Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Tri thức - Tri thức dựa vào sự xác nhận - Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

12 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10990)
4. Tri thức - Tri thức dựa vào sự xác nhận - Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

ỨNG DỤNG CÁC NGUYÊN LÝ PHẬT GIÁO
VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN TRONG KHOA HỌC

Làng Đậu

4. Tri thức - Tri thức dựa vào sự xác nhận - Lòng tin trong Phật học và trong Khoa học

Như có nhắc trong phần 3. Một cách phân chia trong Phật giáo về nhận thức thành ba loại dựa trên mức độ "khả kiến" của đối tượng là

  • Nhận thức trực tiếp: Loại nhận thức này có thể kiểm nghiệm ngay lập tức bằng các giác quan và có thể được chứng minh/ chứng nghiệm mà không cần thêm bất kì một công cụ hay suy diễn nào. Chẳng hạn như sự hiện hữu của 1 con voi trong gian phòng -- Tất nhiên, người ta có thể khẳng định hay phủ nhận trực tiếp sự kiện này mà không cần phán đoán hay bất kì công cụ nào. Tuy nhiên, xa hơn một tí có những sự việc tồn tại, nhưng chỉ vì nhận thức loại này không thấy được nhưng không có nghĩa là chúng không tồn tại. Chẳng hạn sự hiện hữu của một con vi trùng trong phòng. Không phải vì mắt ta không thấy mà nó không hiện hữu. Một thí dụ thứ ba về việc này nhận thức về sự hiện hữu của chiếc xe chạy bên ngoài gian phòng. Vấn đề ở chỗ tuy ta không thấy trực tiếp nhưng "dấu vết" bản chất trực tiếp của chiếc xe hơi vẩn có thể cho phép ta nhận định chính xác là nó hiện hữu thông qua các đặc tính chẳng hạn như tiếng kèn xe và tiếng máy nổ thực sự đặc trưng khiến người trong phòng qua thính giác không thể bị nhầm lẫn với các đối tượng vật chất khác. Trong thí dụ này thì âm thanh trực tiếp phát ra từ xa đóng vai trò chính cho sự nhận thức.
  • Nhận thức qua suy đoán hợp lý nhưng không trực tiếp: Loại nhận thức này khó thể có được đối với một người nếu người đó không dùng đến các "công cụ" suy luận lô-gíc chặt chẽ hay các công cụ thực nghiệm đáng tin cậy. Hiện tượng này được xem như là “hiện tượng thiếu rõ ràng hơi khó nhận biết” nhưng vẩn có thể đạt tới qua sự truy cứu chặt chẽ. Như trong thí dụ bên trên thì con vi trùng có thể được nhận ra thông qua kính hiển vi. Dĩ nhiên điều cần chú ý ở đây là công cụ gián tiếp này phải là công cụ đáng tin cậy (ở đây là kính hiển vi). Hầu hết các lý thuyết khoa học đều dựa trên phương pháp này. Một khi "công cụ" không đầy đủ hay chính xác thì lý thuyết đó cũng có thể do khiếm khuyết của "công cụ" mà dẫn đến sai sót ít nhiều hay toàn bộ. Cơ học Newton là một điển hình của nhận thức loại này. Sự chấp nhận nghiễm nhiên về tính độc lập giữa không gianthời gian7 đã là một "công cụ" mà các nhà vật lý cổ điển dựa trên đó để hình thành hệ thống vật lý cổ điển. Thuộc tính này không chính xác đã dẫn đến nhiều điểm thiếu chính xác trong vật lý cổ điển. Đối với các hành giả thiền định thì tính không là loại tri thức thuộc loại này.
  • Nhận thức qua sự xác quyết của người khác: Dạng thứ ba của hiện tượng là các "hiện tượng cực kì bí ẩn", vượt quá tầm của nhận thức trực tiếp và suy luận logic thông thường. Nói chung chúng chỉ có thể được xác lập dựa trên sự xác quyết của người khác (hay sự khả tín của kinh điển). Về mặt khách quan, với cùng một sự kiện, đối với người thứ nhất là cực kì bí ẩn thì đối với người thứ nhì có khi chỉ là sự kiện suy luận nhận thức được và đồng thời đối với một người thứ ba lại có thể là trực tiếp nhận thức. Chẳng hạn như, đối với người mù bẩm sinh thì việc thấy màu xanh của lá cây là "cực kì bí ẩn" nhưng lại là trực tiếp đối với người thường. Ngược lại, các "màu sắc" hồng ngoại do sự vật phát ra trong đêm thì có thể là loại cần có "suy đoán", nhưng sẽ chẳng cần suy tư gì đối với một số loài vật.
    Tuy vậy, điều này lại có thể bị phê phán bởi các nhà khoa học vì tính "chủ quan" của nó. Nhưng nếu khảo sát ngược lại, ngay chính bản thân khối lượng tri thức khổng lồ của khoa học ngày nay cũng được từng cá nhân, với ít nhiều lý do chủ hay khách quan khác nhau, đã tiếp nhận mà rất ít khi chúng được trực tiếp kiểm tra rà soát lại về độ tin cậy, nhất là khi các kiến thức đó được cung cấp từ các học giả các giáo sư có uy tín. Việc tiếp thu các nhận thức "bí ẩn" kiểu này đúng ra đã được dùng rất phổ biến trong giới đồng nghiệp của những người làm khoa học chủ yếu là dựa trên lòng tin. Ngay cả các lý thuyết vật lý được dựng lên thì lòng tin vào nó cũng thường là dựa vào sự phán quyết của các "cha đẻ" ra lý thuyết đó. Nó sẽ được xem là nhận thức đúng đắn cho đến khi người nào đó tìm thấy nó là sai với thực tế.
    Ngược lại, từ phiá Phật giáo, rõ ràng nếu đứng ở khả năng hay trình độ "chứng nghiệm" chưa đầy đủ hay chưa chín mùi thì một cá nhân không thể nào (đúng hơn là chưa đủ năng lực hay trí huệ về mặt nhận thức hay chứng ngộ) tự mình rà kiểm lại những gì mà người khác đã chứng ngộ truyền giảng cho. Lòng tin đối với vị thầy ở đây đóng vai trò như một "công cụ" khả tín. Thực vậy, không có lý do gì một người thầy chưa từng "nói sai" với mình trong khi truyền thụ những kiến thức mà mình có thể tự kiểm nghiệm lấy lại chủ ý hay lừa dối để cung ứng cho mình một sự hiểu biết sai lạc khác. Chưa kể, giới hạnh Phật giáo không cho phép bất kì Phật tử nào (kể cả chính đức Phật) dối gạt.9 Ngoài ra, đức Phật cũng lên án việc tu học mù quán cho thấy rõ chủ trương của Ngài (Xin xem lại Phát biểu của dức Phật trong phần dẫn nhập). Đồng thời, tôn chỉ tối cao của đạo Phậttrừ khử vô minh tức là loại bỏ những tri kiến nhận thức sai lầm hay không chính xác về thế giới thực tại ra khỏi tâm thức của cá nhân. Do vậy, xin bàn thêm, việc tìm ra một vị thầy khả tín và khế hợp với căn cơ người tu học đóng vai trò vô cùng quan trọng trong Phật giáoHy vọng người làm khoa học cũng có thể rút ra các bài học gần tương tự
    Như thế, ta thấy uy tín của người phát biểu nhận thức trong khoa học và trong Phật học không quá khác biệt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4036)
Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm làm gì.
(Xem: 5221)
Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như con đường giải thoát của chúng ta.
(Xem: 2681)
Giá trị của tâm là sự thương yêuchân thực. Nếu một người mà tâm luôn tràn ngập tình thương đối với mọi người,
(Xem: 6164)
Cuộc sống hiện đại đưa đến nhiều vấn đề làm cho chúng ta phiền tâm mệt trí, thân tâm đều nặng nề.
(Xem: 3074)
Tầm quan trọng của một người là tính sáng tạo của tâm thức. Khi chúng ta đối xử với nhau như những người anh chị em, thì nó sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc.
(Xem: 3125)
Nếu tỉnh thức, bạn có thể tự đặt mọi câu hỏi. Năng lực của trí tuệ sẽ giúp bạn tìm thấy câu trả lời cho mọi vấn đề mình đang gặp mỗi ngày.
(Xem: 3336)
Từ xưa đến nay tình ái luôn là thứ dễ làm con người mù quángsi mê.
(Xem: 3261)
Người sống được một-trăm-năm mà không hiểu-rõ cuộc-đời là vô-thường và sinh-diệt.
(Xem: 3320)
Thịnh suy nào cũng không quan trọng bằng nội tâm ta có dính mắc hay không, vì dính mắc đó là nguồn gốc luân hồi.
(Xem: 4582)
Hạnh phúc là khát vọng của nhân loại muôn đời, một trong “tiêu chí” có tính phổ quát nhất vượt hết thảy các gián cách về văn hóa, dân tộc và biên giới không gianthời gian.
(Xem: 2751)
Phân hóa là một hiện tượng tất yếu trong cuộc sống. Phân hóa để tăng trưởng, phân hóa để phát triển, phân hóa để hủy diệt, phân hóa để biến thái…
(Xem: 5247)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 3902)
Cuộc sống trôi nhanh về phía cái chết, như điệu nhảy của vũ công, tia chớp trên bầu trời, hay dòng thác đổ
(Xem: 3863)
Bốn chân líchân lí về khổ, về nguồn gốc, về diệt tận và về đạo lộ.
(Xem: 3227)
Bài này trích dịch từ Quý San năm 2019 có chủ đề “Buddhadharma: The Practitioner’s Quarterly,” đăng ngày 14 tháng 5 năm 2019 trên trang mạng Lion’s Roar.
(Xem: 4169)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ.
(Xem: 5083)
Thế giớichúng ta đang sống là thế giới của dục vọng. Mọi chúng sanh được sinh ra và tồn tại như là một sự kết hợp của những dục vọng.
(Xem: 3544)
Tất nhiên đã làm người thì phải chịu khổ đau nhiều hay ít tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, sự cảm thọnhận thức của mỗi người.
(Xem: 6784)
Trong cuộc đời mỗi người ai cũng có một dòng tộc huyết thống, người đời thì có huyết thống gia đình, người xuất gia thì có huyết thống tâm linh.
(Xem: 3989)
Trong kinh Phật dạy, “cái khổ lớn nhất của con người không phải do thiếu ăn, thiếu mặc, làm con trâu, con bò, kéo cày, kéo xe, chưa chắc là khổ;
(Xem: 3244)
Nói “thời chiến” nơi đây là nói về thời Đệ Nhị Thế Chiến. Có một phần chưa được khảo sát tận tường, chưa được biết rộng rãi trong lịch sử Đạo Phật tại Hoa Kỳ: đó là một thời chiến tranh trong thế kỷ 20
(Xem: 3119)
Con người luôn luôn bị cái tôi và cái của tôi thống trị, do đó đời sống của nó bị giới hạnđè nặng bởi cái tôi và cái của tôi.
(Xem: 2981)
Bà La Môn Giáo là một Đạo giáoxuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử.
(Xem: 5894)
Tưởng tri, thức tri và tuệ tri được đức Phật chỉ ra nhằm mục đích phân biệt rõ các cấp độ nhận thức về sự vật hiện tượng.
(Xem: 4660)
Đức Phật không phải là một nhà chính trị theo nghĩa cổ điển, càng không phải là một nhà cách mạng hiểu theo phong cách của chữ nghĩa hôm nay.
(Xem: 3515)
Cái gì chưa biết, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa học, gặp lần đầu thấy cũng lạ. Cái gì chưa biết nói, học nói lần đầu thấy cũng lạ...
(Xem: 2917)
Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thậ ….
(Xem: 3331)
Thời nào cũng vậy, xã hội luôn có những biến đổi và khủng hoảng, chính sự đổi thay giúp điều mới mẻ ra đời hoặc phải diệt vong, như một hệ quả duyên khởi.
(Xem: 4447)
Tại Việt Nam, đại đa số các Chùa Bắc Tông đều có Tổ đường để phụng thờ chư liệt vị Tổ sư, Tổ khai sơn ngôi chùa đó và chư hiền Thánh Tăng.
(Xem: 5750)
Phật cũng nhắn nhủ: “Quý vị phải thực tập làm hải đảo tự thân, biết nương tựa nơi chính mình mà đừng nương tựa vào một kẻ nào khác.
(Xem: 6666)
Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric),
(Xem: 3746)
Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao?
(Xem: 4564)
Phật Giáo - Một Bậc Đạo Sư, Nhiều Truyền Thống - Đức Đạt Lai Lạc Ma đời thứ 14, Ni sư Thubten Chodren
(Xem: 4631)
Nhận thức luận trongTriết học cổ điển Ấn-độ và trongTriết học Phật giáo - Gs Nguyễn Vĩnh Thượng
(Xem: 3995)
Kinh Phật dạy có nhiều cách giải nghiệp. Sau đây là trích dịch một số kinh liên hệ tới nghiệp và giải nghiệp.
(Xem: 3420)
Hoàng đế A Dục chấp nhậnquốc giáo rồi đem vào Tích Lan và các nước lân cận, Phật giáo phát triển nhanh chóng ở Đông phươngcuối cùng trở thành tôn giáoảnh hưởng nhất trên thế giới.
(Xem: 4663)
Sự kiện cho kinh này, nói ngắn gọn, theo luận thư, là vì: thành phố Vesali bị nạn dịch, gây chết chóc, đặc biệt với người nghèo. Vì xác chết nằm la liệt, các vong hung dữ bắt đầu quậy phá thành phố...
(Xem: 6088)
Nhiều Phật tử tuy nói là tu theo Đại thừa nhưng thật ra rất ít người biết rõ tông chỉ của Đại thừa hoặc chỉ biết sơ sài, nên việc tu hành không đạt được kết quả.
(Xem: 5867)
Trong các kinh điển có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng chữ Niết Bàn (Nirvana) không ngoài những nghĩa Viên tịch (hoàn toàn vắng lặng),
(Xem: 3660)
Nói đến giáo dục chính là xu hướng vươn lên của con người trong lý tính duyên sinh, nhằm đạt thành chân - thiện - mỹ cho cuộc sống chung cùng
(Xem: 4713)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 4481)
àm thế nào để các lậu hoặc đoạn tận lập tức? Nghĩa là, không cần trải qua thời gian. Cũng không cần tu Tứ niệm xứ hay Tứ thiền bát định.
(Xem: 4555)
Các pháp không tự sinh Cũng không do cái khác sinh. Không do sự kết hợp cũng chẳng nhân nào sinh. Tất cả đều vô sinh.
(Xem: 4288)
Tới cuối kinh này, Đức Phật dạy về pháp Niết Bàn tức khắc, ngay trong hiện tại, giải thoát ngay ở đây và bây giờ.
(Xem: 4620)
Tôn giáo nào cũng có những nhà truyền giáo, phát nguyện rao giảng những điều mà họ tin là mang đến hạnh phúc cho nhân loại.
(Xem: 8243)
Ấn-độ là một bán đảo lớn ở phía Nam Châu Á. Phía Đông-Nam giáp với Ấn-độ dương (Indian Ocean), phía Tây-Nam giáp với biển Á-rập ( Arabian Sea).
(Xem: 3940)
Nguyên bản: The Inner Structure, Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D., Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 5747)
Thái tử Siddharta Gautama là người đầu tiên đã nghĩ rằng Ngài đã đạt được Giác ngộ. Ngài đã trở thành vị Phật lịch sử. Rồi Ngài đã đem những điều mình giác ngộgiáo hoá cho chúng sanh.
(Xem: 5233)
Căn Bản Hành Thiền - Bình Anson biên dịch 2018
(Xem: 6885)
Luận Duy thức tam thập tụng này được viết với mục đích khiến cho những ai có sự mê lầm ở trong nhân vô ngãpháp vô ngã mà phát sinh ...
(Xem: 6210)
Ba địa mỗi địa mười, Năm phiền não, năm kiến, Năm xúc, năm căn, pháp, Sáu: sáu thân tương ưng.
(Xem: 6021)
Bất cứ sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại;thuộc nội phần hay ngoại phần, thô hay tế, hạ liệt hay thắng diệu, xa hay gần, mà dồn chung lại, tổng hợp thành một khối. Gọi chung là sắc uẩn.
(Xem: 5834)
Kính lễ Nhất thiết trí, Vầng Phật nhật vô cấu, Lời sáng phá tâm ám Nơi nhân thiên, ác thú.
(Xem: 6322)
Trong cách nghĩ truyền thống, Tứ Thánh đế (Cattāri Ariyasaccāni) được xem là bài pháp đầu tiên khi Đức Phật chuyển pháp luân độ năm anh em Kiều-trần-như.
(Xem: 6810)
Suốt kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi là người thuyết pháp chính, Đức Phật chỉ ấn khả và thọ ký...
(Xem: 5005)
An cư” là từ không còn xa lạ đối với tín đồ Phật giáo; tuy nó không có nghĩa “an cư lạc nghiệp” của đạo Nho, nhưng khía cạnh nào đó, “lạc nghiệp” mang nghĩa...
(Xem: 5586)
Trung luận, còn gọi là Trung quán luận, bốn quyển, Bồ-tát Long Thọ trước tác kệ tụng, ngài Thanh Mục làm Thích luận, được dịch ra chữ Hán ...
(Xem: 6421)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào?
(Xem: 3809)
Trước tiên là về duyên khởi của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Theo truyền thuyết, Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
(Xem: 5456)
Phật và chúng sinh thật ra vẫn đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng chư Phật đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant