Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

24 Tháng Mười Một 202207:19(Xem: 1287)
“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già
“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

Huỳnh Ngọc Chiến


“Kịch Bản” Đón Phật Trong Kinh Lăng-già

Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật. Trong các bộ Trường Bộ Kinh hay Trung Bộ Kinh, v.v.  sau câu mở đầu “Tôi nghe như vầy” là gần như ta thấy hiện ra hình ảnh Đức Thế Tôn ngồi một cách bình dị nơi  khu vườn xoài của Kỳ-bà (Jīvaka) tại thành Vương-xá (Rājagaha), để thuyết giảng cho chúng Tỳ-kheo bằng những pháp thoại cũng bình dị và dễ hiểu. Hoặc có khi Đức Phật  thuyết pháp tại các bộ lạc, hoặc các tiểu quốc, v.v.  Nhưng nói chung là Đức Phật cứ tùy nghi thuyết pháp ở mọi nơi, trong những bối cảnh rất đổi trần gian.

Bước sang thế giới kinh điển đại thừa thì mọi chuyện đều đổi khác. Cái Bồ Đề Đạo Tràng bình dị trong các kinh Nikāya được chuyển thành một bối cảnh cực kỳ hoành tráng. Chỗ ngồi của Đức Phật biến thành sư tử tọa, thính chúng phải là hàng vạn Bồ Tát thông tuệ từ vô lượng các Phật độ cùng về vân tập. Mỗi lần Đức Phật chuẩn bị thuyết pháp là cả một kịch bản hoành tráng về không gian lẫn thính chúng, khiến ta không khỏi khâm phục trí tưởng tượng cực kỳ phong phú của những vị Bồ-tát viết kinh.

Thử nhìn thính chúng trong kinh Duy Ma (bản dịch của cố HT.Thích Huệ Hưng):  

tám nghìn chúng Đại Tỳ-kheo, hai vạn hai nghìn Bồ-tát, là những vị có tiếng tăm, đều đã thành tựu trí hạnh đại thừa, do nhờ oai thần của chư Phật lập nên. Các Ngài làm bức thành hộ phápgiữ gìn chánh pháp, diễn nói pháp âm rất oai hùng, tự tại vô úy như sư tử rống danh đồn xa khắp mười phương. Người đời không cầu thỉnh mà các Ngài sẵn sàng làm bạn giúp cho an vui. Các Ngài xương minh Tam bảo không dể dứt mất, hàng phục tất cả ma oán, ngăn dẹp các ngoại đạo; sáu căn ba nghiệp đều đã thanh tịnh; trọn lìa năm món che ngăn và mười điều ràng buộc. Tâm thường an trụ nơi lý vô ngại giải thoátniệm định tổng trì  bình đẳngbiện tài thông suốt như suối tuôn không dứt. Các hạnh bồ thí, trì giớí, nhẫn nhụctinh tấnthiền địnhtrí tuệ và sức phương tiện lợi mình lợì người thảy đều đầy đủ. Đã được đến bực vô sở đắc mà không khởi pháp nhẫn (vô sinh pháp nhẫn), hay tùy thuận dìễn nói pháp luân bất thối, khéo hiểu rõ chân tướng các pháp, thấu biết căn cơ chúng sanhoai đức bao trùm đại chúng, không còn sợ sệt chi cả.

Còn đây là không gian

Bấy giờ Đức Phật nói Pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đông đảo cung kính vây quanh đấy, ví như núi chúa Tu Di hiển bày nơi bể cả. Ngài ngồi yên trên tòa Sư tử  trang nghiêm bằng các thứ báu, oai đức che trùm tất cả đại chúng… Lại nữa, các núi Tu Di, Mục Chơn Lân Dà , Đại Mục Chơn Lân ĐàTuyết SơnHương SơnBảo SơnKim SơnHắc SơnThiết ViĐại Thiết Vi, bể lớn, sông, rạch, dòng ngòi, nguốn suối, cũng với mặt trờimặt trăng, các ngôi sao, thiên cunglong cung và cùng các vị tôn thần, nơi cõi Tam thiên đại thiên thế giới này đều hiện trong lọng bảy báu, và chư Phật trong mười phương, chư Phật đang nói pháp, cũng hiện trong lọng bảy báu ấy.

Đại khái trên đây là “kịch bản” phổ biến chung để chuẩn bị cho Đức Phật thuyết pháp, mà ta thường  thấy trong phần mở đầu của hầu hết kinh điển Đại thừa, trừ kinh Nhập Lăng-già!  

Bản dịch kinh Nhập Lăng-già nổi tiếng của pháp sư Cầu Na Bạt Đà La đi thẳng vào trọng tâm của kinh chỉ bằng một chiêu thức “Nhất thiết Phật ngữ tâm” theo kiểu “khai môn kiến sơn”, chứ không  không có “vòng vò Tam Quốc”, nên ta không thấy được các bước chuẩn bị. Nhưng trong bản dịch của Thực Xoa Nan Đà và Bồ Đề Lưu Chi lại có một phẩm mở đầu, giống như bản Phạn ngữ hiện nay, và chính phẩm mở đầu đó đã cho ta thấy Đức Phật cùng “phái đoàn” các Bồ-tát đến thành Lăng Già để giảng pháp được chào đón theo một kịch bản vô cùng mãn  nhãn, khác hẳn với các kinh khác. Đó là một cảnh tượng siêu nhiên hòa quyện với môi trường thế gian  một cách rất đỗi hài hòa. 

Thính chúng dĩ nhiên cũng như bao kinh điển đại thừa khác, gồm những vị Bồ-tát đã:

…du hý đối với các loại tam muội, đầy đủ [mười] tự tại, [mười] lực và [sáu] thần thông, được chư Phật dùng tay làm phép quán đảnh. Các ngài đều khéo hiểu nghĩa tự tâm sở hiện, tùy thuận theo các loại tâm hành của chúng sinh mà điều phục giáo hóa; đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức và hai thứ vô ngã, các ngài đều thông đạt rốt ráo.[1]

Lăng-già (Laṅkā) là một hòn đảo cô độc nằm giữa đại dương, một trong số các hòn đảo ở miền nam Ấn ĐộLăng Già thường được đồng hóa với Ceylon, song các học giả vẫn chưa hoàn toàn nhất trí với nhau về điểm này. Từ “nhập” ở đây có lẽ ám chỉ việc đức Phật vượt biển vào đảo để thuyết pháp, và chính vì thế mà Ngài cùng các Bồ Tát được vua thành Lăng Già  là Quỷ vương Rāvana (La Bà Na) đón tiếp cực kỳ trọng thể. Kinh được xem như do Đức Phật tuyên thuyết trong thời gian Ngài an trú tại đó. Cuộc đối thoại diễn ra giữa đức Phật với Bồ-tát Đại Tuệ (Mahamāti), là bậc thượng thủ của các Bồ Tát vân tập tại đây. Dù được tuyên thuyết tại một địa điểm xa xôi như Lăng-già, nhưng nếu so sánh với kinh Hoa nghiêm được tuyên thuyết một phần trên các cõi trời huyền bí thì dù sao thành Lăng-già vẫn còn có một nền tảng mang tính trần tục hơn.

Cảnh thành Lăng-già, trong bản dịch của Thực Xoa Nan Đà và Cầu Na Bạt Đà La chỉ được mô tả chung chung là “thành này được trang nghiêm bằng hoa báu cùng vô số bảo thạch, v.v. ”, nhưng qua bản dịch của Bồ Đề Lưu Chi, địa điểm thuyết pháp đó mới được mô tả một cách tuyệt diệu qua nhiều chi tiết :

Núi này đó do vô số bảo tính tạo thành, giữa các bảo tính này, ánh sáng toả rực rỡ như trăm ngàn mặt trời chiếu sáng núi vàng. Lại có vô lượng vườn hoa, cây thơm đều là rừng hương báu, gió nhẹ thổi qua làm động cành rung lá, khiến trăm ngàn loại diệu hương nhất thời lan tỏa, trăm ngàn diệu âm nhất thời cùng phát. Núi non chập chùng khuất khúc, đâu đâu cũng có tiên đường, linh thất, khám thờ, đều do vô số vật báu tạo thành; trong ngoài cùng sáng chói khiến mặt trời mặt trăng không thể hiện ra. [2]

Rāvana, vua loài Dạ xoalập tức cùng chư quyến thuộc, cưỡi xe hoa [3] đi đến chỗ của Phật để thỉnh Đức Phật vào thành. Khi đến nơi, họ xuống xe, đi nhiễu quanh đức Phật ba vòng từ trái sang phải. Rồi tất cả cùng tấu nhạc, dùng miếng ngọc nhân-đa-là màu xanh để gãy đủ các loại nhạc khí; đàn xong, họ đặt cây đàn tỳ bà (vīṇā) qua một bên, cây đàn đó được khảm bằng ngọc lưu ly thượng phẩm, đặt trong lớp vải vô giá màu vàng nhạt (priyaṅgu); họ xướng đủ các âm điệu, như câu lục (saharṣya), thần tiên khúc (riṣabha), trì địa điệu (gāndhāra), minh ý (dhāvata), cận văn (niṣāda), trung lệnh (madhyama), kê thi ca (kāiśika), v.v. lời ca dặt dìu theo các giai điệu thổ phong (grāma), nhã điệu (mūrchana), v.v. giọng hát hài hòa theo tiếng đàn tỳ bà, rồi đọc lời kệ để ca ngợi Đức Phật.

Các điệu khúc này không có trong các bản Hán ngữ, có lẽ các dịch giả thời đó xem đây là những chi tiết không quan trong, nên chỉ lướt qua, thậm chí bỏ qua, nhưng nhìn dưới góc độ văn hóa và âm nhạc, ta sẽ  thấy có nhiều điểm vô cùng thú vị. Những tên gọi trên đây được dịch theo bản (Đ) và bản (H).

Ta có thể hình dung cảnh tượng đó như một buổi đại nhạc hội với đủ thể loại nào là Tango, Rumba, nào là  Bolero, Chachacha, nào là Valse, Paso Doble, v.v. lần lượt được diễn tấu làm nền cho những điệu múa nhịp nhàng của vô số thái nữ kiều diễm để đón chào Đức Phật cùng “phái đoàn” Bồ-tát vào thành Lăng-già. Dùng âm nhạc và thái nữ múa hát để thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp, đó là một kịch bản chưa từng  thấy xuất hiện  trong kinh điển  Đại thừa. Và có  lẽ chưa bao giờ trong nền văn học Ấn Độ, kể cả trong các bộ sử thi Mahābhārata và Rāmāyaṇa lại có một cảnh tượng chào đón bằng ca vũ hoành tráng và lộng lẫy đến mức đó. Giống như một đại lễ hội trần gian!

Mức độ kỳ ảo của buổi thuyết pháp lại được nâng lên thêm một tầng khi Đức Phật, để đáp ứng tâm nguyện thiết tha cầu pháp của Rāvana cùng chư quyến thuộc, đã dùng thần lực để biến “Thành Lăng-già lộng lẫy, có vô số bảo thạch trang nghiêm, có các đỉnh núi vây quanh, các núi này tươi mát, đẹp đẽ và có lưới ngọc che phủ.” thành vô số thành Lăng-già  được trang nghiêm bằng châu ngọc và vô lượng các vật bằng bảo châu lộng lẫy. Trên mỗi đỉnh núi đều hiện ra một đức Phật và Rāvana đứng đó, cùng với toàn thể pháp hội và Bồ-tát Đại Tuệ đang thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp; tất cả các quốc độ đều hiện ở đó, và nơi mỗi quốc độ đều có một bậc Đạo sư dùng diệu âm để thuyết về cảnh giới thánh trí  tự chứng.

Rồi sau đó bậc Đạo sư cùng chư Bồ-tát  biến mất trong hư không, để lại Rāvana đứng một mình trơ trọi trong lâu đài, khiến vị vua này hoát nhiên đại ngộ pháp tính (Dharmatā) cuả vạn pháp đều do tâm biến hiện.

Tiếp theo đó lại diễn ra một màn trình diễn âm nhạc kỳ diệu nữa giữa một không gian cực kỳ hoa lệ. Lúc bấy giờ, chúa tể thành Lăng-già, được Đức Thế Tôn cho phép, bèn từ chỗ ngồi trên đỉnh núi có trân bảo sáng rực rỡ như hoa sen báu bạch tịnh mà đứng dậy, có vô số thiên nữ vây quanh, với đầy đủ các loại hoa, tràng hoa, hương thơm, phan lọng, cờ xí, vòng khuyên, vương miện, khăn quấn đầu tiara lộng lẫy tuyệt vời chưa tùng có, chưa từng nghe bỗng hiện raâm nhạc được cử lên vang lừng hay hơn tất cả các thứ nhạc mà Trời, Rồng (Nagā), Dạ Xoa (Yaksha), Càn-thát-bà (Gandharva), RākshakaKhẩn Na La (Kinnara), Ma Hầu La Già (Mahoraga) và chúng sinh đã từng nghe; các nhạc cụ được tạo ra sánh ngang với bất cứ mọi thứ có trong cõi dục giới, và các nhạc cụ thù thắng như vậy cũng được nhìn thấy ở các cõi Phật; bao quanh Đức Thế Tôn và các Bồ-tát là tấm lưới bảo châuvô số cờ xí phan lọng đủ loại được trương ra trong hư không, cao bằng bảy cây sa-la (talanga) để cung nghinh đức Phật; từ trên trời cao phẩm vật cúng dường rắc xuống nhiều như mây trời và âm nhạc tấu lên vang lừng, chúa tể thành Lăng-già ngồi trên đỉnh núi trân báu có những tòa sen bằng bảo châu trang nghiêm. Các tòa sen này rực rỡ chói lọi chỉ kém ánh mặt trời.  

Cảnh tượng Đức Phật dùng lực để biến hóa một đỉnh Lăng-già thành ra vô số đỉnh Lăng-già tương tự thật chẳng khác nào trò chơi kính vạn hoa. Một đối tượng sẽ hóa thân thành vô số các đối tượng khác nhau, như khi ta bước vào một căn phòng làm bằng những tấm gương phản chiếu. Đây là cảnh tượng minh họa sinh động cho cảnh giới  “tương tức tương nhập”, “viên dung vô ngại”, “nhất thức nhất thiết”, v.v.  trong tư tưởng Hoa nghiêm. Tông Hoa nghiêm thường dùng những tấm gương làm thí dụ để minh giải tư tưởng ấy. Thử dựng một căn phong nhỏ với  tám tấm gương là những bức vách ở tám hướng, thêm một tấm ở phía trên, một tấm ở phía dưới, và ở giữa ta đặt một ngọn đèn. Mỗi tấm gương phản chiếu một ngọn đèn, cùng chín tấm gương kia. Đó cũng là cảnh tượng trên đỉnh  Lăng-già qua thần lực biến hóa của Đức Phật.

Chính vì không lưu ý đến điểm này mà cả hai bản dịch của Cầu Na Bạt Đà La và Thực Xoa Nan Đà có một điểm nhầm lẫn trong chương 2, là chương bắt đầu đi vào phần chính kinh. Cả hai bản đều dịch :

爾 時 大 慧 菩 薩 與 摩 帝 菩 薩 。俱 遊 一 切 諸 佛 剎 土 。承 佛 神 力 。從 坐 而 起 偏 袒 右 肩 右 膝 著 地 合 掌 恭 敬 。以 偈 讚 曰 : ( Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ cùng các Bồ-tát Đại Tuệ khác , vốn đã từng cùng nhau dạo chơi tất cả các cõi Phật, nương thần lực của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, vạch vai áo phải, quì gối phải xuống đất, chắp tay cung kính, dùng kệ tán thán Thế Tôn).

Cả hai bản dịch nổi tiếng này đều ghi là  Bồ-tát Đại Tuệ và Bồ-tát Ma Đế, tức tất cả hai vị, nhưng trong nguyên văn Phạn ngữ không có từ Ma Đế (Mati), mà vẫn là Đại Tuệ (Mahāmati).

Bản (S) dịch cũng không có Bồ-tát Ma Đế :

At that time Mahamati the Bodhisattva-Mahasattva who had visited all the Buddha-lands, together with all the Bodhisattvas, …” (Lúc bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ, vốn đã dạo chơi tất cả các cõi Phật, liền cùng tất cả những vị Bồ-tát khác…;

Bản (B) là dịch sát nguyên bản Phạn ngữ :

爾 時 聖 者 大 慧 菩 薩 與 諸 一 切 大 慧 菩 薩 。俱 遊 一 切 諸 佛 國 土 …” (Lúc bấy giờ, bậc giả thánh giả Bồ Tát Đại Tuệ cùng tất cả những Bồ-tát Đại Tuệ khác đã cùng nhau dạo chơi tất cả các cõi Phật…),

Bản dịch tiếng Việt của cư sĩ Tuệ Khai: “Lúc bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Bồ-ttát cùng tất cả những Bồ tát đại tuệ đều du hành ở tất cả đất nước chư Phật…,”[4] nhưng “Bồ-tát Đại Tuệ” ở đây lại được hiểu theo nghĩa là những “Bồ-tát có trí tuệ vĩ đại”, chứ không phải là tên riêng. Chỉ có bản (H) dịch sát nguyên tác Phạn ngữ và lý giải điểm này cực kỳ lý thú: do trước đó Đức Phật dùng thần lực biến hóa ra vô số pháp hội của thành Lăng-già để điểm hóa Rāvana về “vạn pháp duy tâm”, trong mỗi pháp hội đó đều có một Bồ-tát Đại Tuệ thỉnh pháp, nên tất cả những Bồ-tát Đại Tuệ ở chương này đều là một Đại Tuệ duy nhất, được biến hóa ra từ một “bản gốc Đại Tuệ”. Nhất thiết tức nhất!

Kịch bản này dường như không lặp lại lần thứ hai trong toàn bộ kinh điển Phật giáo. Và có một chi tiết lý thú là các Đức Như LaiỨng CúngChánh Đẳng Giác từ vô lượng kiếp trong trong quá khứ vẫn luôn ghé về thành này để giảng thuyết cùng một nội dung là cảnh giới thánh trí tự chứng. Ở đây, ta tưởng chừng như gặp lại tư tưởng Quy Hồi Vĩnh Cửu của Nietzche.

Mối quan hệ giữa chương mở đầu kỳ lạ này với nội dung kinh Nhập Lăng-già vẫn đang là một huyền án đối với các nhà nghiên cứu Phật họcChưa bao giờ kinh điển Phật giáo lại mô tả âm nhạc cặn kẽ và hào hứng đến thế. Phải chăng dùng âm nhạc để mở màn cho việc thuyết pháp là điểm lôi cuốn các đoàn truyền giáo trong quá khứ? Hay nó còn ẩn chứa một mật ý nào đó mà những vị Bồ-tát viết kinh muốn gởi gắm lại cho chúng ta? 

Ghi chú :

[1]   Những đoạn viết và trích dẫn liên quan đến nội dung kinh Nhập Lăng-già trong bài ày đều dựa vào ba bản dịch dưới đây: (1) The Lankavatara Sutra, a Mahayana text, translated from the Sanskrit by Daisetz Teitaro Suzuki, The Prajñā Press, 1978; viết tắt là bản (S); (2). Nhập Lăng-già kinhPhạn bản tân dịch 入 楞 伽 經 梵 本 新 譯, Đàm Tích Vĩnh dịch, Toàn thư văn hóa hữu hạn công ty, 2005; viết tắt là bản (Đ); (3). Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經 (Phạn Hán đối chiếu), Hoàng Bảo Sinh dịch, Trung Quốc Xã hội Khoa học xuất bản xã, 2018; viết tắt là bản (H).

[2]. 彼 山 種 種 寶 性 所 成 。 諸 寶 間 錯 光 明 赫 炎 。 如 百 千 日 照 曜 金 山 。 復 有 無 量 花 園 香 樹 皆 寶 香 林 。 微 風 吹 擊 搖 枝 動 葉 。 百 千 妙 香 一 時 流 布 。 百 千 妙 音 一 時 俱 發 。 重 巖 屈 曲 處 處 皆 有 仙 堂 靈 室 龕 窟 。 無 數 眾 寶 所 成 。 內 外 明 徹 日 月 光 暉 不 能 復 現 。(Nhập Lăng-già kinh 入 楞 伽 經, Bồ Đề Lưu Chi 菩 提 留 支, CBETA, 大 正 新 脩 大 正 藏 經, Vol. 16, No. 672.

[3]   Xe hoa (pauṣpakam vimānam) chỉ loại xe thần bay trong không trung, được trang trí bằng các loại hoa trời. Vimānam thường được dùng để chỉ cung điện, nên bản Thực Xoa Nan Đà dịch là “hoa cung điện 花 宮 殿”, nhưng nó cũng được dùng để chỉ loại xe bay. Pauṣpakam là tên xe. Xe hoa ở đây giống như các loại loan xa (xe loan) mà thần tiên dùng để cưỡi trên không, trong truyện cổ Trung Quốc.

[4]   https://thienphatgiao.org/kinh-nhap-lang-gia-tue-khai-dich/2/

(huynhngocchien.com)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11942)
Mục đích của Ðạo Phật là giải thoátgiác ngộ, và chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12838)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26703)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13096)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27087)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32922)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31726)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32624)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13051)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12187)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17558)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18786)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12597)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11800)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13153)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12263)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12529)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11680)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12028)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10646)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10950)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28381)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11193)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11410)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13617)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11066)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11462)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10931)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11223)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26418)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12423)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14918)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11091)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20397)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12386)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11520)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10799)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23992)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11896)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12354)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12877)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11101)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38783)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10594)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12250)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17762)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25138)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10583)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10811)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12083)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11371)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11644)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14763)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21478)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9946)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11295)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27434)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11205)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11880)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11052)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant