Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Cứu cánh giải thoát

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10159)
III. Cứu cánh giải thoát

ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI 
HT. Thích Tâm Châu
Tổ Đình Từ Quang, Canada, 1982
PHẦN THỨ HAI

III .- CỨU CÁNH GIẢI THOÁT

" Khi tâm trí nhận thấy mọi sự cấu tạo đều vô thường, bản ngãđau khổ và hư huyễn, lúc đó tâm trí mới hợp nhất với bản thể bất diệt của cõi Niết Bàn tuyệt đối " Kinh trường A Hàm

Giải thoát

Giải thoátmục đích tối cao, là phương pháp cứu cánh của đạo Phật. Giải thoát sẽ ứng hiện ngay nơi tâm hạnh của con người nếu con người muốn cứu cánh giải thoátgiải thoát cứu cánh.

Tâm niệm con người luôn luôn xao động, nhịp nhàng với vọng tưởng điên đảophiền não chấp trược. Chấp trược hình sắc là thường còn, là đẹp tốt, là xấu xa, là người, là ta v.v...

Chấp trược sự cảm thụ là sung sướngđau khổ, là không sướng, không khổ. Chấp trược tư tưởng là hay, dở, phải, trái là không hay, không dở, không phải, không trái. Chấp trược những hành động là đúng, là không đúng, là hợp lý, là không hợp lý. Chấp trược sự nhận thứccá nhân, gia đình, quốc gia, núi, sông, đất đai,vuông, tròn, to, nhỏ v.v...

Đã chấp trược cố nhiên phải ham muốnbảo thủ. Đã ham muốn, bảo thủ tức là bị ham muốn, bảo thủ chi phốiràng buộc. Trong hoàn cảnh bị chi phối, ràng buộc con người chịu bao nổi đau khổ, áp bức, thiếu tự do, có khác chi tù nhân bị giam cầm nơi ngục thất. Con người sở dĩ bị ràng buộc như thế một phần nhỏ bởi ngoại cảnh, một phần lớn tại nội tâm gây nên. Và những nổi áp bức, giằng xé, thúc đẩy của dục vọng lại càng khắc nghiệt bằng mười hoàn cảnh chung quanh. Ngục thất giam hãm của cường quyền bất công còn rộng rãi hơn ngục thất tối tăm của cái " ta " ích kỷ. Những xiềng xích trói buộc tù nhân còn ít bền chắc hơn những xiềng xích của ham muốn đê hèn trong mỗi cá nhân.

Nhận thấy cảnh nô lệ đáng thương của con người bởi dục vọng gây ra, nên đạo Phật chú trọng nhất đến sự giải thoát cho mỗi người bằng phương pháp diệt dục. Dục vọng càng bớt, tự do càng nhiều, cái vỏ ích kỷ bị phá vở, tâm hồn càng được phóng khoáng thảnh thơi. " Gió muôn phương chỉ bay về nơi khoảng rộng, lòng người tự bưng bít không thể cảm thông được với ý tình muôn hướng ".

Muốn giải thoát tức là muốn cởi mở sự chi phối, ràng buộc, muốn ra khỏi nơi áp bức giam cầm để hưởng lấy niềm vui vẻ hồn nhiên, hấp thụ bầu không khí tự do và tắm trong ánh nắng của độc lập huy hoàng, chân như thực tế, đem lại lợi ích cho mình và cho người.

Bỏ ham muốn, dùng ham muốn loại bỏ ham muốn, không bị ham muốn chi phốicứu cánh giải thoát, là giải thoát cứu cánh.

 

1.- HIỂU BIẾT LÝ VÔ THƯỜNG

" Chúng ta không bao giờ tắm hai lần cùng một dòng sông ".

Héraclite

" Tất cả các Pháp, sự vật, động hay bất động trong thế gian đều là tướng hư hoại vô thường ".

Vũ trụ không tĩnh, vũ trụ luôn động, vũ trụ không phải là ao tù, vũ trụ là một ngọn thác luôn luôn chảy xiết, các giọt nước hợp thành luôn luôn kế tiếp thay đổi.

Sự vật không có thực thể, sự vật chỉ do các nhân duyên phát sinh, tồn tại, tiêu diệt trong sự chuyển biến không ngừng và hòa đồng với không gian vô biên, thời gian vô tận.

Cái bàn là tổng hợp tướng của đinh, gỗ, công phu người thợ, nhưng nó sẽ là vật vô dụng của một ngày kia hư hỏng. Cái nhà là kết quả của bao nhiêu vôi, gạch, ngói, đất, gỗ, cát, công nhân và sẽ đem lại một hình tướng không ngờ của ngày đổ nát. Cái áo xanh xinh đẹp của cô thiếu nữ mặc trên mình cũng chịu cho định lý nhân duyên chi phối và ngày lại ngày sẽ phải phai lạt, sẽ nhuốm màu thời gian mà ngã sang một màu khác. Cho đến cái kim, cái tách cũng thế và cũng bị tan vỡ... Nghĩa là tất cả đều bị định lý vô thường chi phối. Định lý ấy chưa lúc nào chứng tỏ một cách rõ ràng bằng đời hiện tại.

 

Tìm hiểu để xây dựng

Định lý vô thường, đem lại cho chúng ta một trực nhận : Sự vật không phải là chân thật, bền bỉ và thường còn , sự vật không phải là đơn độc riêng biệt trong những thành kiến ích kỷtư hữu, do đó nó thúc dục con người dứt bỏ lòng ham muốn, chấp trược nơi mình, mạnh dạn bước vào đời, xây dựng nền an lạc, giải thoát cho nhân loại.

Hiểu biết lý vô thường để thể nhập tính chân thường.

 

2.- HIỂU BIẾTVÔ NGÃ

" Chúng sanhgiả danh tiện dụng, để chỉ một kết hợp của nhiều nguyên tố không bền vững : Mọi pháp luôn biến đổi ". A. Migot

Vô ngã

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói : " Bốn phần lớn ( tứ đại ) trong mình ta mỗi phần đều có một tên riêng, đều không có gì là " ta " cả. Đã không có ta thì nó chỉ là trò dối mà thôi ! "

Cái ta chỉ là một danh từ trống rỗng, nó là hình thành của nhiều yếu tố khác như : đất, nước, gió, lửa v.v...

dựa vào cá nhân, quốc gia, xã hội hay lý tưởng mà có sự phân biệt. Nó luôn luôn chuyển biến trong vòng sinh, trụ, dị, diệt.

Cái " ta " năm phút sau không còn là cái ta của mấy phút trước. Sợi tóc giờ đây không còn là sợi tóc vừa rồi. Nó thay đổi, nó làm cho mái tóc xanh dần dần sẽ điểm bạc, cái thân tráng kiện, năm tháng sẽ yếu già. Có điểm bạc, có yếu già, tức là không có cái gì đủ sức bảo đảm chắc chắn cho nghĩa chữ " ta " nữa !

Tất cả đều không có ta ( vô ngã ) nếu ly khai tất cả.

Khi cái đã không còn thì dục vọng còn dựa vào đâu để đòi hỏi cho cái ta riêng biệt. Ích kỷ cũng không còn thấy cái kỷ để mà ích. Biên giới thành trì ngăn cách giữa mình và người được san phẳng sự tranh chấp sẽ không còn, mình và người sẽ giao hòa trong một biển sống mênh mông không bờ lũy, không ngần ngạinắm chặt tay nhau, cùng nhau chung sức xây dựng nền hòa bình vĩnh cửuhạnh phúc chân thật cho nhân loại.

Đạo lý vô ngãđộng cơ thúc đẩy con người dũng tiến trong công việc phụng sự nhân loại.

 
3.- THỰC HÀNH GIỚI, ĐỊNH, TUỆ 

" Trên đường tu tập, gắng làm tăng trưởng những khả năng nội thức, để phát sinh trí tuệ. Trí tuệ sáng suốt thì những vọng động hỗn độn và mờ ám được tiêu trừ ".Pau Adam

Giới, Định, Tuệ là nguyên tắc tu, học và hành để thực hiện mục đích giác ngộgiải thoát

Nhà khoa học đem lại một kết quả thực tế cho nhân loại không phải là ít công phu trong sự tìm hiểu, gạt bỏ loạn tưởng, lắng tâm bình tĩnh và nhận định sáng suốt. Con người muốn thành người, muốn giải thoát cũng không thể thiếu được Giới, Định, Tuệ. Ngài giác ngộ trong lúc tâm trí vẳng lặng và sáng suốt hoàn toàn. Sự giác ngộ của ngài không những là tự giải thoát mà còn là một gương sáng hoàn mỹ soi tỏ và đem lại cái chân lý sẳn có nơi chúng sinhchúng sinh không hiểu. Chân lý ấy ở bất kỳ cá thể nào, ở phương sở nào nó chỉ đòi hỏi một tâm trí trong lặng, sáng suốthòa hợp với một lòng thương rộng lớn là sẽ thấy được nó, tức là được giác ngộ, được giải thoát.

Giới, Định, Tuệ là ba môn học không dời đổi, là chìa khóa mở cửa ngõ Niết Bàn giải thoát.

 
A.- THỰC HÀNH GIỚI HỌC

" Giới bổn rất cao quý, nguyên tịnh để dìu dắt chúng sinh đến nơi giải thoát "

Lời Phật dạy

" Giới " là lời răn dạy, ngăn cấm không được làm sự gì trái với sự thật, trái với điều thiện, trái với đường lối giải thoát. " Giới " là phương pháp điều trị những tội lỗi do thân, miệng, ý phát sinh ra, hầu đem lại lợi ích cho mình và cho người.

Trong khi thực hành giới học, cần nhất phải giữ gìn thân, miệng bề ngoài cho đúng với Giới luật thì tâm trí bên trong mới được trong sạch. Trong, ngoài trong sạch, tất nhiên dung nhiếp nhau từ chỗ mê đến chỗ ngộ.

muốn đạt đến chỗ ngộ, cần phải hướng về những giới điều dưới đây :

a/ Nhiếp luật nghi giới

Là những Giới luật, uy nghicông năng gìn giữ thân tâm, không phạm vào những điều ác, khiến thân tâm được an định, trong sạch như năm điều răn v. v...

b/ Nhiếp thiện pháp giới

Là những Giới luật răn làm những việc lành, lợi mình, lợi người như làm mười điều thiện v.v... Nhờ vậy mà phúc đức, uy tín, tự do được thêm lên, khỏi vương vào sự ràng buộc của cảnh giới người và không còn bị cảnh giới người chi phối

c/ Nhiếp- ích hữu tình giới

Là những lời răn dạy để hóa độ, cứu giúp chúng sinh làm những hạnh cứu độlợi ích cho toàn thể.

Như thế nếu thực hành đúng Giới học tất nhiên thân tâm được giải thoát được mọi sự ràng buộckhông sinh khởi ra những hành vi trái lẽ phải. Nhờ có sức mạnh của Giới học mà có thể vượt trên sự chi phối của ngoại cảnh, của nội tâm, để tìm đến sự thật, để đạt tới chỗ giải thoát chân thật.

B.- THỰC HÀNH ĐỊNH HỌC

" Trong cõi vẳng lặng hoàn toàn của nội thức, tâm hồn được an vui thanh tịnh ".

Caufernau

" Định " là một phương pháp chú tâm vào một cảnh, không cho tâm tác động tán loạn và không cho tâm rong ruổi theo các duyên, vì rong ruổi tất sinh vọng niệm, đã có vọng niệm thời bị mê mờ. Nên tu định là cốt trừ những vọng niệm, những tư tưởng mê lầm.

Muốn được như thế điều kiện trước nhất là phải dứt bỏ các món tà niệm bằng cách đem những tư tưởng chân chính mà ngăn dẹp. Nghĩa là trong khi đi, đứng, nằm, ngồi có tà niệm khởi lên cần đem chính niệm nén dẹp ngay lại. Khi diệt được tà niệm rồi vẫn còn những niệm tưởng trong sạch loạn động luôn luôn khởi diệt lại cần phải dứt luôn những niệm tưởng ấy tâm mới được an định.

Khi giữ tâm định rồi phải luôn xa cái niệm gìn giữ cho tâm định ấy tức là tự tâm an trụ không còn vọng động nữa, vì nếu còn niệm gìn giữ cho tâm định là còn vọng niệm.

Trong sự thực hành để đạt tới chỗ thành tựu, cần phải áp dụng những pháp môn sau đây tùy theo trình độ của từng người :

a/ Pháp môn sổ tức
Tu hành phương pháp điều hòa hơi thở, rồi y theo hơi thở ra vào, khiến tâm không loạn động.

b/ Pháp môn tịnh niệm
Giữ niệm cho trong sạch an tĩnh, khiến tâm an trụ vào một niệm thanh tịnh.

c/ Pháp môn thiền định

Thiền là nhất tâm quán vật, định là nhất cảnh tịnh niệm. Là pháp môn dùng sự suy nghĩnghiên cứu, tìm xét cho đến nhất cảnh thanh tịnh.

Định học đem lại cho tâm trí được điều hòa khỏi tán loạn, tối tăm, trí tuệ được phát triển và năng lực được phát sinh, nếu biết thực hành đúng phương pháp của nó

C.- THỰC HÀNH TUỆ HỌC

" Nếu người có trí tuệ soi tỏ mọi lẽ thì dù là con mắt thịt mà chính là người thấy tỏ hết cả ".

Kinh Di Giáo 

" Tuệ" là phân biệt sự , lý, lựa chọn các pháp, dứt sự nghi ngờ, chứng lý chân thật, Tuệ là khả năng khai sáng của tâm trí, quán chiếu sự vật, thể nhậpchứng ngộ chân lý. Tuệ là pháp sáng suốt của tự tâm, luôn luôn thường còn và ai ai cũng sẳn có, chỉ vì mê mờ nên không tự biết, làm cho trí tuệ không được phát triển.

Phương pháp cần thiết

Trong khi thực hành tuệ học, trước hết nên y cứ nơi văn tự để xét nghĩ và hiểu rõ chính lý, rồi dùng chính lý ngăn dẹp tà niệm. Khi tà niệm đã hết chỉ còn chính tuệ thì dùng chính tuệ soi sáng sự vật, phát triển sự thật. Đến khi chính tuệ đã thể nhập được chân lý, giác ngộ được sự thật, tính sáng suốt của tự tâm luôn luôn xuất hiện là thành bậc chính giác.

Như thế nhờ có tuệ học sẽ dứt trừ được phiền não mê lầm, biết được thực tính, thực tướng của sự vật, soi rõ tâm, cảnh là chân khôngchứng ngộ được chân lý như thật.

Tóm lại, chủ đích của đạo Phật là muốn toàn thể chúng sinh giác ngộ được sự thật, sống theo sự thật, để được tự tạigiải thoát. Nhưng, muốn được thế cần phải lấy sự hành trì làm căn bản, mà nguyên tắc chính của tất cả sự hành trì là Giới, Định và Tuệ. Vậy chúng ta nên đặc biệt chú trọng vào ba môn đó mà thực hành. Vì chỉ có sự thực hành theo đúng nguyên tắc căn bản mới đưa đến mục đích giải thoátgiác ngộ của đạo Phật.

" Nếu ai ráng tu tập và trao dồi tâm trí để thoát khỏi vòng phiền não : tham, sân, si tất nhiên người ấy sẽ được hoàn toàn giải thoát ".

D.- THỰC CHỨNG SỰ LÝ GIẢI THOÁT

" Đạo diệt khổ tức là chân đạo, ngoài ra không còn đạo nào khác nữa "

Kinh Di Giáo

" Giải thoát là chung kết của sự mong muốn tương đối và sự hiểu biết hoàn toàn tuyệt đối "

Giải thoátxu hướng chung của loài người. Trong khi con người đang lâm vào hoàn cảnh đau khổ, mê lầm, tất nhiên con người chỉ mong cầu được an lạc giải thoát. Nhưng sự mong cầu ấy, ít khi đem lại cho họ một kết quả mỹ mãn, vì họ chỉ tìm giải thoát nơi ngoài mình, chứ họ không tìm giải thoát nơi trong mình. Chính con ngườinguyên nhân, là hình ảnh của đau khổ, mê lầm thì con người cũng là nguyên nhân, là hình ảnh của an lạc giải thoát. Cho nên khi nào con người biết dứt bỏ mê lầm, hiểu thấu chân lý, coi những sự khoái lạc, huy hoàng đều là giả dối, biết vận dụng làm lợi ích cho chúng sinh lúc đó mới là giải thoát chân thật hoàn toàn cả sự lẫn lý.

" Tự tín chân thật còn mê mờ thì phúc nào cứu thoát được "

Kinh Pháp Bảo Đàn

Căn cứ vào sự, lý giải thoát, nơi đây có thể phân tích làm ba loại :

a/ Giải thoát về hoàn cảnh

Hoàn cảnh con người nhiều khi đem lại cho con người một sự đau khổ trực tiếp nên con người chỉ mong cầu một đời sống rộng rãi, tự do, không bị ràng buộc về vật chất cũng như về tinh thần, tùy theo tư tưởng của con người.

_ Có người muốn sống một đời sống vật chất đầy đủ như cơm ăn, áo mặc, vật dụng, vợ đẹp, con xinh, nhà cao, cửa rộng, quyền thế to tát, giàu có thừa thải và không bị một quyền lựcáp bức, kìm hãm, mặc sức cho họ thỏa mãn dục vọng.

_ Có người muốn xa lìa vật chất, coi vật chất là mồi ngon của dục vọng, là trợ lực của đấu tranh, họ chỉ muốn tìm nơi thanh vắng để huân tu đạo nghiệp. Khi tu tập đã thành công thì vật chất bên ngoài không thể chi phối được họ, do đó mà họ được giải thoát.

So sánh hai quan niệm giải thoát hoàn cảnh trên đây, thì thấy họ đều nghiêng về một phương diện, một bên ưa sống trong đời sống vật chất đầy đủ, một bên không quan tâm đến vật chất bên ngoài, chỉ cần rèn luyện tâm trí mà thôi. Đã nghiêng về một phương diện quyết định chưa được giải thoát hoàn toàn

b/ Giải thoát về tự tâm

Con người tuy đã vượt qua được hoàn cảnh ràng buộc theo ý muốn của mình nhưng, chưa thể giải thoát được nỗi thống khổ lớn lao do nọc độc : tham, sân, si... phun ra. Đói cơm thiếu áo là khổ thì dục vọnghiện thân của tham, sân, si cũng không phải là kém phần đau khổ. Thực tế đã chứng minh : biết bao người ngậm hờn trên gấm vóc, nuốt lệ trong ngọc ngà, kết cuộc họ cũng có thể chết mòn mỏi như những người nghèo đói, rét mướt, hoặc còn khổ hơn và chiếm phần đa số là khác. Nghĩa là họ bị dục vọng tham, sân, si thúc dục.

Muốn giải thoát trong mọi nổi thống khổ ấy không chi bằng diệt trừ nguyên nhân đau khổ, tức diệt trừ lòng ham muốn, giận dữsi mê, mở rộng một đường thẳng đến mục đích của giải thoát lâu dài, vượt ngoài vòng sinh tử luân hồi.

" Chỉ không còn sinh tử mới là an vui tuyệt đối ".

Kinh Đại Niết Bàn

c/ Giải thoát hoàn toàn

Con người đã thoát khỏi sự ràng buộc của phiền não, thoát ly được sinh tử luân hồi nhưng vẫn chưa được hoàn toàn giải thoát, vì còn có tướng giải thoát. Nghĩa là còn sự chấp trược là " được giải thoát ". Còn chấp trược tất nhiên sự hiểu biết chưa được cứu cánh, sự thực hành chưa được dung thông. Trái lại khi nào sự hiểu biết không còn bị thời giankhông gian hạn chế, không còn bị tâm lý, sinh lý tầm thường chi phối, ra vào chỗ trong sạch không vui thích, chỗ ô uế không nhiễm trược, tức là lúc nào đã chứng nhập được chân tướng của sự vật, thể nhập bản thể của vũ trụ và được tự tại vô ngại, thì lúc đó mới là giải thoát cứu cánh. Bản chất của gương là trong sáng, thì để đâu cũng sáng, sự vật nào soi vào cũng được, soi xong gương vẫn là gương, trong sáng vẫn là trong sáng. Bản chất của cây sen, hoa sentrong sạchvô ngại thì ở khoảng bùn tanh hôi cũng vẫn như như bất động.

Bản thể của điện là nhanh, sáng, thì mặc dầu dùng vào hình thức nào nó vẫn nhanh sáng và khi ly khai hình thức ấy ra nó vẫn là " điện ".

Như thế, giải thoát cứu cánh có nghĩa là không còn một chút gì ràng buộc trong sự hiểu biếtthực hành mà đều được viên dung, tự tại.

Cho nên trong hành vi, trong ý nghĩ của người nào mà có được đôi phần đức tính của chân giải thoát thì mới thật là con ngườigiải thoát, có an vui và có lợi ích thật sự cho tất cả mọi người, mọi vật.

Kết luận

Con người cùng nhịp nhàng trong bản thể vũ trụ, cùng chịu luật tiến hóa chung của vũ trụ, nhưng kèm theo với đặc tính và hình thể riêng biệt, tùy thuộc vào định luật nhân quả của nó.

Con người là chủ nhân ông của tất cả hành vi, sự nghiệp của con người. Con người được thành người hay được giải thoát cứu cánh chỉ khi nào con người biết rèn luyện thân tâm, hiểu biết nghĩa vụ, diệt trừ ham muốn, thẳng tiến trên đường lợi sinh, không còn bị hạn chế và ngăn ngại.

" Con người là tất cả và trên tất cả ! ... "


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8808)
Các nhà khảo cổ phát hiện ra bằng chứng về 1 ngôi chùa Phật giáo cổ nhất chưa từng được khám phá, niên đại khoảng năm 550 TCN... National Geographic
(Xem: 9317)
Học Phật Nên Biết - Tác Giả: Pháp Sư Thánh Nghiêm, Pháp Sư Ấn Thuận, Pháp Sư Kim Minh và Phương Khắc Minh; Dịch Việt: Thích Nguyên Thành
(Xem: 11477)
Kinh PHÁP CÚ là một bộ Kinh rất xưa, được xem là kinh Lời Vàng cho những ai có chí nguyện tu tâm, dưỡng tánh để tiến thân trên lộ trình hành đạo giải thoát... Thích Nữ Nguyệt Chiếu
(Xem: 7578)
Lâu nay nói đến các trường Phật họcNam Bộ, người ta thường nghĩ đến Phật học đường Nam Việt, Sài Gòn... Thích Minh Cảnh
(Xem: 12302)
Tự học tiếng Tây Tạng - Tạng Ngữ Hiện Đại - Losang Thonden, Việt dịch: Konchog Kunzang Tobgyal
(Xem: 143677)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 6970)
Với tinh thần đó, trong khi chuyển ngữ ra tiếng Việt thời nay, việc gỡ bỏ ba chữ đó là hoàn toàn hợp lẽ... Hoằng Quảng
(Xem: 11889)
Nội dung tu học Phật pháp nước ta đại bộ phận đều phát xuất từ các kinh điển Hán dịch... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 8633)
Thế giới này là một chuỗi dài nhân duyên nương tựa vào nhau mới bảo tồn sự sống... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 19975)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 9292)
Một bản ngã khi muốn có được cái gì từ người khác thường thích đóng vai một nhân vật nào đó để làm cho nhu cầu của nó được đáp ứng... Eckhart Tolle
(Xem: 10836)
Sắc Tức Là Không, Không Tức Là Sắc - Nguyên tác: Cư sĩ Lý Nhất Quang, HT Thích Thắng Hoan dịch Việt ngữ
(Xem: 13591)
Biểu tượng quốc gia của các nước như Thái Lan, Indonesia, và thủ đô Ulan Bator (Mông Cổ) là hình tượng chim thần Garuda... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 11451)
La Sát là từ được phiên âm của Rakshasa/ Raksha (Sanskrit) là một sinh vật thần thoạihình dáng, tính cách của loài người hoặc quỷ thần bất thiện trong Hindu giáo và Phật giáo... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 9368)
Ở xứ ta, sinh vật thần thoại Khẩn Na La, trong kinh văn Phật giáo là một trong “bát bộ chúng”. Trong mỹ thuật cổ, sinh vật thần thoại Kinnara này được giới nghiên cứu gọi là “Tiên nữ đầu người mình chim”... Huỳnh Thanh Bình
(Xem: 14477)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 7274)
Lâu nay mỗi chúng ta theo đạo Phật nhưng có nhiều điểm nghi ngờ, thấy đạo Phật hình như tiêu cực, đa số chùa chiền đều ở trên núi, cách xa thành thị... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 32511)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13142)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 21013)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 39161)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 7140)
Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path” by Khenchen Konchog Gyaltshen, edited by Khenmo Trinlay Chödrön, Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
(Xem: 8983)
Một cơn đau đớn cực độ cũng có thể đưa đến một thể dạng giác ngộ nào đó giúp mình mở rộng tâm thức và con tim hướng vào kẻ khác.
(Xem: 6762)
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18/9/2013 đã nêu lên các mưu đồ và tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni ... Hoang Phong
(Xem: 9781)
Bất nhị là không phải hai hay nhiều, cũng không phải một, mà là vô lượng hay không có số lượng. Số lượng là số đếm chỉ có trong thế giới tương đối, nhị nguyên... Truyền Bình
(Xem: 9493)
Thầy Tuệ Sỹ viết: “Bởi vì con cá dưới lòng sông không làm sao hiểu nổi chuyện kể đầy tính hoang đường của con rùa sau những chuyến du hành trên đất liền..." Đặng Công Hanh
(Xem: 8058)
Cứ một ngàn dải Ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới... Nhụy Nguyên
(Xem: 11806)
Các khoa học gia đã tìm thấy Thiền tập đều đặn có thể thay đổi cơ cấu hoạt độnghệ thống kinh mạch bên trong não bộ... Nguyên tác: Marc Kaufman; Trần Như Mai dịch
(Xem: 16182)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 9631)
Chúng tôi hi vọng tập sách nhỏ này sẽ giúp ích phần nào cho sự tu học của đại chúng. Chúng tôi cũng mong mỏi được các bậc cao minh tôn túc chỉ bảo cho những điều sai sót mà chúng tôi biết chắc chắn là không thể nào tránh khỏi được.
(Xem: 12257)
Theo kinh điển, hai truyền thống Nam truyền và Bắc Truyền đều thừa nhận Đức Phật có đầy đủ 32 tướng quý... Thụy Nguyên
(Xem: 8821)
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đưa người ta đến một sự chuyển hóa toàn triệt và toàn diện cuộc đời sanh tử khổ đau manh mún bởi chia cắt, phân biệt, oán ghét và xung đột của mình bằng cái thấy biết chân thật của Phật... Đương Đạo
(Xem: 15590)
Giáo Khoa Phật Học (3 Tập) Nguyên tác Hán ngữ của PHƯƠNG LUÂN cư sĩ, Cư sĩ HẠNH CƠ dịch và biên soạn bổ túc
(Xem: 8035)
Trong khi xem kinh, nên có con mắt trạch pháp để nhận định những lời nào Phật quyền thuyết, những lời nào Phật thật thuyết, những lời nào là chính yếu, những lời nào là phụ yếu...
(Xem: 17871)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 8683)
Lương Vũ Đế, tự Tiêu Diễn, lên ngôi vào năm 37 tuổi, tại vị 49 năm, thọ 86 tuổi. Là vị vua sáng lập nên triều đại nhà Lương (502-556) trong giai đoạn Nam Bắc triều (420-589) của Trung Hoa.
(Xem: 8329)
“Nghiệp” là một danh từ triết học Ấn Độ có trước khi Đức Thích Ca xuất hiện. Ý nghĩa cơ bản của nó là “hành động” hoặc “thói quen”... Nguyễn Xuân Chiến
(Xem: 10543)
Nguyệt San Phật Giáo Việt Nam - Do Tổng hội Phật Giáo Việt Nam xuất bản năm 1956
(Xem: 15866)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 17537)
Danh từ tên gọi của Thủ Lư theo sách Trung Hoa Phật Quang Văn Hóa Thiên Phật Giáo Dụng Ngữ chép: "Thủ lư là lư hương cầm ở trên tay, còn gọi là Bỉnh hương lư, Thủ lư, Đề lư... Thích Tâm Mãn
(Xem: 7947)
Đại chúng bộbộ phái được xem là tiền thân của Phật giáo Đại thừa hoặc là bộ phái đóng góp nhiều trong lịch sử phát triển Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 13031)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 8061)
Phật dạy 20 điều khó không mang một sắc thái bi quan hay chán chường, mà nhằm chỉ dạy chúng ta phải ý thức rằng sự sống này phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống trên nền tảng của nhân quả... Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 8626)
Đạo Phậtcon đường dẫn đến an vui giải thoát. Đức Phật là bậc đạo sư, là người dẫn đường chứ không phải là vị thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai... Hoàng Nguyên
(Xem: 9792)
Tam Nguyệt San Hải Triều Âm - Cơ quan phát khởi nền quốc học, Phật học, và Văn hóa Việt Nam do Tổng Vụ Văn Hóa GHPGVNTN chủ trương từ 1973 đến 1975
(Xem: 10363)
Mục đích duy nhấtcuối cùng của con đường học Phật, tu Phật chính là thoát khỏi sinh tử. Trên đường đi tới điểm đích ấy, nền tảng chủ yếu hướng dẫn người tu Phật xuất gia lẫn tại gia không bị lạc lối được xem là sự nghiệp trí tuệ... Đoàn Ánh Loan
(Xem: 23289)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19393)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 10073)
Tuần San Đuốc Tuệ 1965 - Cơ Quan Phát huy tinh thần Phật Giáo, Khai triển văn hóa dân tộc - Miền Vĩnh Nghiêm trong GHPGVNTN 1965
(Xem: 8276)
Đặc San Hoằng Pháp Dharmaduta - Cơ Quan Truyền Bá Chánh Pháp Của GHPGVNTN 1973
(Xem: 24220)
Từ Điển Pháp Số Tam Tạng - Nguyên tác: Pháp sư Thích Nhất Như, Cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
(Xem: 8868)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
(Xem: 8475)
Có thể nói rằng quan điểm bình đẳng về khả năng giải thoát tâm linh do Đức Phật đưa ra có một ý nghĩa cách mạng xã hội đáng kể...
(Xem: 8020)
Những hố thẳm triết lý mà Phạm Công Thiện nhắc tới là những hố thẳm tuyệt vọng của triết lý Tây Phương khi chưa tìm ra ngỏ thoát... Quán Như
(Xem: 17782)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 9526)
Hãy hướng tâm vào bên trong và cố gắng tìm niềm vui ở bên trong. Chỉ khi tâm đã được kiềm chế và dẫn dắt đúng hướng thì nó mới có ích cho chủ của nó và xã hội.
(Xem: 8219)
Lôgic học Phật giáo được hình thành trước logic học Aristote gần hai trăm năm. Hệ thống lôgic của Phật giáo "thực tế" hơn và mang một chủ đích hay ứng dụng rõ rệt hơn... Hoang Phong
(Xem: 24392)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 24727)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 8422)
Triết học Trung quán kêu gọi sự chú ý của chúng ta, như một hệ thống đã tạo nên cuộc cách mạng trong đạo Phật và qua đó, toàn lĩnh vực triết học Ấn Độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant