Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiết 3: Thiền thời hậu chiến

13 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11507)
Tiết 3: Thiền thời hậu chiến

LỊCH SỬ THIỀN TÔNG NHẬT BẢN
Biên dịch: Nguyễn Nam Trân - Bản Thảo 2009

Chương 5 
Thiền Nhật Bản cận hiện đại

Tiết 3 - Thiền thời hậu chiến 

Điểm khởi hành mới 

Sau khi thất trận năm 1945, nước Nhật bị đặt dưới sự cai trị của Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Chiếm Đóng thuộc quân Đồng Minh (gọi tắt là GHQ). Nhiều chính sách mới được thực thi, trong đó có sự nhìn nhận quyền tham gia chính trị của phụ nữ, việc phóng thích chính trị phạm, giải tán tài phiệt, cũng như những cải cách về chính sách nông nghiệp và giáo dục... 

Đến năm 1946, một hiến pháp mới được công bố với những điều khoản xác định chủ quyền thuộc về dân chúng, Thiên Hoàng chỉ còn là một biểu tượng trưng, nhà nước theo nguyên tắc hòa bình, bãi bỏ chiến tranh, và tôn trọng các quyền dân chủ cơ bản của người dân. Hiến pháp đó có hiệu lực kể từ năm sau. Từ đó, nước Nhật bắt đầu đi trên một con đường mới. 

Thế rồi khi cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Liên Xô trở nên quá gay gắt, thế giới bước vào cuộc chiến tranh lạnh với một bên là khối tư bản Anh Mỹ, một bên là khối cộng sản mà Liên Bang Xô Viết là đầu tàu. Nhân vì Nhật Bản đang ở dưới sự cai trị của Mỹ, việc phục hưng kinh tế Nhật Bản nằm trong kế sách đối đầu với Liên Xô của Mỹ. Dần dần quân đội chiếm đóng đã ủy nhượng quyền hành lại cho chính phủ Nhật Bản

Năm 1950, chiến tranh trên bán đảo Triều Tiên mở màn. Như một lực lượng hậu cần, Nhật Bản hưởng được ân huệ của nền kinh tế đặc nhu (cung cấp nhu yếu và dịch vụ cho chiến trường), cho nên chẳng mấy chốc đã khôi phục lại sức mạnh khoáng nghiệp và công nghiệp có trước chiến tranh. Sau khi hiếp ước hòa bình ký xong ở San Francisco năm 1951, Nhật Bản được độc lập và đến năm 1956 đã trở thành hội viên của Liên Hiệp Quốc. Thế rồi dưới sự lãnh đạo của các chính phủ bảo thủ kế tiếp, Nhật Bản duy trì liên tục được sự phát triển về kinh tế qua 3 thời kỳ thịnh vượng gọi là thời kỳ Jimmu (1955-57), Iwato (1958-61) và Izanagi (1965-70), cả ba đều là tên những giai đoạn vinh quang của Nhật trong thần thoạicổ sử. Năm 1964 với Thế Vận Hội Tôkyô và năm 1970 với Hội Chợ Quốc Tế Ôsaka, từ từ Nhật Bản đã đạt được ngôi vị cường quốc thứ hai về kinh tế trên thế giới

Cuộc chiến tranh lạnh tuy dai dẳng nhưng rốt cục cũng cáo chung vào năm 1989 khi Tổng Bí Thư Gorbachev thúc đẩy thành công một chính sách đổi mới trên quê hương ông, mở đường cho Đông Âu dân chủ hóa và nước Đức đi đến tái thống nhất (1990). Thế giới đã bước vào một thời đại mới. Thế nhưng hiểm họa chiến tranh hạt nhân, sự ô nhiễm môi trường sinh thái và những biến đổi đột ngột về khí hậu, sự tiến bộ về y học và di truyền học kèm theo vấn đề luân lý được đặt ra cho sinh mệnh...là những vấn đề mới và khó giải quyếtcon người ngày nay lần đầu tiên phải trực diện. 

Ảnh hưởng của việc Nhật thất trận đối với Thiền 

Việc Nhật Bản bại trận ảnh hưởng rất lớn đối với giới Phật giáo. Ở vùng đô thị, các đàn việt trực thuộc vào một ngôi chùa (đàn tín đồ) và các tự viện vì cơn binh hỏa đã phải ly tán, còn ở đồng quê thì sau vụ cải cách ruộng đất, tự viện mất hết đất trồng và đất rừng làm cho họ phải lâm vào cảnh cùng quẫn

Ngoài ra, hiến pháp công bố năm 1946 dã xác nhận quyền tự do tín ngưỡng và bắt chính trị phải tách ra khỏi tôn giáo. Điều đó đã được cụ thể hóa bới đạo luật về các pháp nhân tôn giáo ra đời năm 1950. Bộ dân luật năm 1947 đã bãi bỏ chế độ gia đình dựa trên quyền chủ hộ (koshuken), bắt buộc giáo đoàn Phật giáo phải thay đổi hoàn toàn cách tổ chức. Lý do là theo đó, các chùa phải thoát khỏi mối quan hệ có tính cách nương tựa giữa chùa và nước cũng như giữa chùa và đàn việt như xưa mà chỉ còn có mỗi mối liên hệ giữa chùa và một cá nhân có nhu cầu tôn giáo thực sự. Để đối phó với tình hình mới như thế, các tông phái Thiền đã định ra "tông chế" cho mình (1952) và thiết lập những tổ chức như Hanazonokai (Hoa viên hội, 1947 trường hợp của phái Myôshinji tông Lâm Tế) hay Baikakô (Mai hoa giảng, 1951, của tông Tào Động) để khuyến khích việc giảng đạo tại gia. Họ cũng phát hành những tạp chí như Zen Bunka (Thiền Văn Hóa, sáng lập năm 1955). Thế nhưng, thật khó lòng thay đổi tổ chức của giáo đoàn một sớm một chiều như thế. Trên thực tế, ngoại trừ Asahina Sôgen (Triêu Tỉ Na, Tông Nguyên, 1891-79) tích cực tham gia vận động hòa bình, Yamada Mumon (Sơn Điền Vô Văn, 1900-1988) tận tụy ủy lạo vong linh những người chết trong chiến tranh, hay Ichikawa Hakugen (Thị Xuyên Bạch Huyền, 1902-1986) nêu lên vai trò trách nhiệm chiến tranh của giáo hội, hầu như không ai khác có một tiếng nói nào đáng kể

Theo đạo luật mới về pháp nhân tôn giáo, các chùa được hoạt động truyền đạo một cách tự do và nếu một chùa nào muốn thoát ra khỏi tông phái (đơn vị hóa) thì cũng sẽ dễ dàng toại nguyện. Do đó, sau chiến tranh, các tân giáo đoàn thi nhau thành lập. Liên quan đến Thiền Tông thì có các phái thuộc hệ Lâm Tế như Kôshôjiha (Hưng Thánh Tự phái), giáo đoàn Ichihatayakushi (Nhất "Điền" Dược Sư), giáo đoàn Ningenzen (Nhân Gian Thiền), giáo đoàn Senshin (Tẩy Tâm)...và các phái thuộc hệ Tào Động như Nyoraishuu (Như Lai Tông) (sau đó đổi thành Như Lai Giáo), giáo đoàn Isson (Nhất Tôn), giáo đoàn Sanpô (Tam Bảo) vv...Trong số đó có giáo đoàn Ningenzen (tông Lâm Tế) mà chủ tể là Tatsuta Eizan (Lập Điền, Anh Sơn, 1893-? ) - một đệ tử của Shaku Sôkatsu (Thích, Tông Hoạt) - đã thừa kế tinh thần của Ryôbôkai (Lưỡng Vong Hội của Imakita Kôsen) và của giáo đoàn Ryôbôzen Kyôkai (Lưỡng Vong Thiền hiệp hội của Shaku Sôkatsu) mà đề cao "chủ nghĩa tại gia" . Phong trào này đáng chú ý vì người ta theo rất đông. Lại nữa, giáo đoàn Sanpô (tông Tào Động) do Yasutani Hakuun (An Cốc, Bạch Vân) đứng đầu, đã biết ứng dụng phương pháp "khán thoại thiền" của tông Lâm Tế, và tích cực truyền giáo ở hải ngoại. 

Việc phát triển học vấn 

Một đặc điểm của Thiền Tông thời học chiến có lẽ là hoạt động xã hội rất giới hạn của các thiền tăng. Ngoài nước, mối quan tâm của Âu Mỹ đối với Thiền càng ngày càng lớn và những hoạt động truyền giáo tích cực ở hải ngoại của các tăng Lâm Tế như Shibayama Zenkei (Sài Sơn Toàn Khánh, 1894-1974) và Nakagawa Sôen (Trung Xuyên Tông Uyên, 1907-1984), các tăng Tào Động như Yasutani Hakuun (An Cốc), Deshimaru Taisen (Đệ Tử Hoàn, Thái Tiên, 1914-1982) rất được lưu ý. Thế nhưng trong nước người ta không biết đến họ cho lắm, ngay cả việc làm của Tatsuta Eizan (Lập Điền Anh Sơn) và Hisamatsu Shin,ichi (Cửu Tùng Chân Nhất) (năm 1958 đã lập ra Hiệp Hội Thiền FAS), Fujikichi Jikai (Đằng Cát, Từ Hải, 1915 - , sau khi tham khảo Phật giáo Đài Loan đã đề xướng một lối tu thiền mới). Lần hồi, hoạt động của họ xem như bị tắt ngấm. Thế rồi trong bối cảnh mà những giá trị quan Âu Mỹ chiếm thượng phong như vậy, người ta không còn có thể chấp nhận một lối tu thiền chỉ nhắm mắt tôn thờ truyền thống mà không hề phê phán. 

Việc truyền bá Thiền Tông ở các nước Âu Mỹ thời hậu chiến 

Những người đã nỗ lực truyền giáo ở các nước Âu Mỹ ngoài Shibayama, Nakagawa,Yasutani, còn có các tăng Lâm Tế Seki Yuuhô (Quan, Hùng Phong, 1900-1982) và Suzuki Sôchu (Linh Mộc, Tông Trung, 1921-1990). Riêng Hisamatsu Shin.ichi đã được mời giảng về Thiền ở Đại Học Harvard. Sở dĩ người ta chấp nhận ông như vậy một phần nào cũng nhờ ở hoạt động mở đường trước chiến tranh của Suzuki Daisetsu đã khai sanh ra một phong trào tu Thiền rầm rộ gọi là "Zen boom" ở Mỹ trong thập niên 1950. Dạo đó sự quan tâm đối với Thiền Tông đã khơi nguồn trong quá trình phát triển của văn hóa Hippy và có dính dáng đến cả việc sử dụng cần sa ma túy, chứng tỏ người ta chẳng hiểu biết cho lắm về bản chất của Thiền. Tuy vậy phong trào này cũng đã đóng vai trò giúp cho người Mỹ tiến lại gần với Thiền và mở đường cho việc tìm hiểu về Thiền một cách thực tiễn và sâu sắc hơn. Những người đóng góp nhiều trong việc này là tăng Tào Động Suzuki Shunryuu (Linh Mộc, Tuấn Long, ? -1971) và tăng Lâm Tế Shimano Eidô (Đảo Dã, Vinh Đạo, 1932- ), hai người đã sống ở Mỹ một thời gian lâu và có cơ sở để chuyên chú vào việc chỉ đạo thiền sinh. Năm 1967, Suzuki Shunryuu đã thiết lập một trung tâm tu thiền gọi là Tassajara Zen Center (Thiền Tâm Tự) ở Monterey (California) để đào tạo các sư gia người Mỹ. Có thể nói đầy là tùng lâm đầu tiên trên đất Mỹ. Shimano cũng lập Quốc Tế Sơn Đại Bồ Tát Thiền Đường trong vùng núi non phụ cận New York. Trên đất Mỹ, còn có Rochester Zen Center do Philip Kapleau, một người từng đến Nhật học thiền với Nakagawa Sôen, Harada Sogaku và Yasutani Hakuun. Tác phẩm The Three Pillars ò Zen (Ba Trụ Cột của Thiền, 1965) ông viết hãy còn có giá trị kinh điển cho giới độc giả tiếng Anh. Ngày nay con số đạo tràng (Zen Center) ở Mỹ tăng lên rất nhiều và vẫn kế tục hoạt động. Bà Sasaki Ruth (phiên âm) từng theo học thiền với Sasaki Shigetsu (Tá Tá Mộc Chỉ Nguyệt) ở Mỹ đã mở một tháp đầu gọi là Long Tuyền Am trong khuôn viên Daitokuji và chỉ đạo tọa thiền cho những người ngoại quốc đến Nhật. Đó cũng là một hình ảnh chứng minh cho sự quốc tế hóa của Thiền Tông. Mặt khác, Deshimaru Taisen (Đệ Tử Hoàn) đã phụ trách truyền giáo ở Âu Châu, sau nhiều năm cố gắng, đã mở được đạo tràng trong một lâu đài bên bờ sông Loire mang tên Thái Tây Phật Giáo Đệ Nhất Đạo Tràng. 

Trong khung cảnh ấy, lãnh vực nghiên cứu có tính học thuật là hưng thịnh hơn cả. Sau chiến tranh, số hội viên của Nhật Bản Ấn Độ Học Phật Giáo Học Hội thành lập vào năm 1951, càng ngày càng thêm đông. Trong số đó, những nhà nghiên cứu về Thiền Tông chiếm một vị trí không nhỏ. Ngoài ra, tờ Thiền Học Nghiên Cứu và một số tạp chí khác đã có từ trước thời chiến cùng với các tạp chí và kỷ yếu ra đời sau này như Tông Học Nghiên Cứu (từ 1956), Thiền Văn Hóa Nghiên Cứu Sở Kỷ Yếu (từ 1969), Thiền Nghiên Cứu Sở Kỷ Yếu (từ 1971) với mục đích chính là nghiên cứu Thiền Tông, đã được in ra và phát hành đều đặn

Các cơ sở và các nhân vật đóng vai trò quảng bá quan trọng từ thời hậu chiến, về việc phát hành sách vở cơ bản, trước tiên phải kể đến Thư Viện Đại Học Komazawa, đã cho ra đời Tân Soạn Thiền Tịch Mục Lục (1962). Sau đó là Tào Động Tông Toàn Thư San Hành Hội với Tục Tào Động Tông Toàn Thư (1974-77). Hirakubo Akira Bình Cử Bảo, Chương) đã biên tập Tân Soạn Hiệu Đính Ẩn Nguyên Toàn Tập (1979), Akao Ryuuji ( Xích Vỹ, Long Trị) biên Bàn Khuê Thiền Sư Toàn Tập (1976), nhà xuất bản Chikuma Shôbô ấn hành một loạt Thiền Ngữ Lục (từ 1969-81) và một loạt Nhật Bản Thiền Ngữ Lục (1977-78). Nghiên cứu về lịch sử Thiền Tông đã có Sekiguchi Shindai (Quan Sơn, Chân Đại) với Nghiên Cứu Đạt Ma Đại Sư (1957) và Thiền Tông Tư Tưởng Sử (1964), Yanagita Seizan (Liễu Điền Thánh Sơn) với Nghiên Cứu Sơ Kỳ Thiền Tông Sử Thư, Haga Kôshhiro (Phương Hạ, Hạnh Tứ Lang) với Nghiên Cứu Văn Hóa Đông Sơn (1945) và "Nghiên Cứu về học vấn và văn học của thiền lâm thời trung cổ" (1956), Imae Aishin (Kim Chi, Ái Chân) với "Nghiên cứu lịch sử Thiền Tông thời trung cổ" (1970), Takamura Takeji (Ngọc Thôn, Trúc Nhị) với Nhật Bản Thiền Tông Sử Luận Tập (1976-81) và Ngũ Sơn Văn Học Tân Tập (1967-72), Tâmmura Takeji, Inoue Zenjô (Tỉnh Thượng, Thiền Định) biên "Lịch sử Engakuji" (1964), Kawase Kazuma (Xuyên Lại, Nhất Mã) với Nghiên cứu Ngũ Sơn Bản (1970). Vì lý do khuôn khổ trang giấy có hạn nên phải lược bỏ bớt một số công trình

Nghiên cứu về thiền sư Dôgen cũng được tiếp tục một cách rầm rộ, phân ra làm hai luồng lớn, trong đó có những nghiên cứu về mặt văn bản do các tăng sĩ Tào Động và những nghiên cứu về mặt tư trưởng đảm nhiệm bởi các triết gia

Loại nghiên cứu văn bản thì có "Nghiên cứu lịch sử trứ thuật của Chính Pháp Nhãn Tạng" (1972) và "Nghiên cứu về lịch sử truyền bá những dị bản của Chính Pháp Nhãn Tạng" (1973) của Nagahisa Gakusui (Vĩnh Cửu Nhạc Thủy), "Nghiên cứu về truyện ký của thiền sư Đạo Nguyên" (1953), Đạo Nguyên Thiền Sư Toàn Tập, hai tập, biệt san Đạo Nguyên Thiền Sư Chân Bút Tập Thành của Ôkubo Dôshuu (Đại Cửu Bảo, Đạo Châu), Đạo Nguyên Thiền Sư Truyện Nghiên Cứu (1979) của Nakaseko Shôdô (Trung Thế Cổ, Tường Đạo) vv.... 

Về loại nghiên cứu tư tưởng trước tiên cần nhắc đến "Vũ trụ ngôn ngữ của Đạo Nguyên" (1974) do Terada Tôru (Tự Điền, Thấu),"Chính Pháp Nhãn Tạng: cấu trúc luận lý tư tưởng của Đạo Nguyên" (1976) do Kasuga Yuuhô (Xuân Nhật Hựu Phương) viết. Ngoài ra, người đề cập đến Dôgen với quan điểm nghiên cứu tư tưởng sử và phê phán sự xa rời đại chúng của ông là Inenaga Saburô (Gia Vĩnh Tam Lang, 1913-2002) trong "Nghiên cứu lịch sử tư tưởng Phật giáo thời trung cổ [24] (1960)". Cũng phải nhắc tới "Nghiên cứu quốc ngữ học về Chính Pháp Nhãn Tạng", tác phẩm của Tajima Sodô (Điền Đảo, Sơ (?) Đường) với cái nhìn dưới khía cạnh ngôn ngữ học. Nói chung, tác phẩm của Dôgen đã được mổ xẻ bằng những phương pháp đa dạng. 

blank
Carl Gustav Jung (1875-1961) đã kết hợp Zen 

với Tâm Phân Học

Tuy vậy, khuynh hướng này không chỉ thấy ở việc nghiên cứu Dôgen mà thôi. Cùng sự phát triển của học vấn trong nhiều lãnh vực, vào thời hậu chiến, khi nghiên cứu về Thiền, người ta không dừng ở khía cạnh tư tưởng hay văn hóa mà còn nhìn đánh giá nó lại dưới những khía cạnh khác.Chikusa Gashô (Trúc Sa, Nhã Chương) trong "Nghiên cứu lịch sử xã hội của Phật giáo Trung Quốc" (1982) và Michibata Ryôshuu 

(Đạo Đoan, Lương Tú) trong "Nghiên cứu lịch sử kinh tế xã hội của Phật giáo Trung Quốc" (1983) đã chú ý đến khía cạnh xã hội sử hay kinh tế xã hội sử, soi sáng thêm cách nhìn đối với Thiền. Suzuki Daisetsu và Eric Fromm (1900-1980) đã thử so sánh Thiền với tâm phân học (psycho-analysis) trong "Thiền và khoa học phân tích tâm lý" (dịch sang Nhật ngữ năm 1960). Akishige Yoshiharu (Thu Trọng Nghĩa Trị) và Kasamatsu Akira (Lạp Tùng, Chương), Hirai Tomio (Bình Tỉnh, Phú Hùng) nghiên cứu Thiền theo quan điểm khoa học tự nhiên (y học) bằng cách đo sự hô hấp và não ba của người đang tọa thiền.Gần đây, còn có những nghiên cứu đáng chú ý khác liên quan đến ngôn ngữ địa phương thời trung cổ, sử dụng các bản sao chép (shômono) của Thiền Tông như tư liệu, hoặc đến cách chỉ đạo trong các tăng đường với phương pháp luận của giáo dục học. 

Những vấn đề mới phải đối đầu 

Càng tập trung mọi nỗ lực thuần túy học vấn để nghiên cứu Thiền thì người ta càng dễ đi đến mâu thuẫn về mặt tôn giáo, gây trở ngại việc đến tọa thiềntăng đường và khiến họ càng ngày càng cách xa thực tế xã hội. Tình trạng này làm tiêu hao lòng tin tôn giáo. Nó giải thích tại sao vào thời hậu chiến, các thiền tăng ngoài chuyện nghiên cứu viết lách, hầu như không còn có hoạt động nào đáng kể. Trước chiến tranh nhờ công lao của Yamamoto Genbô (Huyền Phong) và Sawaki Kôdô (Hưng Đạo) trong việc hướng dẫn tu hành, hãy còn đào tạo được nhiều nhà tu hành đạo đứcảnh hưởng sâu xa đến quần chúng, chứ đến thời hậu chiến thì hầu như chuyện ấy không thể nào xảy ra được nữa. 

Trước tình huống như thế dĩ nhiên thiền tăng dần dần bị mất chỗ đứng trong xã hội. Sau chiến tranh, số người cắp sách đến trường nhiều ra cho nên hình ảnh vị thiền sư như nhà trí thức của đời Edo hay ngay cả trước chiến tranh cũng đã phai mờ và tan biến cùng với sự cáo chung của một thời đại. Tuy rằng ngày nay, trong vòng các tông phái Phật giáo, chúng ta hãy còn có một số học giả lừng lẫy nhưng ngoài xã hội thì vai trò của tăng sĩ không còn được đánh giá cao. Điều này làm cho họ bị đẩy vào một cái thế không đề nghị được điều gì hữu ích cho xã hội. Đó là chưa kể việc lối giải thích công án xưa nay chỉ ở trong nội bộ giáo đoàn nay đã được công khai hóa và chịu sự kiểm tra nghiêm khắc về nội dung của những học giảkiến thức chuyên môn Hán văn như Iriya Yoshitaka (Thỉ Nhập, Nghĩa Cao) chẳng hạn, nên thực tế cho thấy người ta không còn tin tưởng một cách đơn thuần vào những lời thuyết giảng của các thiền tăng

Như để phản ứng lại trước tình huống ấy, mấy năm gần đây, một số học giả Đại học Komazawa ở Tôkyô đã đề ra một chủ trương gọi là "tông học phê phán". Những vị này thấy rằng Phật Giáo Trung Quốc, nhất là Thiền đã tiếp nhận quá nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Trung Quốc và lên án gay gắt điều đó. Thế nhưng việc Phật giáo Trung Quốc mà Thiền là một tiêu biểu không có tính chất Ấn Độ cho lắm đã là chuyện rõ như ban ngày, không cần phải nói ra. Chủ trương như thế cũng chẳng có gì mới mẻ. Chẳng những thế, qua bàn cãi mới thấy việc các vị ấy đề ra chỉ cho thấy là độc đoán và tùy tiện chứ không có tư liệu để phân tích và khai triển nghị luận. 

Dầu chủ trương của các vị có nhiều điều không thể đánh giá theo quan điểm học thuật nhưng khi nhìn vào bối cảnh mà nó xuất hiện ta thấy đó là sự bất mãn đã sinh ra khi nhìn thấy việc nghiên cứu về Phật giáo trở thành xa lạ với những vấn đề hiện sinh và chỉ còn là một thứ học vấn phục vụ cho sự hiểu biết thuần túy. Phải hiểu chủ trương của các vị trong ý nghĩa của câu hỏi: "Bây giờ, Phật giáo phải làm chi đây?". Thế nhưng qua chủ trương, các vị không thấy đặt những vấn đề về việc đào tạo con bằng phương pháp tu hành truyền thống hay giải quyết những thực tế xã hội khác. Chủ trương nói trên chỉ là một thứ "nguyên lý chủ nghĩa" (fundamentalism) muốn xem Phật giáo Ấn Độ mới là chính thống (orthodox). Nó không có một điểm tiếp xúc nào với một Phật giáo đang tồn tại trong thực tế. Do đó trong giáo hội (giáo đoàn) thì còn có người để ý chứ ngoài xã hội hầu như chẳng ai quan tâm đến chủ trương này cả. 

Cùng với sự phát triển cao độ về mặt kinh tế, xem như Nhật Bản đã giải quyết được vấn đề nghèo đói. Thế nhưng trên thế giới, hãy còn biết bao nhiêu nước vẫn ở trong tình tạng thiếu thốn về vật chất! Tôn giáo nếu cứ dửng dưng, không hướng mục đích của mình về việc giải quyết những vần đề đó thì không xứng đáng gọi là một tôn giáo. Hơn nữa, ở Nhật Bản, hãy còn có biết bao vấn đề khác và tầm nghiêm trọng càng ngày càng tăng: nuôi dưỡng người già, trông nom những người bệnh nan y ở giai đoạn cuối cùng (terminal care), dạy dỗ thanh thiếu niên hư hỏng, đối phó với các giáo phái khép kín và có hành vi phản xã hội (sect, cult). Cho dù xã hội trở nên sung túc đến mức nào cũng không thể dễ dàng giải quyết những vấn đề của tâm hồn. Đem đến hạnh phúc tâm linh cho con người phải là trọng tâm mục đích của tất cả các tôn giáo chân chính. Thế mà, trước nhất là Thiền Tông, sau đến những giáo đoàn (hội Phật) giáo khác hình như vẫn chưa có một đề nghị, nói chi một cống hiến đáng kể

Nếu các giáo đoàn (hội) chỉ dồn hết tâm lực nương theo truyền thốngsinh hoạttu hành đúng theo nghi thức đã qui định thì nói cho cùng, thì sẽ tự khép mình trong vòng "học vấn" khô khan chỉ được tôn phái của mình chấp nhận, đi tới đi lui trong sự nghị luận dông dài vô tích sự. Rồi sẽ đến lúc người ta sẽ đặt vấn đề cả về ý nghĩa sự tồn tại của giáo đoàn ấy. Ngày nay trong khi thế giới đang đối phó với những vấn đề mới và bức thiết như hiểm họa vũ khí hạt nhân, vấn đề môi trường sinh thái, hố bất công giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo, vấn đề đạo đức về sinh mệnh..., thì câu chuyện truyền thống hay tôn giáo có lẽ chưa bao giờ thấy nhẹ hẫng như thế này. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10119)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10374)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9653)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23568)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11811)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10702)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10046)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28634)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21548)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29360)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11370)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12352)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26269)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30973)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25283)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22770)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13026)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21876)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12198)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14098)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12388)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11211)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10674)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38002)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13652)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13431)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12319)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12562)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12030)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10708)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11182)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23331)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33140)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12767)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7376)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12161)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12579)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11996)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12824)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11915)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10656)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11329)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11626)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10828)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10764)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10341)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10454)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10679)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10607)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11879)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10661)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12718)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10783)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11361)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11073)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11601)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10488)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11229)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12272)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11113)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12468)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11403)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11490)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11270)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11562)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12968)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14140)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10979)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11836)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13132)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11527)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11388)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10901)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11256)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10791)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11033)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10857)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10224)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17081)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10984)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10849)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10388)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10729)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11357)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11038)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10538)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11340)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10318)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10615)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12728)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19215)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19636)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21220)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20271)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19708)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18990)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20413)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21031)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17890)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21768)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant