Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khi công tử chê tiền

21 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11057)
Khi công tử chê tiền


KHI CÔNG TỬ CHÊ TIỀN


Thời Phật tại thế, Cấp Cố Độc là nhà giàu sang bậc nhất, lúc nào ông cũng sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khổ, bần hàn, bệnh tật không nơi nương tựa. Ông phát nguyện đời đời, kiếp kiếp cúng dường Tam Bảo, ông thực hành bố thí với tấm lòng chí thành, chí kính, dám bỏ ra một số vàng khổng lồ để mua khu vườn của Thái tử Kỳ-đà để cất tịnh xá cho giáo đoàn của đức Phật. Ngược lại với cha, người con trai của ông tên là Kỳ-la làm quan dưới thời vua Ba-tư-nặc chẳng tin kính Tam Bảo, lại còn phỉ báng, phê bình cha mình đem của cải bố thí cho mấy ông Sa-môn ăn không ngồi rồi.

Một hôm, vua Ba-tư-nặc cùng Mạt-lợi hoàng hậu thiết lễ cúng dường trai Tăng tại hoàng cung, công tử Kỳ-la tỏ vẻ không đồng ý, bất bình, nói những lời bất kính, vô lễ. Đức Phật biết được tâm ý của Kỳ-la, sau khi thuyết giảng xong, ngài nói bài kệ:

Người bỏn xẻn không sinh cõi trời

Người ngu không ưa việc bố thí

Người trí sinh lòng tùy hỷ

Vì vậy mọi người đều được an lạc.

Chuyện đến tai vua Ba-tư-nặc, Kỳ-la bị nhà vua cho thôi việc, từ đó Kỳ-la càng thêm oán ghét đức PhậtTăng chúng. Lần nào trưởng giả Cấp Cô Độc thiết lễ cúng dường trai Tăng tại nhà thì Kỳ-la đều có thái độ bực bội, tìm cách vắng nhà.

Sau nhiều lần khuyên nhủ, chỉ dạy con mình bất thành, Cấp Cô Độc không cách nào thuyết phục được người con trai ngỗ nghịch, cuối cùng ông nghĩ ra diệu kế gọi con đến dỗ ngọt, hy vọng con mình sẽ chấp nhận: “Lúc này cha quá bề bộn công việc không đến tịnh xá Kỳ Viên để nghe pháp được, cha nhờ con đi nghe giúp, cha sẽ chi cho con 100 đồng tiền vàng.”

Vừa nghe chuyện, Kỳ-la đã muốn nổi cáu lên, nhưng thấy cha chi số tiền quá lớn, máu tham khởi dậy nên Kỳ-la vui vẻ nhận lời, đi đến Tịnh xá kỳ Viên để nghe thuyết Pháp. Trước khi đi, công tử còn nói với cha: “Sau khi con đi nghe Pháp về cha phải giữ đúng lời hứa, chi ngay cho con 100 đồng tiền vàng đấy.”

Cáp Cô Độc thấy con thay đổi thái độ, trong lòng mừng vui nói: “Từ xưa đến nay cha có bao giờ nói gạt con đâu? Con cứ an tâm đi nghe pháp thay cha.”

Tờ mờ sáng, công tử Kỳ-la đã điểm tâm xong và thẳng đến Tịnh xá Kỳ Viên, tìm chỗ vắng vẻ đánh một giấc tới chiều thức dậy đi về.

Thế là một ngày trôi qua, Kỳ-la về nhà xin cha số tiền đã hứa. Sau khi đưa tiền cho con xong, trưởng giả còn khen con trai lúc này giỏi lắm, nhớ khi nào cha bận việc, con đi nghe Pháp hộ cha.

Kỳ-la vui vẻ nói với cha: “Cha cứ yên trí, con lúc nào cũng sẵn sàng đi nghe pháp giúp cha.” Vừa nói Kỳ-la vừa săm se những đồng tiền vàng mà trong lòng cảm thấy rất khoái chí, không biết mấy ông Sa-môn đầu trọc kia có bí quyết gì mà cha mình mê đến thế?

Ngày tháng trôi qua, việc đi nghe pháp giúp cha cứ diễn ra y như thế, riết rồi trở thành thói quen.

Một hôm, Cấp Cô Độc gọi con lại nói rằng: “Hôm nay có thời thuyết pháp rất quan trọng, con phải nhớ ít nhất bốn câu kệ để về nói lại cho cha nghe. Nếu con ghi nhớ và thuộc lòng nhiều hơn, cha sẽ thưởng con 500 đồng tiền vàng.” Nghe cha nói thế, hôm ấy Kỳ-la đến Tịnh xá Kỳ Viên thật sớm, cố học thuộc bốn câu kệ rồi về sớm để đi xem hát. Nhờ trí thông minh sẵn có, Kỳ-la dễ dàng thuộc lòng bốn câu kệ Phật nói, rồi vội vã quay về. Đi được một quãng, Kỳ-la không hiểu ý nghĩa bài kệ, nên quay lại xin Phật giải thích. Kỳ-la chăm chú nghe Phật giảng ý nghĩa từng câu, từng chữ của bài kệ. Do nhân duyên lành đời trước khai phát giống như đang ở trong nhà tối bỗng dưng có đèn sáng lên, làm rõ mọi vật, sau thời pháp của Phật, Kỳ-la chứng quả Tu-đà-hoàn. Đây là quả vị đầu tiên trong bốn quả Thanh Văn, còn có nghĩa là nhập lưu hay dự lưu, nhập vào dòng Thánh không còn bị đọa lạc trong ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) nữa.

Hôm ấy, Kỳ la về nhà trong lòng vô cùng hoan hỷ đem bài kệ giảng lại cho cha nghe một cách mạch lạc, rạch ròi, không sót một ý nào. Cấp Cô Độc ngỡ ngàng, không ngờ con trai mình hôm nay thông đạt Phật pháp đến thế, lại không thấy con nhắc đến việc cho 500 đồng tiền vàng.

Hôm sau, ông đến cung thỉnh đức Phật cùng chư Tăng đến nhà để ông cúng dường Trai Tăng. Sau lễ cúng dường, trước mặt đức Phậtchư Tăng, ông muốn tán thưởng người con trai của mình theo đúng lời hứa, ông lấy 500 đồng tiền vàng ra trao cho Kỳ-la. Bất ngờ thay, Kỳ-la lúc này dứt khoát không nhận những đồng tiền của cha, mà còn xin cha cất giữ để cúng dường Tam Bảo. Đồng thời Kỳ-la xin đức Phật được quy y Tam Bảo.

 Được đức Phật chấp nhận, Kỳ-la xin phát lời thề nguyện:“ Suốt đời con nguyện theo gương cha, luôn làm việc thiện lành, giúp đỡ người nghèo khócúng dường Tam Bảo.” Cấp Cô Độc cảm thấy quá bất ngờ cho sự nhiệm mầu của Phật pháp đã chuyển hóa người con trai tham lam, ích kỷ, tật đố của mình một cách nhanh chóng như vậy. Nhân đó ông xin đức Phật giải thích lý do về sự chuyển hóa này.

Đức Phật cho ông biết Kỳ-la đã chứng được quả vị Tu-đà-hoàn. Người chứng quả vị Tu-đà-hoàn thì dứt trừ được cái thấy sai lầm về sự sống. Vì vậy, người này dứt được ba kiết sử: một là thân kiến, hai là nghi ngờ và ba là giới cấm thủ. Tức là không còn cái thấy sai lầm về thân, thân này như thế nào thì thấy rõ ràng như thế đó, thân này do nhân duyên hòa hợp của bốn đại mà thành, nên nó không thật có.

Người chứng quả Tu-đà-hoàn thấy rõ được thân không thật có, khi đủ duyên thì có thân này, khi hết duyên thì thay hình đổi dạng, chứ không mất hẵn. Nhờ thấy biết như vậy, nên ta bớt chấp trước, tham đắm vào sắc thân mà làm tổn hại cho người. Thấy hiểu đúng như vậy, ta cố gắng tu hành chuyển hóa những thói hư, tật xấu để sống tốt trên cõi đời này, nếu không giúp ích cho ai, ít ra cũng không tạo đau khổ cho ai. Người chứng quả Tu-đà-hoàn sẽ không còn thoái đọa vào các đường ác, vì đã thấu hiểu rõ ràng quả báo của sự làm ác.

Thứ đến, người chứng quả Tu-đà-hoàn không còn nghi ngờ những lời Phật dạy về pháp Tứ Đế, tức là bốn điều chắc thật về sự khổ của chúng sinh: khổ vì sinh, già, bệnh, chết, khổ vì sự mất mát, khổ vì mong cầu không được như ý, khổ vì oán ghét mà gặp nhau hoài, khổ vì sự tương tàn, tương sát của con người với nhau, khổ vì thiên tai, hỏa họan, thiếu ăn, thiếu mặc…

Tất cả nỗi khổ đau đều có nguyên nhân sâu xa của nó, do thói quen huân tập của mỗi người mà dẫn đến hậu quả của nó như tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân, chứ không có gì là khi không, bỗng dưng mà có, hay do một đấng quyền năng nào tạo ra.

Con người bị khổ hầu hết là do lòng tham mà ra, không thỏa mãn lòng tham sẽ sinh ra nóng giận, hận thù, còn về lý trí thì khổ là do vô minh mà ra.

Như vậy, nguyên nhân của sự đau khổ là do tham, sân, si tạo thành. Biết được nguyên nhân, gốc rễ, cội nguồi của mọi khổ đau, ta phải tìm cách thoát khổ. Quan trọng nhất là ta phải làm thế nào diệt trừ cho được những thói quen xấu sinh ra từ tham, sân, si..

Khi biết được nguyên nhân rồi, ta tìm cách dập tắt, tiêu trừ bằng các phương pháp tu tập để chuyển hóa. Ở đây, đức Phật chỉ cho ta cái quả an ổn, hạnh phúc tột cùng là Diệt Đế (quả vị cao nhất của người tu đạo Phật.) Sau đó Ngài mới hướng dẫn cho ta con đường dẫn đến cái quả Diệt Đế bằng các phương pháp tu tập, hành trìĐạo Đế.

Quả thật, đức Phật là một nhà tâm lý đại tài, muốn hướng dẫn chúng sinh đến với đạo, Ngài chỉ cái quả trước là an lạc, hạnh phúc, tự do, tự tại, giải thoát để cho ta thấy được lợi ích rồi mới chỉ cho ta cách thức để đạt được cái quả ấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 38467)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 14640)
Chi tiết nổi bật nhất của pho tượng là đôi chân không tréo vào nhau trong tư thế ngồi thiền mà lại có vẻ như buông lơi: một chân gập lại và một chân buông thõng.
(Xem: 14621)
Tất cả chúng ta đều có tiềm năng của sự thiện hảo. Thế nên, hãy nhìn lại chính mình để thấy tất cả những tiềm năng tích cực ở trong ta.
(Xem: 14056)
Nếu nền tảng đổi thay thì dĩ nhiên cái danh xưng đặt để cho nó cũng phải thay đổi. Vì vậy, không có một linh hồn thường hằng, bất biến...
(Xem: 14941)
Nghiệp là một quy luật tự nhiên và khách quan, vận hành hoàn toàn phù hợp với những hành động của chúng ta. Nghiệp tự thân nó là một quy luật nên không cần phải có người làm luật.
(Xem: 16555)
Buông bỏ có nghĩa là “Nếu tôi có được những thức ăn mà tôi thích thì rất tốt. Nếu không có nó thì cũng không sao...
(Xem: 29877)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 16214)
Chỉ có bậc giác ngộ mới thấy biết chân thật mọi lẽ ở đời; chỉ có đức Phật mới thấy chúng sinh nào sinh đến đâu, trở lại làm người, sinh lên cõi Trời...
(Xem: 15530)
Tinh thần giác ngộgiải thoát của đức Phật không những chỉ có trong kinh điển Phật giáo Tiểu thừa mà có cả trong kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 14883)
Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta...
(Xem: 14873)
Con đường giác ngộ không phân biệt giới tính, giai cấp, màu da, chủng tộc, tu sĩ hay cư sĩ... Thích Nhật Từ
(Xem: 17884)
Theo triết lý nhà Phật, Tâm là chủ thể tạo tác ra mọi thứ (Vạn pháp do tâm tạo), trong đó có tướng. Tâm là nhân mà pháp là quả.
(Xem: 15573)
Tiếng Nói Của Phật Pháp và Tương Lai Phật Giáo - Jack Petranker - Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 38666)
"Heartwood of the Bodhi tree" (Cốt lõi của cội Bồ-đề) - Buddhadasa Bhikkhu, Hoang Phong chuyển ngữ
(Xem: 26724)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
(Xem: 39656)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 50758)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 38742)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
(Xem: 35043)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 18303)
Với Đức Phật, vì tình thương vô hạn đối với chúng sanh nên Ngài đã hy sinh tất cả để tìm cầu Thánh đạo. Sau khi đã ngộ đạo, Ngài lại chuyển vận bánh xe pháp...
(Xem: 16468)
Tam vô lậu học - Giới, Ðịnh, Tuệ là phương tiện duy nhất để vượt thoát bến mê sinh tử... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 42399)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
(Xem: 39240)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 35611)
Đạo Bụt có một nền tảng nhân bản vững chắc, giúp ta biết sống có trách nhiệm, có từ bi với chính mình và mọi loài chung quanh. Người Phật tử con của Bụt là người biết bảo vệ môi sinh.
(Xem: 17459)
Con đường đến giải thoát luôn gắn liền với tuệ giác. Thân này bất tịnh, vô thườngphi thực là một tuệ giác quan trọng, không thể thiếu trong chiêm nghiệm...
(Xem: 46516)
Nếu muốn đạt được sự giải thoát, trước hết chúng ta phải quán xét thật cẩn thận những gì chung quanh ta, hầu quán nhận được bản chất đích thật của chúng...
(Xem: 17152)
Chư Phật Như Lai đã lìa mọi cái thấy, mọi tưởng, nên tâm không chỗ nào không hiện diện. Tâm chân thật ấy là tánh của tất cả các pháp.
(Xem: 28493)
Những người Phật tử chúng ta phải là những người Phật tử của thế kỷ 21, có nghĩa là Phật tử với kiến thức đầy đủ về Phật Pháp, điều này rất căn bản.
(Xem: 18995)
Trong kinh điển Phật giáo, danh và thực là hai phạm trù được đề cập, phân tích cặn kẽ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
(Xem: 17589)
Bồ đề tâm là vua các phép lành. Phát Bồ đề tâm là điều tối cần thiết của một đệ tử Phật. Có nhiều bản văn của chư Tổ viết để khuyên người phát tâm vô thượng ấy.
(Xem: 17111)
Thời Thế Tôn tại thế, Ngài rất chú trọng đến phận sự an cư mùa mưa của chư Tăng. Đặc biệt nhất là trong ba tháng mùa mưa ở rừng Icchànangala, Ngài đã nhập thất...
(Xem: 17546)
Trong kinh điển Phật giáo, có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một số câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc...
(Xem: 16532)
Vì mọi hiện tượng tâm lý tinh thầnvật lý vật chất không có cái gì có một chủ thể độc lập hay thường còn cả, nên nó là “vô thường”, nó là “vô ngã”, không có ta.
(Xem: 16883)
Tình yêu thươngnăng lực vô song, giúp bạn không còn cảm xúc sợ hãi. Một khi bạn phát triển được tình yêu thương (tâm Đại từ) thì sẽ không còn chỗ cho sự sợ hãi.
(Xem: 30839)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 16938)
Chúng ta cũng nên biết: “Vô thường thì vô ngã”, tại sao? Vì thân tâm con người gồm có sắc và tâm, Sắc là thân do Bốn Đại “Đất, Nước, Gió, Lửa” hợp lại mà thành...
(Xem: 18502)
Áo nghĩa thư (Upaniṣad) còn được biết với một tên gọi khác nữa, đó là Vedānta, vì nó được xem là phần tột cùng của Phệ-đà... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 18454)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
(Xem: 17382)
Thực ra luân hồi sanh tử không chỉ vậy! Luân hồi sanh tử còn là tiến trình tâm trong mỗi sát-na... Đỗ Hồng Ngọc
(Xem: 18167)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Một hôm vào buổi sáng, Tỳ Kheo Nan Đà mặc áo sặc sỡ, đi giày viền vàng, lại vẽ mặt, trông rất kỳ quặc...
(Xem: 17075)
Đại Vương nên biết thân người như tuyết đọng, rồi sẽ tan rã, cũng như ngói đất sẽ tan hoại không thể giữ lâu mãi mãi...
(Xem: 23491)
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng về phía trước, di chuyển, lan tỏa đến nhiều xứ sở...
(Xem: 16989)
Phật giáo cho rằng tất cả những mâu thuẫn, nội kết, xung đột trong phạm vi cá nhân hay xã hội đều được phát sinh từ ba độc tố trong tâm thức, đó là tham, sân, và si.
(Xem: 17461)
Căn cứ trên khái niệm về Tính không nghĩa là Quang Minh khách thể, và cũng căn cứ khái niệm về Quang Minh chủ thể, chúng ta cố gắng phát triển một sự lí hội thông hiểu...
(Xem: 17668)
Vô ngãhình thức đối nghịch với cái ngã. Cái ngã thì sanh lão bệnh tử, biến dị, khổ ưu, vô thường. Trái lại vô ngã được quan niệm như là bất sanh bất diệt...
(Xem: 17056)
Con đường tìm đạo, tự tu tự chứng đến khi đắc đạo của đức Phậthành trình lắm chông gai với lòng kiên trì quyết thắng là một nỗ lực phi thường.
(Xem: 15738)
Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ, lúc ấyTỳ Kheo Cù Ba Ly (có sách dịch là Cù Ca Lê) đến chỗ đức Phật cúi đầu lễ Phật rồi thưa...
(Xem: 18033)
Một hành động có ba phần: Động lực (ý nghiệp) thúc đẩy chúng ta nói (khẩu nghiệp) và hành động (thân nghiệp).
(Xem: 17412)
Đạo đức kinh tế theo quan điểm của Phật giáo, tác giả: Peter Harvey, Đỗ Kim Thêm dịch
(Xem: 17201)
Tâm vô lượng là tâm rộng lớn không thể tính lường được. Tâm vô lượng không những làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, dẫn sinh vô lượng phúc đức...
(Xem: 29519)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27724)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 18165)
Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào.
(Xem: 16109)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hóa dân gian như thành ngữ ăn chay niệm Phật...
(Xem: 15365)
Cố vận động một phong trào dùng lại từ Bụt thay từ Phật đã không thăng tiến được một phương diện nào, không làm cho Phật Giáo Việt Nam phát triển mạnh hơn, cao hơn...
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14835)
Thật ra, danh từ Bụt không phải là một danh từ mới, mà vốn đã được tổ tiên nhiều đời người Việt sử dụng từ lúc lập quốc đến nay, gần cả hai ngàn năm...
(Xem: 55114)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 14203)
Phật giáo là “chân lý thực tại”, mà cốt lõi chính là đạo đứcgiới luật làm nền tảng. Khi Phật còn tại thế, ngài chế giới là để ngăn ngừa sự bại hoại của tăng đoàn.
(Xem: 13247)
Chân Như vừa huân tậphai mặt ‘bên trong’ và ‘bên ngoài’. ‘Bên trong’ là huân tập trong tâm hành giả. ‘Bên ngoài’ là huân tập từ bên ngoài, tức là từ chư Phật, Bồ-tát...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant