Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng

06 Tháng Bảy 202215:35(Xem: 1972)
Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng

Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng

Nguyễn Thế Đăng

 Ánh Sáng Bản Tâm Theo Lục Tổ Huệ Năng



Bản tâm
tự tâmbản tánhtự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để chỉ bản tánh của tâm, tự tánh của tâm; nhưng danh từ tự tánh được ngài dùng nhiều nhất. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, ngài Huệ Năng nói bản tâm là tánh Không và ánh sáng (hay tánh sáng). Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết hơn về hai tính cách chính của bản tâm là tánh Không và ánh sáng.

 

1/Bản tâm là tánh Không.

Ngài Huệ Năng nói Ma ha Bát nhã ba la mật (Đại Trí huệ rốt ráo) như sau:

Các thiện tri thức! Người đời suốt ngày miệng niệm Bát nhã (Trí huệ) mà chẳng biết tự tánh Bát nhã cũng như nói ăn mà chẳng no. Miệng chỉ nói Không thì muôn kiếp chẳng được cái thấy tánh, rốt cuộc không ích gì. Miệng niệm tâm làm, ắt tâm miệng tương ưngBản tánh là Phật, lìa tánh thì không có Phật mà nào khác.

Sao gọi là Ma ha? Ma ha là lớn, tâm lượng rộng lớn như hư không, không có biên bờ, cũng không vuông tròn lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không giận không vui, không phải không trái, không lành không dữ, không đầu không cuối. Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc. Tự tánh Chân Không cũng lại như vậy”. (phẩm Trí Huệ)

 

“Bản tánh là Phật, tự tâm là Phật”. Đây là nền tảng chung của tất cả Phật giáo.

Đạo sư Padmasambhava (khoảng thế kỷ thứ 8-9), một trong những vị truyền Phật giáo vào Tây Tạng, cũng dạy:

“Tất cả chư Phật trong ba thời

Chứng ngộ tự tâm vượt khỏi sanh khởi

Từ trạng thái vô sanh này, các ngài thị hiện như ba thân

Và không thể thành tựu nếu lìa khỏi đó

Hãy quyết chắc điều này”.

(Treasures from Juniper Ridge - Những Kho tàng từ đỉnh cây Tùng xù – nxb Thiện Tri Thức 2020)

Đoạn sau Lục Tổ nói về tự tánh Chân Không, bao trùm tất cả mọi hiện hữu. Không những tánh Không bao trùm tất cả mọi hiện hữu, mà mọi hiện hữu đều là tánh Không.  

Tâm và cảnh đều là tánh Không:

Các cõi Phật đồng như hư không, diệu tánh của người đời vốn Không, không có pháp nào có thể đắc”.

 

Thiện tri thức! Hư không thế giới bao hàm vạn vật sắc tướngmặt trời mặt trăng tinh tú, núi sông đất đai, suối nguồn, khe rạch, cây cỏ, rừng rú, người thiện, người ác, pháp thiện, pháp ác, thiên đường địa ngục, tất cả đại dương, các núi Tu di, đều ở trong Không. Tánh Không của người đời cũng lại như vậy”.

Thế giớichúng sanh, và tâm là tánh KhôngTánh Không là thật tánh của tất cả thân tâm và thế giớichúng sanh.

Thế nên Lục Tổ quy pháp môn của ngài về Vô niệmVô tướng và Vô trụ:

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta từ xưa đến nay, trước hết lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc. Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướngVô niệm là nơi niệm mà lìa niệm. Vô trụ là bản tánh của con người” (phẩm Định Huệ).

Vô tướngVô niệmVô trụ là tánh Không. Như thế, thực hành thiền định thiền quán bản tâm hay tự tánh là thiền định thiền quán tánh Không.

 

2/ Bản tâm là ánh sáng

Bản tâm không phải là trống rỗng, chẳng có gì cả, chẳng là gì cả. Lục Tổ bác bỏ cái không vô ký này: 

Thiện tri thức! Chớ nghe ta nói Không bèn bám chấp không. Thứ nhất chớ bám chấp không, nếu tâm trống không mà ngồi yên lặng, tức là bám chấp vào cái không vô ký. Lại có người mê, tâm trống không mà tĩnh tọa, trăm thứ không nghĩ, bèn tự cho đây là lớn. Với hạng người ấy không thể nói được, vì mắc vào tà kiến” (phẩm Trí huệ).

Bản tâm có ánh sáng, phóng ánh sáng:

Trên đất tâm mình là tánh giác Như Lai, phóng ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá các cõi trời Lục dụcTự tánh chiếu vào bên trong ba độc liền dứt, các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt. Trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế thì làm sao đến cõi kia được”. (phẩm Nghi vấn)

Ánh sáng ấy thường hiện hữu nơi tâm mỗi người, chỉ vì chạy theo các bóng dáng bên ngoài nên tự che lấp:

Tất cả chúng sanh vì tự che lấp ánh sáng, tham ái trần cảnh, ngoài thì duyên níu, trong thì nhiễu loạn, nên đành chịu rong ruổi theo sanh tử” (phẩm Cơ duyên).

Bản tâm hay tự tánh chính là Thanh tịnh Pháp thân Phật, trong đó thường sáng như mặt trời mặt trăng:

Sao gọi là Thanh tịnh Pháp thân Phật? Người đời tánh vốn thanh tịnh. Muôn pháp đều từ tự tánh sanh, nghĩ lường tất cả sự ác tức sanh hạnh ác, nghĩ lường tất cả sự thiện tức sanh hạnh thiện. Như vậy các pháp ở trong tự tánh mình, như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, nhưng vì mây bay che lấp nên trên sáng dưới tối. Bỗng gặp gió thổi mây tan thì trên dưới đều sáng, muôn hình tượng đều hiện.

Thiện tri thức! Trí như mặt trời, huệ như mặt trăngTrí huệ thường sáng, do vì ở ngoài bám cảnh nên bị đám mây vọng niệm che khuất tự tánh mà chẳng được sáng tỏ” (phẩm Sám hối).

Bản tâm tự có ánh sáng, mà Lục Tổ gọi là “linh quang chính mình”:

Chẳng thấy một pháp còn cái không thấy

Giống như mây nổi che mặt trời

Chẳng biết một pháp giữ cái không biết

Lại như hư không sanh điện chớp.

Cái thấy biết này bỗng dấy lên

Lầm nhận đâu từng hiểu phương tiện

Ông phải một niệm tự biết sai

Linh quang chính mình thường hiển hiện.

(phẩm Cơ duyên).

 

Trong phẩm Định HuệLục Tổ giảng định và huệ là một thể, định như ngọn đèn, huệ như ánh sáng, cả hai không lìa nhau:

Thiện tri thức! Pháp môn đây của ta lấy định huệ làm căn bảnĐại chúng chớ mê mà nói định huệ riêng khác. Định và huệ là một thể, chẳng phải là hai. Định là thể của huệ, huệ là dụng của định, ngay lúc huệ thì định ở trong huệ, ngay lúc định thì huệ ở trong định. Nếu biết nghĩa đây tức là định huệ đồng học.

Thiện tri thức! Định huệ do đâu mà bình đẳng? Giống như đèn sáng, có đèn là sáng, không đèn thì tối. Đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai, thể vốn đồng nhất. Pháp định huệ đây cũng như vậy”.

Một chữ trong kinh luận thường được dùng đồng nghĩa với định huệ là chỉ quán. Ngài Huệ Năng dạy pháp Thiền của ngài là “định huệ đồng học”, “định huệ bình đẳng”, tức là chỉ quán đồng thời.

Định hay chỉ, là tánh Không bất động, tịch lặng. Huệ hay quán là ánh sáng bản tâm thường soi chiếu. Định huệtánh Không và ánh sáng, Không Và Minh, vốn có nơi bản tâmĐịnh huệ vốn có là Không-Minh, Tịch-Chiếu vốn có nơi bản tâm và cũng chính là bản tâm, là bản tánh của tâm. 

Nhận biết tánh Không và tánh sáng (“tánh sáng” là chữ Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông dùng nhiều trong Cư Trần Lạc Đạo Phú để chỉ ánh sáng bản tâm) là con đường trở về với bản tâm vốn là tánh Không và tánh sáng.

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn còn nhiều chỗ nói đến ánh sáng của bản tâm. Ở đây chỉ trích thêm vài đoạn.

Vô thượng đại Niết bàn

Tròn sáng thường tịch chiếu

Phàm ngu gọi là chết

Ngoại đạo chấp là đoạn…

(phẩm Cơ duyên)

Ba thân nguyên thể mình

Bốn trí vốn tâm minh

Thân trí dung không ngại

Ứng vật mặc tùy hình…

(phẩm Cơ duyên)

 

3/ Thấy và sống trong tánh Không và tánh sáng

Người ta không thấy và không sống được trong bản tâm tánh Không và tánh sáng bởi vì bị che chướng bởi các phiền não của mình và bởi các tướng bên ngoài, do đó bị lạc vào sanh tửLục Tổ nói:

Ông nay phải biết: Phật vì tất cả các người mê, họ nhận năm uẩn hòa hiệp làm tướng ngoại trần, rồi ham sống ghét chết, niệm niệm trôi lăn, chẳng biết là mộng huyễn hư giả, uổng chịu luân hồi, lấy Niết bàn thường lạc chuyển thành tướng khổ mà trọn ngày tìm kiếm.

Vì thế Phật thương xót nên chỉ bày Niết bàn chân lạc, trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại không có sanh diệt nào để diệt, đây là tịch diệt hiện tiềnĐang khi hiện tiền cũng không có cái lượng hiện tiền mới gọi là thường lạc.

Cái lạc này không có người thọ cũng không có người không thọ, thế thì làm sao có tên một thể năm dụng? Huống gì lại nói Niết bàn cấm ngăn các pháp, làm cho vĩnh viễn chẳng sanh. Đó là báng Phật, nhạo Pháp”. (phẩm Cơ duyên)

Sống trong bản tâm tánh Không tánh giác thì biết năm uẩnthế giới ngoại trần là mộng huyễn hư giả, nên chẳng bị trôi lăn trong sanh tử hư vọng.

Khi an trụ trong bản tâm tánh Không tánh sáng thì tất cả sanh tử đều “bình đẳng như mộng huyễn”, vì tất cả mọi hình tướng đều là sự hiện bóng như huyễn như mộng trên nền tảng tánh Không và tánh sáng:

Chỉ người vượt thức lượng

Thông đạt không lấy bỏ

Vì biết pháp năm uẩn

Và ngã trong năm uẩn.

Ngoài hiện các sắc tượng

Tất cả tướng âm thanh

Bình đẳng như mộng huyễn

Không khởi (cái) thấy phàm thánh

Không tạo (cái) thấy Niết bàn

Hai bên, ba thời dứt…

(phẩm Cơ duyên)

 

Khi an trụ trong tánh Không và tánh sáng thì tất cả pháp giới trở thành môi trường của tự do:

Thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn khắp cả pháp giới, dùng bèn rõ rõ phân minhỨng dụng liền biết hết thảy, tất cả là một, một là tất cả, đến đi tự do, tâm thể không ngưng ngại, tức là Trí huệ Bát nhã”. (phẩm Trí huệ)

Niệm niệm an trụ trong tánh Không và tánh sáng đó là thực hành, đó là thường trực thấy tánh:

Niệm niệm thường tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành, tự thành Phật đạo” (phẩm Ngồi thiền).

An trụ trong tánh Không và tánh sáng thì giải thoát ngay trong cuộc đời này, tự do ngay trong thế gian này. Vì tất cả mọi tướng xuất hiện đều “bình đẳng như mộng như huyễn”, đây là tự do, nên lập cũng được, không lập cũng được:

Nếu ngộ tự tánh thì cũng chẳng lập Bồ đề Niết bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến. Không có một pháp có thể đắc mới có thể kiến lập muôn pháp. Nếu rõ ý này, cũng gọi là Phật thân, cũng gọi là Bồ đề Niết bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến.

Người thấy tánh thì lập cũng được, không lập cũng được, đến đi tự do, không ngưng không ngại, ứng dụng tùy làm, ứng lời tùy đáp, hiện khắp Hóa thân mà chẳng lìa tự tánh, tức là được tự tại thần thôngdu hý tam muội. Ấy gọi là thấy tánh” (phẩm Đốn tiệm).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9986)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7092)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6990)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9356)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5835)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7100)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6521)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6099)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7161)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14385)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20436)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9473)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7869)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8185)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7450)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9375)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7445)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7479)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7667)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9473)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8781)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7372)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7957)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7012)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7670)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9860)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8284)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8835)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7669)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8629)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8001)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9011)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9429)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8736)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8880)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7226)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9184)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8599)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7889)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9620)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10166)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8769)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8373)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7629)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9331)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7479)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15352)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7301)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8479)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12239)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7302)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11493)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8316)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8041)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7904)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8920)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
(Xem: 7410)
Trời mưa, trời nắng là chuyện bình thường. Thời tiết phải có lúc nắng, lúc mưa, không thể nào bầu trời không mưa hay...
(Xem: 18179)
“Ăn Cơm Hương Tích, uống Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant