, p.555.

[10]  Nguyên tác: Chiên đàn hải ngạn. Lô nhiệt danh hương. Da-du mẫu tử lưỡng vô ương. Hỏa nội đắc thanh lươngChí tâm kim tương. Nhất chú biến thập phương. (栴檀海岸. 爐爇名香. 耶輸母子兩無殃.火內得清涼. 至心今將.一炷遍十方). Xem thêm, Pháp hoa kinh tam đại bộ bổ chú 法華經三大部補注 (X.28. 586.11. 0354c05).

[11] 八種香謂欝金沈水蘇合薰陸海此岸栴檀牛頭栴檀麝香龍腦香是八種香.

[12] Xem, Thích-đề-hoàn-nhân vấn kinh  釋提桓因問經 (T.01. 0014. 0062b28).

[13] Xem, Thích vấn kinh 釋問經 (T.02. 0026. 134. 0632c28).

[14] M.Monier-Williams, A Sanskrit English Dictionary. Springfield, VA: Nataraj Books, 2014, p.756.

[15] T.R.S. Sharma. Ancient Indian Literature: Vedic Sanskrit and Pāli, Vol 2. Delhi: Sahitya Akademi, 2004, p.263.

[16] Phật Quang đại từ điển, tập 4, Sa-môn Thích Quảng Độ dịch, Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc, xuất bản, 2000, tr.4032-4034.

[17] Xem, Cao Tăng truyện 高僧傳 (T.50. 2059.13. 0415a13); Phật Tổ thống kỷ 佛祖統紀 (T.49 2035.35. 0331c03).

[18] Lịch đại Tam bảo ký 歷代三寶紀 (T. 49. 2034.5. 0058c14-0059a17).

[19]  Lưu Hiệp (劉勰) làm quan Thông sự xá nhân (通事舍人) dưới triều Lương Vũ Đế (梁武帝, 464-549), vào năm Đại Đồng thứ tư (538) phát nguyện xuất gia, được vua Lương Vũ Đế ân ban tên là Tuệ Địa (慧地). Xem tại, Phật Tố thống kỷ (T.49. 2035.37. 0351a26).

[20] Nguyên tác: 劉勰, 文心雕龍, (頌,贊第九), 四始之至,頌居其極. 頌者,容也,所以美盛德而述形容也…斯乃宗廟之正歌,非宴饗之常詠也.

[21] Lưu HiệpVăn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, NXB.Lao Động, 2007, tr.51.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38510)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14659)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14655)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14074)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14962)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16574)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29920)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16234)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15560)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14925)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14915)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17897)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15599)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38694)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26749)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39688)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50803)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38772)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35072)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18331)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16490)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42426)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39275)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35635)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17476)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46553)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17171)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28512)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19013)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17609)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17124)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17572)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16551)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16916)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30871)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16954)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18521)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18485)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17395)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18179)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17086)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23522)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17012)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17475)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17694)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17075)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15753)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18066)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17228)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29546)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27753)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18196)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16132)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15384)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23064)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14848)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55145)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14212)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13265)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant