Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Con đường tâm linhcon đường xã hội

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 14007)
Chương 9: Con đường tâm linh và con đường xã hội


Đường xưa mây trắng
theo gót chân Bụt

Thích Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản lần 2, 1992, San Jose, Cali, USA

--- o0o ---

2.

Chương 9

Con đường tâm linhcon đường xã hội

Đám cưới của thái tử Siddhatta và công nương Yasodhara được tổ chức vào mùa Thu năm ấy. Đây là một cuộc vui mừng lớn cho cả vương quốc Sakya, nhất là cho dân chúng kinh kỳ. Khắp nơi thiên hạ treo cờ, treo đèn, kết hoa và tổ chức vũ nhạc. Song mã của Siddhatta và Yasodhara điểm tới đâu quần chúng reo hò tới đó. Siddhatta và Yasodhara cho xe chạy ra cả ngoại thành. Hai người đi tới những xóm làng quen biết và đem tặng đủ các thứ quà bánh và vải bô cho những gia đình túng thiếu nhất.

Vua Suddhodana truyền dựng cho thái tử ba nơi trú cung, một cung cho mùa Đông, một cung cho mùa Hạ và một cung cho mùa Mưa. Cung mùa Hạ được xây dựng trên một cảnh đồi ngoạn mục miền cao nguyên, cung mùa Mưa và cung mùa Đông ở ngay trong thành nội. Cung nào cũng có hồ sen, hồ toàn sen xanh, hồ toàn sen đỏ, hồ toàn sen trắng. Áo mũ khăn giày của hai người đều được đặt làm từ thành Baranasi, tận vương quốc Kasi miền Tây Nam. Trầm hương đốt hàng ngày cũng được nhập cảng từ vương quốc ấy.

Vua Suddhodana rất yên tâm. Vua nghĩ rằng Siddhatta đã đi trúng con đường vua mong ước, và vua truyền tuyển lựa các nhạc công và vũ công tài ba trong nước để thường trực giúp vui cho cặp vợ chồng mới cưới của hoàng gia.

Nhưng hạnh phúc của Siddhatta cũng như của Yasodhara không phải là được sống bưng bít trong quyền quýgiàu sang. Hạnh phúc của hai người là sự chia xẻ những nỗi niềm và những ước vọng của tâm linh với người mà mình có thể cởi mở tấm lòng.

Họ không thực sự để tâm đến các cao lương mỹ vị hoặc các thứ xiêm y lụa là. Họ thấy cái đẹp của vũ của nhạc nhưng họ không say mê trong việc vui chơi. Họ có những khao khát riêng của họ: khao khát tìm được những câu trả lời thỏa đáng cho tâm hồn và cho xã hội.

Mùa nóng năm sau, nhân được cư trú tới bốn tháng ở cung Hè trên miền cao nguyên. Siddhattaru Yasodhara đi khám phá thêm về vương quốc Sakya. Người hầu cận Channa vẫn luôn luôn là người đánh xe cho Siddhatta. Họ tìm ra được nhiều phong cảnh sơn thủy rất tú lệ. Họ chuẩn bị để có thể đến cư trú năm bảy ngày ở những nơi ấy. Có khi họ xin ở lại ngủ nhà của thường dântìm dịp giúp đỡ cho các gia đình nghèo. Họ đã thử ăn những món ăn dân dã, ngủ trên những chiếc giường tre sọc sạch của người dân, và họ tìm hiểu được rất nhiều về nếp sống và phong tục tập quán từng vùng.

Có khi họ gặp những cảnh nghèo khổ cùng cực. Họ gặp những cặp vợ chồng có tới chín hoặc mười đứa con, đứa nào cũng ốm tong teo, đứa nào cũng bệnh tật, trong khi đó cả vợ lẫn chồng dù làm việc quần quật suốt ngày đêm cũng chỉ đủ sức nuôi nổi hai đứa là cùng. Nghèo khổ và bệnh tật là hai cái gánh nặng đè lên kiếp sống của người dân. Ngoài hai cái gánh nặng ấy, còn có những cái gánh nặng khác: sự áp chế của giới cầm quyền và sự thống trị của các giáo sĩ Bà la môn. Ở miền quê, dân chúng có bị giới hương hào áp chế cũng không thể kêu ca vào đâu được. Kinh thành xa quá, với lại ở kinh thành cũng không quen biết ai.

Siddhatta nhìn những em bé ốm tong teo, hai chân khẳng khui như những ống sậy và cái bụng phình to vì giun sán. Siddhatta nhìn những kẻ tàn tật và bệnh hoạn ăn xin ở các ngã đường. Những cảnh tượng này làm cho thái tử mất hết mọi niềm vui. Chàng thấy con người bị kềm hãm trong một tình thế không có lối thoát. Chàng thấy dù chàng có quyền lực của một vị quốc vương chàng cũng không thể thay đổi tình trạng. Siddhatta biết khá rõ về tình trạng triều đình. Người quyền quý làm đủ mọi cách để bảo vệ quyền thếlợi ích của mình, không đếm xỉa gì đến khổ đau của người khác. Họ lại còn lấn áp nhau, ganh tỵ nhau, và những tranh chấp của họ làm cho Siddhatta chán ngán cảnh chính trường. Quyền lực của phụ vương chàng rất giới hạn và mỏng manh, Siddhatta thấy rất rõ điều ấy. Làm vua như phụ vương chàng không thật sự có tự do. Vua bị ràng buộc đủ thứ, và quyền bính lại chính là tù ngục đang giam hãm vua. Phụ vương chàng biết trong triều đình có những vị đại thần hư hỏng và nhiều tham vọng, nhưng lại phải dựa vào những người ấy cho tình thế ổn định. Chàng nghĩ nếu chàng đứng vào địa vị của cha, có thể chàng cũng phải làm như thế. Chàng thấy chỉ khi nào con người chuyển đổi được nội tâm mình, đập tan được những tham vọngganh tỵ trong nội tâm mình thì cảnh huống con người mới có thể thay đổi, và niềm ước ao ngày xưa bừng dậy trong chàng: tìm ra được một lối thoát cho tâm linh.

Yasodhara là một cô gái rất thông minh. Nàng hiểu được tâm trạng chồng. Nàng có đức tin nơi Siddhatta: nàng biết nếu Siddhatta quyết tâm tìm kiếm con đường giải thoát thì chàng sẽ tìm ra. Nhưng nàng cũng là một cô gái rất thực tế: cuộc tìm kiếm này có thể kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm, trong khi những khổ đau hiện thực vẫn xảy ra hàng ngày trong cuộc sống. Vì vậy nàng nghĩ phải làm một cái gì ngay trong giờ phút hiện tại. Và nàng bàn với Siddhatta những phương pháp có thể làm vơi bớt nỗi khổ của những người thiếu may mắn nhất trong vương quốc. Công việc này nàng đã bắt đầu từ hơn hai năm nay ở các xóm nghèo. Công việc ấy một mặt có thể thoa dịu bớt khổ đau của một số người, một mặt có thể đem lại chút ít bình anhạnh phúc cho tự tâm nàng. Yasodhara tin rằng tình yêu của Siddhatta có thể là lưng tựa vững chải và lâu dài cho công việc ấy.

Từ thủ đô Kapilavatthu, các vật dụng cần thiết cho cuộc sống tại Hạ cung vẫn được chở tới đều đều. Trong cung số người hầu cận, nấu nướng, dọn dẹp và chăm sóc rất đông. Siddhatta và Yasodhara gửi bớt những người này về thành. Họ chỉ giữ lại một số người đủ để chăm sóc vườn cảnh, nấu nướng và dọn dẹp. Và cố nhiên là họ giữ lại Channa. Yasodhara tổ chức lại đời sống hàng ngày cho thật đơn giản. Nàng hay vào bếp chỉ dẫn cách thức nấu những món ăn đơn giản mà hạp với khẩu vị của Siddhatta. Nàng ưa tự tay săn sóc sự ăn uống và sự phục sức của chàng. Nàng luôn luôn tham khảo ý kiến của Siddhatta về những công việc xã hội mà nàng dự tính tiếp tục khi trở về thủ đô. Siddhatta hiểu biết được nhu cầu hành động của nàng và luôn luôn tỏ ý quan tâm về những dự án này khiến cho Yasodhara càng lúc càng thêm tin tưởng.

Tuy hiểu được Yasodhara và biết giá trị của công việc nàng làm, Siddhatta vẫn thấy con đuờng của nàng chưa phải là con đường có thể thực sự đem lại an lạc cho tâm linh. Lối thoát mà nàng nghĩ đã tìm ra chỉ là một phương thuốc thoa dịu có tính cách tạm bợ. Con người bị trói buộc không những bởi những điều kiện trong xã hội mà còn bởi những phiền não nội tâm nữa. Yasodhara hiện có thể làm được một ít công việc giúp người nghèo khó và bị áp bức, nhưng trong xã hội mấy ai có được những điều kiện thì giờvật chất để làm được như nàng, và nếu Yasodhara bị kẹt vào một trong những tâm lý sợ hãi, ganh tỵ, cay đắng hoặc oán thù, liệu nàng có đủ nghị lực để tiếp tục công việc? Tự thân Siddhatta cũng đã trải qua những giai đoạn nghi ngờ, bất mãn, khổ đau và bực tức khi nhận ra được thực trạng trong triều và ngoài nội. Không vượt thoát được những khổ đau của nội tâm, không đạt tới được sự an bình của nội tâm thì hành động xã hội lấy đâu làm căn cứ xuất phát? Chàng nghĩ như thế nhưng chàng không nói với Yasodhara. Chàng không muốn nàng lo âunghi nan trong giai đoạn này.

Khi hai vợ chồng trở về kinh đô vào mùa Đông năm ấy, các anh em và bạn bè tới thăm hỏi thật đông. Tại cung mùa Đông, Yasodhara tiếp đãi khách khứa và bạn bè rất ấm cúng và chu đáo. Những câu chuyện mà nàng nghe Siddhatta nói với các bạn bên lò sưởi thường là câu chuyện tư tưởng triết họcđạo họcliên hệ tới tình trạng chính trị và xã hội. Đi lại trong phòng và hướng dẫn các thị nữ mang trà nước cho khách, nàng không bỏ sót một câu chuyện nào. Nàng để ý trong số các bạn và người thân thích xem có ai là người đồng điệu có thể mời cộng tác với mình trong công tác cứu tế người cùng khổ, nhưng nàng không thấy được mấy ai. Đa số bạn bè thường ưa ăn to nói lớn, có người thì quá phù phiếm, có người thì chỉ chú trọng đến chuyện tổ chức những cuộc vui. Nhưng Siddhatta phải kiên nhẫn ngồi tiếp hết mọi người.

Khách khứa tuy vậy cũng thưa dần. Yasodhara bắt đầu tổ chức trở lại công việc cứu tế của nàng với sự phụ giúp của mấy người thị nữ hầu cận. Nàng sung sướng lắm, bởi vì ngoài Siddhatta, nàng đã có thêm một người hiểu nàng, thương nàng và yểm trợ công việc của nàng: đó là phu nhân Gotami, tức là hoàng hậu Mahapajapati. Hoàng hậu rất quan tâm đến hạnh phúc của nàng, bởi bà biết nếu nàng có hạnh phúc thì Siddhatta cũng có hạnh phúc, nhưng không phải chỉ lý do đó mà bà ủng hộ công tác cứu trợ của Yasodhara, bà là người có lòng nhân từ, và ngay trong chuyến đầu đi với Yasodhara vào xóm cùng dân, bà đã thấy ngay được giá trị của công việc Yasodhara đang làm, giá trị ấy không phải là những vật dụng mà người cứu trợ đem tới như gạo, bột mì, vải và thuốc men ... Giá trị ấy là cái nhìn, hai bàn tay và tình thương của người đã chịu đi tới tiếp xúc với những người kém may mắn. Hoàng hậu Mahapajapati không phải là một người đàn bà tầm thường. Bà thường nói với Yasodhara rằng người đàn bà cũng có đủ trí tuệsức khỏe để đảm nhiệm những trách vụ trong xã hội không thua gì người đàn ông. Người đàn bà có khả năng tạo ra khung cảnh ấm áp và hạnh phúc của gia đình nhưng không phải vì vậy mà người đàn bà sinh ra là để ở suốt ngày trong bếp núc. Gotami đã tìm thấy nơi người con dâu một người bạn đồng chí, bởi vì Yasodhara vốn là một cô gái có chí khí và có nhận thức độc lập. Không những bà muốn yểm trợ tinh thần cho Yasodhara mà bà còn hứa sẽ làm việc chung với nàng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14516)
Lòng tin là không nghi ngờ, không thắc mắc, không do dự, trung thành, tín cẩn. Khi nói chuyện với một người, có khi chúng ta tin liền điều người ấy nói...
(Xem: 38511)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14660)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14656)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14076)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14966)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16576)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29920)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16236)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15560)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14925)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14915)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17897)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15600)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38696)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26751)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39690)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50803)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38772)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35076)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18331)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16490)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42427)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39276)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35636)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17476)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46554)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17171)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28512)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 19013)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17609)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17124)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17572)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16551)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16919)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30874)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16954)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18524)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18486)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17395)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18179)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17086)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23526)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 17012)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17475)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17695)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17075)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15754)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18066)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17450)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17229)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29550)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27755)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18196)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16132)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15384)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23065)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14850)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55147)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14212)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant