Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

09 Tháng Hai 202309:32(Xem: 1465)
Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian

Bồ Tát Hạnh Phật Hóa Thế Gian


Nguyễn Thế Đăng


Bo Tat

Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tátĐời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.

Tôi sẽ trừ diệt phiền não cho tất cả chúng sanh. Tôi phải đóng cửa các nẻo đường xấu ác cho tất cả chúng sanh, mở cửa các nẻo đường tốt thiện cho tất cả chúng sanh… Dũng mãnh phấn chấn tiến lên, vì có thể ở trong trận chiến lớn sanh tử, diệt tan tất cả phiền não oán thù”. (những câu kinh trích trong bài này đều lấy từ Phẩm Ly Thế Gian thứ 38, Kinh Hoa Nghiêm).

Để tiến hành trận chiến lớn lâu dài như vậy, ngoài những đức tính, những nguyện hạnh, từ bi… được nói đến rất nhiều trong kinh, người tu hạnh Bồ tát cần phải có quan niệm đúng, cái nhìn đúng (chánh kiến) về sanh tử và tất cả chúng sanh. Không có cái thấy đúng về những đối tượng cần giúp đỡ, cứu độ, thì không thể chịu đựng nổi, mệt mỏichán ngán, và phải bỏ môi trường và cũng là chiến trường sanh tử.

 

1/ Cái thấy đối tượng chúng sanh cần cứu giúp

Bồ tát làm việc vì chúng sanh, vì thấy chúng sanh khổ đau, nghèo nàn, mê ngủ… nên phát tâm đại bi:

Các Phật tử! Đại Bồ tát dùng mười pháp quán sát chúng sanh mà khởi đại bi:
Quán sát chúng sanh tánh khí chẳng điều thuận mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh nghèo cùng không có thiện căn mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mãi ngủ mê mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh làm pháp chẳng thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh bị dục trói buộc mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh chìm trong biển sanh tử mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mãi mang bịnh khổ mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh không muốn pháp thiện mà khởi đại bi.
Quán sát chúng sanh mất những Phật pháp mà khởi đại bi.
Bồ tát hằng dùng tâm này quán sát chúng sanh”.

 

Đại bi là động lực làm việc của Bồ tát. Nhưng sự làm việc ấy không làm cho Bồ tát mệt mỏi, nản chí, vì Bồ tát hành động với cái thấy thật tướng của chính mình và của chúng sanh. Không những với chúng sanh, mà với những phiền não vô tận của chúng sanhBồ tát vẫn “chẳng kinh sợ”, vì biết chúng “vốn không có tạo tác”:

Đại Bồ tát thấu rõ tự thân và chúng sanh vốn xưa nay tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm đủ. Tuy biết tất cả pháp vốn không có tạo tác mà cũng chẳng bỏ tự tướng các pháp. Tuy nơi các cảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng ca ngợi sắc thân chư Phật. Tuy biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người khác, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhất thiết trí. Tuy biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Tuy hằng quán sát không có người, không có ta, mà giáo hóa chúng sanh không nhàm mỏi. Tuy nơi pháp giới xưa nay bất động, mà dùng thần thông trí lực hiện các biến hóa. Tuy nhất thiết chủng trí vốn đã thành tựu, mà không ngừng nghỉ tu Bồ tát hạnh. Tuy biết các pháp không thể nói năng mà chuyển pháp luân thanh tịnh làm cho đại chúng hoan hỷ”.

Ta và người vốn xưa nay tịch diệt, vốn là tánh Không, không có người không có ta nhưng vẫn làm Bồ tát hạnh thuyết pháp độ sanhtrang nghiêm cõi Phật. Như thế Bồ tát hạnh khiến hành giả đi sâu và rộng vào pháp giới Chân Không - Diệu Hữu.

Cách hành văn “Tuy… mà” hợp nhất hai sự mâu thuẫn đối nghịch tưởng chừng như không thể dung hòa được lại là Trung đạo của Bồ tát.

Trí minh của Bồ tát thấy thật tướng của tất cả chúng sanh, từ đó với tâm đại bi gánh vác tất cả chúng sanh:

Trí minh duyên khởi thiện xảo biết tất cả chúng sanh, sanh vốn không sanh vì thấu đạt sự thọ sanh bất khả đắc… Thế nên Bồ tát thường giáo hóa chúng sanh thân không mỏi nhọc, chẳng trái việc làm của tất cả thế gian.

Trí minh thiện xảo nơi Phật vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi pháp vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi cõi vô trước chẳng sanh tâm nhiễm trước. Nơi chúng sanh vô trước, chẳng sanh tâm nhiễm trước. Chẳng thấy có chúng sanh mà thật hành giáo hóa điều phục thuyết pháp, nhưng cũng chẳng bỏ đại bi đại nguyện, thấy Phật nghe pháp tùy thuận tu hànhy chỉ nơi những thiện căn của Như Lai cung kính cúng dường không ngừng nghỉ”.

Thấy chúng sanh như vậy, làm việc như vậy, phiền não khổ đau của chúng sanh như vậy, nên hành động mà vẫn giải thoát, đi dần vào pháp giới Hoa Nghiêm của chư Phật.

 

2/ Cái thấy thế gian, môi trường của sự cứu độ

Bồ tát thấy thế gian, mọi sự vật và mọi chúng sanh, tất cả các pháp, đều như sự huyễn, như mộng, có xuất hiện nhưng thực chất là tánh Không:

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm. Đây là công cụ trợ đạo thứ sáu, vì có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Quán sát năm uẩn đều như sự huyễn, mười tám giới như rắn độcmười hai xứ như rỗng không. Tất cả pháp như huyễn, như sóng nắng, như trăng trong nước, như mộng, như bóng, như tiếng vang, như hình (trong gương), như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quay, như màu cầu vồng, như ánh sáng mặt trời mặt trăngkhông tướng không hình, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không chỗ trụ. Quán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tánh tất cả pháp là không tịch”.

Quyết định biết rõ tự tánh của tâm: tự tánh hay bản tánh của tâm vốn là tánh Khôngsáng tỏ và không thể ô nhiễm nên có thể làm cho tâm mình và người được thanh tịnh.

Tất cả các pháp như huyễn, như mộng, như sóng nắng, như trăng trong nước… nghĩa là có xuất hiện, nhưng không thậtQuán sát như vậy thì biết tất cả các pháp vô sanh vô diệt, tức là vô sanh pháp nhẫn.

Thấy tất cả các pháp đều duyên khởi, tức là thấy trực tiếp các pháp là tánh Không, và tánh Không chính là sự thanh tịnh không cái gì có thể làm ô nhiễm:

Đại Bồ tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh. Vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy cõi nước thanh tịnh. Vì thấy cõi nước thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh. Vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh. Vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Đây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ tát, vì tu hành tích tập nhất thiết trí”.

Khi trí huệ khai mở, Bồ tát thấy môi trường làm việc cứu độ của mình là cõi nước thanh tịnh cho đến pháp giới đều thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khách trần phiền não mà thọ các khổ. Biết như vậy rồi, đối với các chúng sanh mà khởi đại bi, tên là Bản tánh thanh tịnh, vì họ mà thuyết pháp vô cấu quang minh thanh tịnh.

Đại Bồ tát biết tất cả pháp như dấu chim trong hư khôngchúng sanh si mù, chẳng thể quán sát chiếu rõ các pháp, với họ khởi tâm đại bi, tên là Chân thật trí, vì họ mà khai thị pháp Niết bàn”.

Qua hoạt động Bồ tát hạnhBồ tát thấy biết môi trường thế gian là sự biểu lộ của tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh.

 

Qua Bồ tát hạnhBồ tát thấy rõ tánh và tướng của thế gian, tất cả pháp đều là Phật pháp, từ đó thế gian này chuyển hóa thành cõi nước Phật:

Lại nghĩ rằng: tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian mà thực hành Bồ tát hạnh, khiến quang minh thanh tịnh của tất cả pháp chiếu sáng tất cả Phật pháp. Khi phát tâm này quyết định không nghi.

Lại nghĩ rằng tôi sẽ biết tất cả pháp đều là Phật pháptùy tâm chúng sanh, vì họ mà diễn nói đều khiến khai ngộ. Lúc phát tâm này quyết định không nghi”.

Biết tất cả pháp đều là Phật phápBồ tát có tất cả phương tiện thiện xảo để khai ngộ cho chúng sanh. Về phần Bồ tát, việc biết tất cả pháp đều là Phật pháp khiến tất cả thế gian chuyển hóa thành cõi nước Phật.

 

3/ Cái thấy bản chất của hành động cứu giúp

Thể nhập tánh Không và đại bi thanh tịnhBồ tát làm việc mà không có người làm, không có ngã, nhân, chúng sanhthọ mạng. Thế nên, ngay khi đang cứu độBồ tát tiến vào giải thoátgiác ngộ:

Đại Bồ tát quán sát như vầy: Không có một pháp nào tu Bồ tát hạnh, không có một pháp nào viên mãn Bồ tát hạnh, không có một pháp nào giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh, không có một pháp nào cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Không có một pháp nào đối với Vô thượng Giác ngộ đã thành, đang thành, sẽ thành. Không có một pháp nào đã nói, đang nói, sẽ nói. Người nói và pháp đều bất khả đắc, mà cũng không bỏ nguyện Vô thượng Giác ngộ, vì Bồ tát cầu tất cả pháp đều vô sở đắc, như thế mới sanh ra Vô thượng Giác ngộ. Thế nên nơi pháp tuy vô sở đắc mà siêng tu tập tăng trưởng nghiệp lành, thanh tịnh đối trịtrí huệ viên mãn niệm niệm tăng trưởng, đầy đủ tất cả. Tâm Bồ tát chẳng kinh sợ, chẳng nghĩ rằng: nếu tất cả pháp đều vốn tịch diệt thì tôi cầu đạo vô thượng đâu có ý nghĩa gì? Đây là tâm tăng trưởng như núi thứ mười”.

 

Bồ tát làm tất cả mọi việc để giúp đỡ, cứu độ chúng sanh, công việc này do tâm đại bi, nhưng mọi hành động đều ở trong trí huệ tánh KhôngVô tướngVô nguyệnTrí huệ tánh Không là trí huệ thanh tịnh, và đại bi không vướng mắc bởi chúng sanh và bởi đủ thứ phiền não của họ là đại bi thanh tịnh.

Không đến không đi là hạnh tu của Bồ tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác.

Chẳng tăng chẳng giảm là hạnh tu của Bồ tát, vì như bản tánh.

Chẳng có chẳng không là hạnh tu của Bồ tát, vì không có tự tánh.

Như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như hình trong gương, như sóng nắng khi trời nóng, như mặt trăng trong nước là hạnh tu của Bồ tát, vì lìa tất cả sự bám nắm.

Không, Vô tướngVô nguyệnVô tác là hạnh tu của Bồ tát, vì thấy rõ ba cõi mà tích tập phước đức không ngừng nghỉ”.

 

Tóm lại, đối tượng chúng sanhthế giới chúng sanh, hành động cứu giúp của Bồ tát đều trở nên thanh tịnh nhờ vào tánh Không thanh tịnh và đại bi thanh tịnh. Đó là con đường Bồ tátBồ tát hạnh, khiến cho thế giới chúng sanh chuyển hóa thành cõi nước thanh tịnh, một cõi Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12826)
Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại...
(Xem: 26677)
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào một vị trí tối thượng...
(Xem: 13076)
Theo Luận Ðại thừa khởi tín, Nhứt Tâm có hai tướng: (1) tướng Chân như, chỉ riêng về phần thể tánh chơn tâm thanh tịnh; dụ như "tánh trong sạch" của nước...
(Xem: 27057)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 32908)
Acarya Nagarjuna (A Xà Lê Long Thọ) giữ một địa vị hầu như vô song trong hàng các bậc Thánh Phật giáo trình bày xiển dương lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni cho lợi lạc của thế giới.
(Xem: 31698)
Bố thí là hạnh đầu tiên trong sáu hạnh của Bồ Tát. Nguyên âm chữ Phạn là Dàna có nghĩa là sự cho, dịch sang tiếng Hán Việt là Bố thí.
(Xem: 32610)
Bát Chánh Đạo rất dễ nhớ, nhưng ý nghĩa của chúng thâm sâu và đòi hỏi một sự hiểu biết về nhiều lãnh vực liên quan trong giáo lý của Đức Phật.
(Xem: 13041)
Có nhiều loại giác ngộ, nhưng bản chất của giác ngộ thì chỉ có một, đó là phá vỡ bức tường ngăn ngại của vô minh để ánh sáng của tự tánh, Phật tánh được dịp bùng lên.
(Xem: 12167)
Lời dạy của đức Phậtpháp môn phương tiện, chứ không phải là chân lý. Vì vậy, học Phật là học pháp môn để tu tập, để chuyển hóa tâm thức, lời nói...
(Xem: 17522)
Không gian nhận thức bị giới hạn, vì thế nó hữu hạn. Khi bạn ngồi trong lớp học, không gian nhận thức bị bao bọc bởi các bức vách, nền nhà và trần nhà.
(Xem: 18768)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 12592)
Trong kinh Phật có dạy: Chúng ta phải cố gắng tu không thể chần chờ, bởi vì đâu có ai bảo đảm mình sống đến tám mươi tuổi mới chết. Trẻ có cái chết của trẻ...
(Xem: 11795)
Ý thứcvọng tưởng, là những mảnh vụn của tâm thể, là những áng mây đen che mờ mặt trăng tuệ giác, là những lượn sóng dấy động trên mặt biển chân tâm thanh tịnh...
(Xem: 13147)
Đức Phật dạy có năm sự khéo léo trong giao tiếp đem đến nhiều kết quả tốt đẹp. Theo ngài Xá Lợi Phất, không tuân theo năm cách xử sự này sẽ đem đến những hậu quả...
(Xem: 12239)
Trong đời sống chúng ta ai cũng có bản năng tự nhiên mong được hạnh phúc và thoát được đau khổ. Mong cầu được sung sướng là điều chính yếu của tất cả mọi người.
(Xem: 12513)
Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi...
(Xem: 11657)
Bằng Đạo Pháp, Phật mở ra cho ta một thế giới êm ả, an bìnhhạnh phúc, thay vì bước vào ta lại bước ra. Cái cánh cửa của thế giới đó ta không thấy...
(Xem: 12019)
Tôn chỉ Phật giáochí hướng cao siêu của một chân lý. Chí hướng của Phật là "Tự Giác Giác Tha", có nghĩa là tự mình giác ngộ, thức tỉnh trong giấc mộng vô minh...
(Xem: 10627)
Chúng ta tu Phật, nên biết nhân quả là một giáo lý căn bản của đạo Phật, không thể nào hiểu lơ là hay sơ sài, mà phải hiểu cho tường tận mới khỏi những ngờ vực.
(Xem: 10939)
Bởi con người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa mãn sự mong cầu, muốn được bình an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan.
(Xem: 28353)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 11186)
Ðạo Phật đã thấm sâu, đâm chồi, mọc rễ và lớn mạnh qua các lãnh vực văn hóa, gia đình, xã hội, nghệ thuật, kiến trúc... để hòa quyện thành nếp sống tâm linh tối thượng.
(Xem: 11390)
Sau khi thành đạo, Đức Phật đã phổ biến con đường giác ngộ cho nhiều người. Giác ngộvô cùng quí báu vì đó là con đường đưa đến sự giải thoát tối thượng của Niết bàn.
(Xem: 13612)
Tất cả mọi phương tiện đều để phục vụ mục tiêu chân lý của cuộc sống, như ngón tay để chỉ mặt trăng; ngón tay phương tiện để hướng đến mặt trăng chân lý.
(Xem: 11056)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm. Trong thời gian ấy, có lúc Phật giáo đưọc các vua chúa ủng hộ...
(Xem: 11446)
Ðạo Phật quan niệm mỗi cấp bực của sự sống đều mang một Thức tương ứng: cấp vi trùng vi khuẩn cũng có Thức của nó, cũng như mỗi tế bào, mỗi mô sinh vật cũng thế...
(Xem: 10910)
Giáo lý Phật giáo thiết lập trên nền tảng đau khổ của con người. Mặc dầu nhấn mạnh vào hiện hữu của sự khổ, nhưng Phật giáo không bao giờ là một giáo lý bi quan.
(Xem: 11206)
Chính thái độ hóa thần thông để giáo hóa chúng sanh đã làm nổi bật giá trị tâm lý hoằng phápĐức Phật của chúng ta đã dùng để hoằng hóa độ sanh.
(Xem: 26391)
Đức Thích Ca Mâu Ni đã vì một đại nguyện lớn lao, một lòng từ vô lượng mà khước từ mọi hạnh phúc, quyền uy, tiện nghi vật chất để cầu đạo giài thoát.
(Xem: 12410)
Hôm nay Đạo Phật đang chuyển đến một hướng mới, và có hàng ngàn người phương Tây đang cố gắng thực hành lời dạy của Đức Phật như một phương pháp sống.
(Xem: 14903)
Nghiên cứu Phật giáo từ quan điểm Hindu là một sự nghiên cứu của Ấn Độ giáo chứ không phải là Phật giáo. Thật sai lầm khi vay mượn để hỗ trợ quan điểm Hindu hiện đại...
(Xem: 11072)
Các Luận sư A-tì-đàm đã thấy rõ những nạn đề đặt ra cho nhận thức về quan hệ nhân quả, cho nên họ đưa ra một khung đề nghị là có năm loại kết quả khác nhau...
(Xem: 20374)
Tâm đại từ bi có hai tính cách: Tính cách cứu khổ thì thay thế chúng sinh mà chịu mọi khổ não cho họ; tính cách cho vui thì có thể bỏ hết tất cả phước lạc mà cho chúng sinh.
(Xem: 12375)
Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu...
(Xem: 11500)
Trước khi nói đến lộ trình của sự tạo nghiệp, cũng cần đề cập đến câu “nhất thiết duy tâm tạo” trong tư tưởng kinh Hoa Nghiêm của Phật giáo để thấy rõ bản chất của nghiệp...
(Xem: 10788)
Con người thoát khỏi tham lam, thù hận và si mê nhiều chừng nào thì hạnh phúc càng gia tăng chừng đó. Niết-bàn sẽ hiện hữu ngay từ bước khởi đầu và rồi thăng tiến...
(Xem: 23966)
Nguyên-thỉ hay cận-đại Phật-giáo vẫn là Phật-giáo, nghĩa là vẫn có mục-đích giải-thoát diệt khổ, vẫn tôn trọng sự sống và chân-lý, vẫn chủ trương từ-bi tế-độ.
(Xem: 11872)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch: Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp"...
(Xem: 12321)
Đức Phật tướng hảo trang nghiêm, kim dung từ bi, hàng sơ học chỉ có thể dựa vào thánh tượng mới có thể nhận thức được Phật. Chủng loại thánh tượng của Đức Phật rất nhiều...
(Xem: 12860)
Là đóa hoa ưu tú, tinh ba của dân tộc, là bậc kiệt xuất anh tài của Phật Giáo Việt Nam, sử gia Lê Mạnh Thát đã khai quật những nguồn tài liệu vô cùng quý giá...
(Xem: 11067)
Phong trào phục hưng đạt được động lực khi một số người con của đất nước trở thành những Tăng sĩ Phật giáophục sinh lại sự quang vinh cổ thời của Tăng già.
(Xem: 38759)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 10555)
Ngài luôn luôn cổ súy tinh thần tự lực của mỗi người để tìm lấy sự giải thoát cho chính mình và điều này như là một sợi chỉ xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật...
(Xem: 12221)
Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong Diệu pháp liên hoa kinh...
(Xem: 17728)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 25107)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 10569)
Những kẻ bị phiền não khổ đau, Phật giáo đã chỉ cho họ con đường dẫn đến hòa bình, và hạnh phúc vĩnh cữu cùng giúp họ giải quyết mọi vấn đề phiền toái của cuộc sống.
(Xem: 10781)
Giáo lý đạo Phật được xem là một nền giáo lý thực nghiệm, nhằm giải quyết những vấn đề về con người, đưa con người thoát khỏi những khổ đau trói buộc...
(Xem: 12064)
Trước tiên đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni).
(Xem: 11340)
Hỷ là một trong bốn vô lượng tâm của nhà Phật. Hỷ là hoan hỷ, vui vẻ. Lòng người Phật tử bao giờ cũng hoan hỷ, và sẵn sàng san sẻ niềm hoan hỷ đó cho mọi người.
(Xem: 11616)
Tam pháp ấn và lý Tứ đế thì tương ứng nhau: chư hành vô thườngKhổ đế; nhân sanh khổ ở nơi không biết chư pháp vô ngã, là Tập đế; Niết bàn tịch tĩnhDiệt đế...
(Xem: 14754)
Trong kinh Chuyển Pháp Luân ngay sau khi Phật giác ngộ và kinh Di Giáo ngay trước khi Phật Niết-bàn, Ngài khuyên các đệ tử của Ngài là không nên xem bói toán, xem quẻ...
(Xem: 21453)
Hoa sen (tên khoa học là Nelumbo Nucifera) là loại hoa mọc lên từ rễ củ nằm dưới lớp bùn đất ở dưới nước, hoa thường có màu trắng, hồng, có khi phơn phớt vàng, xanh...
(Xem: 9922)
Sự chết của con người là một giai đoạn trong chu trình biến thiên bất tận sinh-lão-bệnh-tử. Đầu tiên, tim ngừng đập rồi đến phổi, sau đó đến não; cuối cùng cơ thể phân hủy.
(Xem: 11284)
Trong giáo lý căn bản của đức Phật, vô minh (avijja) là điểm khởi đầu của vòng tròn mười hai nhân duyên (paticca-samuppada) đưa tới sinh tử, khổ đau...
(Xem: 27400)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 11192)
Chúng sanh bị đọa địa ngục, đó là chúng sanh tâm bị đọa lạc vào địa ngục tham, sân, si phiền não. Muốn giải phóng chúng sanh tâm, phải dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình.
(Xem: 11856)
Nhà Phật có xác định sáu nguyên tắc để sống trong hòa hợp (Lục hòa). Vốn là để cho tăng già, nhưng nới rộng ra, đối với bất cứ một nhóm người nào cùng chung sống...
(Xem: 11019)
Chân dung toàn cảnh về Học phái Phật giáo cho chúng ta cái nhìn mà qua đó Phân kỳ Phật giáo có thể chia làm 3 thời kỳ, đó là Phật giáo Nguyên thủy, Phật giáo Phát triển...
(Xem: 14330)
Đàn tràng chẩn tế cũng gọi là Trai đàn vì lấy sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho cô hồn, ngạ quỷ được ân triêm công đức.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant