Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Cầu Siêu Truyền Thống Nam Truyền

31 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 17851)
Kinh Cầu Siêu Truyền Thống Nam Truyền

CẨM NANG CƯ SĨ
Tâm Diệu
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2008

PHỤ LỤC
NGHI THỨC CẦU SIÊU 
THEO TRUYỀN THỐNG NAM TRUYỀN
(Trích Nghi Thức Tụng Niệm do Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thuỷ Việt Nam tu chính 18-1-1998 Tự Viện Liên Hoa, Irving, 
Texas USA ấn hành 2002)

Ðây là khoá lễ tụng cho người quá vãng. Sử dụng trong các trường hợp cầu siêu, tang lễ, giỗ kỵ... Nội dung kinh văn có mục đích soi sáng nội tâm thấu rõ chân tướng vạn pháp, hồi hướng phước lành cho chư vị hương linh, khuyến tấn tu tập cho thân nhân hiện tiền

Dâng Hương 
[Chủ lễ xướng] 

Trước Tam Bảo uy linh tối thượng 
Ðèn trầm hương tâm nguyện chí thành 
Cầu cho pháp giới chúng sanh 
Khắp cùng ba cõi muôn phần phước duyên 
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp 
Mãi vun bồi hạnh phúc vô dư 
Liên hoa nở khắp biển từ 
Trần sa vô nhiễm huyễn hư đoạn lìa (lạy) 

Kỳ Nguyện 

Hôm nay đệ tử chúng con chí thành đảnh lễ Tam Bảo vô thượng tôn Phật, vi diệu Chánh Pháp, thánh đức Tăng Già

Chúng con thành tâm cúng dường Tam Bảo, thiết lễ kỳ siêu độ, hồi hướng công đức đến hương linh …. Cùng tất cả thân nhân quá vãng cảm nhận Phật ân đức, ngộ Chánh Pháp nhiệm mầu, khởi lòng tịnh tín, thượng hưởng phước lành, vãng sanh cảnh giới an lạc

Chúng con nguyện trọn đời y lời Phật dạy, lánh xa điều ác, tu tập hạnh lành, thanh tịnh tâm ý. Trước báo đền thâm ân hoá độ, đáp nghĩa nặng sinh thành, sau vun bồi duyên lành giải thoát, lợi lạc chúng sanh

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (lạy) 

Dâng Hoa 
[Ðại chúng cùng tụng] 

Pūjemi buddhaṃ kusumenanena 
Puññena me tena ca hotu mokkhaṃ 
Pupphaṃ milāyāti yathā idaṃ me 
Kāyo tathā yāti vināsabhāvaṃ. 
Pūjemi dhammam ... 
Pūjemi sangham ... 
Dâng hoa cúng dường Phật 
Bậc thương xót muôn loài 
Dâng hoa cúng dường Pháp 
Ðạo nhiệm mầu cứu khổ 
Dâng hoa cúng dường Tăng 
Ruộng phước không gì bằng 
Hoa tươi đẹp sẽ tàn 
Thân giả hợp sẽ tan 
Nguyện tu mau chứng đạt
Quả chân thường giải thoát (lạy) 

Lễ Tam Thế Tam Bảo 
[Đại chúng cùng tụng] 

Nam mô thập phương tam thế Phật Bảo 
Nam mô thập phương tam thế Pháp Bảo 
Nam mô thập phương tam thế Tăng Bảo (lạy) 

Thỉnh Chư Thiên 

Ðạo tràng thanh tịnh bồ đề 
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh 
Pháp mầu diệt tận vô minh 
Pháp mầu cứu khổ sinh linh vạn loài 
Từ dục giới vân đài sáu cõi 
Ðến thiên cung sắc giới hữu hình 
Duyên xưa đã tạo nghiệp lành 
Kết thành phúc quả thiện sanh đến giờ 
Ngự khắp chốn bến bờ đồng ruộng 
Hoặc hư không châu quận thị phường 
Non xanh rừng rậm đất bằng 
Hoặc nơi quán cảnh xóm làng gần xa 
Xin đồng thỉnh dạ xoa chư chúng 
Càn thát bà long chủng nơi nơi 
Miếu đền thành quách lâu đời 
Sông hồ hoang đảo biển khơi trùng trùng 
Pháp vi diệu nghìn thân nan ngộ 
Phước nhân thiên muôn thuở khó cầu 
Ngày tàn tháng lụn qua mau 
Ðắm say trần cảnh vùi đầu tử sinh 
Ðây là giờ chuyển kinh vô thượng 
Ðây là giờ đọc tụng pháp âm 
Lời vàng lý nghĩa cao thâm 
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì (lạy) 

Xưng Tán 

Namo tassa bhagavato arahato 
sammāsambuddhassa 
Namo tassa bhagavato arahato 
sammāsambuddhassa 
Namo tassa bhagavato arahato 
sammāsambuddhassa 

Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn 
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường 
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh 
Làm lành lánh dữ lợi quần sanh (lạy) 

Tam Qui 

Buddham saranam gacchāmi 
Dhammam saranam gacchāmi 
Sangham saranam gacchāmi 
Dutiyampi buddham saranam gacchāmi 
Dutiyampi dhammam saranam gacchāmi 
Dutiyampi sangham saranam gacchāmi 
Tatiyampi buddham saranam gacchāmi 
Tatiyampi dhammam saranam gacchāmi 
Tatiyampi sangham saranam gacchāmi 
Ðệ tử qui y Phật 
đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự 
bi trí vẹn toàn 
Ðệ tử qui y Pháp 
đạo chuyển mê khai ngộ 
ly khổ đắc lạc 
Ðệ tử qui y Tăng 
bậc hoằng trì Chánh Pháp 
vô thượng phước điền 
Lần thứ hai đệ tử qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Lần thứ ba đệ tử qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy) 

Lễ Phật Bảo 

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh 
Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng 
Con xin lạy đấng Ðại Hùng 
Rọi vô biên trí tận cùng thế gian 
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện 
Ở tương lai vô lượng Phật thành 
Hiện tiền chư Phật độ sanh 
Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu 
Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng 
Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy 
Ðức ân Thiện Thệ cao dày 
Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân 
Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu 
Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh 
Thiên Nhân Sư đấng cha lành 
Phật Ðà toàn giác Thế Tôn trong đời 
Phật là nơi nương nhờ tối thượng 
Cho chúng con vô lượng an lành 
Qui y Phật Bảo từ ân 
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên 
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối 
Những sở hành lầm lỗi vô minh 
Từ thân khẩu ý khởi sanh 
Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy) 

Lễ Pháp Bảo 

Bát thánh đạo con đường chánh giác 
Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân 
Chân truyền diệu pháp thánh nhân 
Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành 
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp 
Ở tương lai vô lượng Pháp mầu 
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu 
Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh 
Pháp vi diệu cha lành khéo dạy 
Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền 
Vượt thời gian chứng vô biên 
Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường 
Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ 
Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần 
Trí nhân tự ngộ giả chân 
Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu 
Pháp là nơi nương nhờ tối thượng 
Cho chúng con vô lượng an lành 
Qui y Pháp Bảo chánh chân 
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên 
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối 
Những sở hành lầm lỗi vô minh 
Từ thân khẩu ý khởi sanh 
Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy) 

Lễ Tăng Bảo 

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh 
Ðức vô song tứ thánh sa môn 
Thừa hành di giáo Thế Tôn 
Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng 
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng 
ở tương lai vô lượng thánh hiền 
Hiện tiền Tăng Bảo phước điền 
Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn 
Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử 
Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia 
Bậc như lý hạnh Tăng Già 
Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn 
Thành đạo quả bốn đôi tám chúng 
Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm 
Cung nghinh kính lễ một niềm 
Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian 
Tăng là nơi nương nhờ tối thượng 
Cho chúng con vô lượng an lành 
Qui y Tăng Bảo tịnh thanh 
Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên 
Gieo năm vóc trọn niềm sám hối 
Những sở hành lầm lỗi vô minh 
Từ thân khẩu ý khởi sanh 
Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy) 

Lễ Phật Tích 

Ngàn xưa lưu dấu Cha Lành 
Bảo tháp Xá lợi kim thân Phật Ðà 
Bồ đề khắp cõi ta bà 
Nhất tâm kính lễ hương hoa cúng dường (lạy) 

Kinh Vô Ngã Tướng 

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả, gần thành Ba Ra Na Si. Ðức Phật giảng cho năm thầy Tỳ kheo nghe như vầy

Này các Tỳ kheo, sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩnvô ngã, không phải là của ta. Này các Tỳ kheo, nếu các uẩn thật là của ta, thì chúng không bị đau khổ. Lại nữa, người đời có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. Này các Tỳ kheo, các uẩn thật là vô ngã nên hằng bị đau khổ. Lại nữa, người đời không có thể nói xin cho các uẩn của ta như thế này hoặc đừng như thế kia. 

Này các Tỳ kheo, các ngươi cho sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩnthường hay vô thường? 

Bạch đức Thế Tôn, các uẩn là vô thường

Vật chi vô thường, vật ấy là khổ hay vui? 

Bạch đức Thế Tôn, vật ấy là khổ. 

Vật chi vô thường là khổ, có sự biến hoại theo lẽ thường, thì nên cho vật ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta chăng? 

Bạch đức Thế Tôn, chẳng nên. 

Này các Tỳ kheo, cho nên sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn nào dù trong đời quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô thiển,vi tế, hạ liệt, thù thắng, gần hoặc xa, các uẩn ấy chỉ là uẩn thôi. Các ngươi nên nhận thức chân lý ấy bằng chánh trí đúng theo thực tướng như vầy: đó chẳng phải là của ta, chẳng phải là ta, chẳng phải là tự ngã của ta. 

Này các Tỳ kheo, bậc thinh văn được nghe và thấy như thế rồi, liền sanh tâm nhàm chán đối với sắc, đối với thọ, đối với tưởng, đối với hành, đối với thức. Do nhàm chán vị ấy ly tham. Do ly tham, tâm được giải thoát. Khi tâm được giải thoát vị ấy chứng đắc tuệ giải thoát và biết rõ sự sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm và không còn tái sanh nữa. 

Ðức Phật thuyết giảng như vậy, năm thầy Tỳ kheo hoan hỷ tín thọ. Khi đức Phật giảng dạy kinh này, thì tâm của năm thầy Tỳ kheo được giải thoát các vi tế phiền não không còn chấp thủ nữa. (lạy) 

Kinh Hồi Hướng Vong Linh 

Duyên khởi 
Vua Pa Sê Na Đi 
Nằm mộng thấy thân nhân 
Bị khổ quả đói lạnh 
Ðến bạch hỏi Thế Tôn 
Ðức Ðiều Ngự bi mẫn 
Chỉ dạy cách tạo phước 
Hồi hướng các vong linh 
Thoát ly mọi khổ ách 
Chánh kinh 

Các hương linh quá vãng 
Thường đến nhà quyến thuộc 
Ðứng ngoài vách tựa cửa 
Ngã đường hay cổng thành 
Trông chờ hưởng phước thí 
Nhưng vì kém phước duyên 
Hương linh bị quên lảng 
Thân nhân tạo phước lành 
Do công đức bố thí 
Nên phát nguyện bằng lời 
I đăng vô nhá tí năng hô tú 
Sú khí ta hon tú nha tá dô 
Nguyện thân nhân quá vãng 
Thượng hưởng công đức nầy 
Ðược thọ sanh lạc cảnh 
Những thân nhân quá vãng 
Vân tập các đạo tràng 
Nhận được phước hồi hướng 
Thường thốt lời cảm kích 
Mong ân nhân của mình 
Ðược trường thọ phúc lạc 
Người đã tạo công đức 
Chắc chắn được quả lành 
Chúng sanh trong cảnh khổ 
Không có các sinh kế 
Trồng trọt hoặc chăn nuôi 
Bán buôn hay trao đổi 
Chúng sanh cảnh giới này 
Hằng mong đợi phước báu 
Do thân nhân hồi hướng 
Như nước trên gò cao 
Chảy xuống vùng đất thấp 
Phước lành đã hồi hướng 
Có diệu năng cứu khổ 
Như trăm sông tuôn chảy 
Cùng hướng về đại dương 
Nguyện công đức đã tạo 
Thấu đến chư hương linh 
Khi người nhớ ân trước 
Do tình nghĩa thân bằng 
Do tương duyên quyến thuộc 
Hãy cúng dường trai Tăng 
Hồi hướng phước đã tạo 
Sự khổ sầu thương cảm 
Trước tử biệt sanh ly 
Không có lợi ích gì 
Cho thân nhân quá vãng 
Cách trai Tăng hợp đạo 
Gọi Ðắc Khi Na Ða Ná(Dakkhinādāna) 
Cúng dường vô phân biệt 
Ðến đại chúng Tăng Già 
Bậc phạm hạnh giới đức 
Bậc vô thượng phước điền 
Ðược vô lượng công đức 
thắng duyên tế độ 
Hương linh trong cảnh khổ 
Do thiện sự đã làm 
Do hồi hướng đã nguyện 
Do Tăng lực đã cầu 
Xin tựu thành phúc quả (lạy) 

Kệ Tỉnh Thức 

Lẽ tử sanh xưa nay thường sự 
Khổ biệt ly muôn thuở đương nhiên 
Khách hồng trần trăm nỗi đảo điên 
Bậc thiện trí vượt ngoài hệ lụy 
Cuộc trầm luân khởi từ vô thủy 
Nước mắt nhiều hơn bốn đại dương 
Ðã bao đời dâu bể tang thương 
Xương trắng trải phủ đầy đại địa 
Dù một kiếp trọn vui không dễ 
Những phù du hưng phế đổi thay 
Tuổi thanh xuân gẫm có bao ngày 
Già đau chết hỏi ai tránh khỏi 
Kìa bao cuộc thăng trầm danh lợi 
Những nhục vinh kết nối liền nhau 
Khi qua rồi còn lại niềm đau 
Gió đời thổi phàm tâm xao động 
Kìa yêu thương buồn vui huyễn mộng 
Tình thân nhân bằng hữu phu thê 
Thương phải xa ghét phải gần kề 
Ai trọn kiếp không điều ngang trái 
Kìa sự nghiệp bạc vàng của cải 
Ðổ mồ hôi nước mắt dựng xây 
Vật ở đời tay lại qua tay 
Buông tất cả khi tàn hơi thở 
Kìa kiến chấp hữu vô ngã sở 
Bao tị hiềm cùng chuyện can qua 
Lắm đổi dời trong mỗi sát na 
Hạnh phúc đó não phiền cũng đó 
Người trí hiểu căn nguyên thống khổ 
Tìm hướng đi thoát ngõ quẩn quanh 
Ngược dòng mê chánh đạo thực hành 
Chứng thánh quả đoạn mầm sanh tử 
Nương Phật Ðà chí tôn chí thánh 
Nương Pháp mầu đại hạnh đại duyên 
Nương Tăng Già vô thượng phước điền 
Nguyện uy đức cao dầy tiếp độ 
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Nam mô Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy) 

Hương Linh Qui Y 

Hương linh qui y Phật 
đấng Thiên Nhơn Ðiều Ngự 
bi trí vẹn toàn 
Hương linh qui y Pháp 
đạo chuyển mê khai ngộ 
ly khổ đắc lạc 
Hương linh qui y Tăng 
bậc hoằng trì Chánh Pháp 
vô thượng phước điền 
Lần thứ hai hương linh qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo 
Lần thứ ba hương linh qui y 
Phật Pháp Tăng Tam Bảo (lạy) 

Kinh Chúc Nguyện 

Nguyện phước lành sung mãn 
Hồi hướng các thân nhân 
Như muôn sông ra biển 
Xin tất cả nguyện lành 
Ðược kíp thời viên đắc 
Xin ý thiện tâm thành 
Thường trong sáng chiếu diệu 
Như trăng tỏ ngày rằm 
Như ma ni ngọc báu 
Cầu uy đức Phật Bảo 
Cầu uy đức Pháp Bảo 
Cầu uy đức Tăng Bảo 
Cầu chư thiên gia hộ 
Tất cả điều phúc lành 
Luôn tựu thành như nguyện (lạy) 

Từ Bi Nguyện 

Nguyện cầu tám hướng mười phương 
Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui 
Dứt trừ oan trái nhiều đời 
Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan 
Hại nhau chỉ chuốc lầm than 
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu 
Chúng sanh vô bệnh sống lâu 
Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày 
Nguyện cho an lạc từ nay 
Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn 
Dứt trừ kinh sợ tai ương 
Bao nhiêu phiền não đoạn trường vĩnh ly 
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri 
Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy) 

Hồi Hướng Công Đức 

Con xin hồi hướng phước lành 
Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần 
Mẹ cha thầy tổ thân nhân 
Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên 
Cầu xin hộ pháp chư thiên 
Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa 
Cầu cho mưa thuận gió hoà 
Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương 
Chúng sanh ba cõi sáu đường 
Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn 
Nghiệp lành từ khẩu ý thân 
Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy) 

Phổ Nguyện 
[Đại chúng cùng tụng] 

Nguyện công đức đã làm 
Kết duyên lành giải thoát 
Ðệ tử và chúng sanh 
Ðồng viên thành chánh giác (lạy) 





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4903)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 5602)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 7678)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 7167)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 5999)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 47971)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 4592)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 5917)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 6381)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 4953)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 5337)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 5236)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 8857)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 4195)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 4811)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 7380)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 5403)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 9701)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 5998)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 6441)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 9742)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 4422)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 16676)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 5698)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 5560)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 5989)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 5371)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 7066)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 9896)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 5701)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 5822)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 7105)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 5523)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 6221)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 4900)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 5573)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 6053)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 7078)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 5296)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 5631)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 5724)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 6544)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 5913)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 5674)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 5309)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 6595)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 5953)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 8215)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 5975)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 6462)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 5789)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 6623)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 7471)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 5190)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 5500)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 6413)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 7067)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 4594)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 6172)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 6414)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant