Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Lời Dịch Giả

23 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9551)
4. Lời Dịch Giả

BA THIỀN SƯ
Ikkyu Sojun - Hakuin Ekaku - Ryokan Taigu
Nguyên tác Anh ngữ: Three Zen Masters: Ikkyu, Hakuin, and Ryukan
Tác giả John Stevens - NXB Kodansha International in năm 1993 tại Nhật
Việt dịch: Cư Sĩ Nguyên Giác, 2003

(Lời Người Dịch: Tới đây là xong phần cuộc đời ba vị Thiền Sư lớn của Nhật Bản. Điều chúng ta ngạc nhiên là việc các sư có khi xem nhẹ giới luật. Rượu, và có khi cả nữ sắc... Trong khi giới lại là chìa khóa của tam học giới định huệ. Chỉ trừ một ít trường hợp người tu nhờ cực định mà đắc giới (định cộng giới), hoặc nhờ cực huệ mà đắc giới (đạo cộng giới), còn thì giới luôn luôn là bước đầu để học, để làm theo ba nghiệp của Phật. Ba vị Thiền sư nơi đây như dường nhấn mạnh tới ngộ trước. Chỗ này chỉ có thể giải thích rằng, nếu người tu mà giữ được giới, nhưng lại mang tà kiến, hiểu nhầm Phật pháp, thì kiếp sau vẫn có khi đi lạc, chưa chắc gặp lại Phật pháp... có phải đó là lý do cần phảichánh kiến trước? Và vì sao đa số các Thiền sư lại nhấn mạnh là cần ngộ đạo trước?

Trì giới vẫn là cửa lớn của giải thoát. Đại Trí Độ Luận (tập I, bản dịch của Hòa Thượng Thiện Siêu) viết, “Trì giới là cửa ngõ sơ khởi của tám chánh đạo, cửa ngõ sơ khởi để vào đạo, chắc chắn đi đến Niết Bàn... Bồ Tát trì giới, thà tự mất thân, không hủy phá giới nhỏ, ấy là Thi La Ba La Mật...” Thêm nữa, trì giới còn có công năng giải nghiệp. Phần lớn chúng ta nghiệp xưa quá sâu dày, nên đọc vài trang kinh đã thấy buồn ngủ, ngồi thiền vài phút đã thấy loạn tâm, nên xem chuyện cổ nhân mà tưởng mình không bao giờ có thể làm thế nổi. Đây cũng là lý do để người tu lại cần kiên tâm giữ giới cho nghiêm, không để rơi chìa khóa của tam học. Tuy nhiên, nếu lỡ phạm giới, hay thấy mình nghiệp nặng thì cũng đừng sợ là hết chữa. Vì Phật đã nhiều lần dạy pháp sám hối trong nhiều kinh khác nhau. Đặc biệt, một lần Phật dạy rằng với tín tâm cực mạnh vào Phật-Pháp-Tăng, thì tâm người tu như tấm vải cấu uế khi rửa trong dòng sông sạch thì cũng được thanh tịnh sạch sẽ (Kinh Ví Dụ Tấm Vải, từ Trung Bộ Kinh, do HT Minh Châu dịch). Đây là chỗ để thấy rằng tội vốn thật là vô tự tánh, vì nếu tội có định tánh thì không thể sám hối nổi để mà tu hành.

Các vị Tổ ngày xưa khuyến tấn tu hành thường nói là không chịu tu thì "coi chừng thác vào thai trâu bụng ngựa." Thời nay, chúng ta chỉ cần nghĩ tới chuyện kiếp sau đầu thai vào bụng một phụ nữ Phi Châu hay Ả Rập là sợ rồi. Cơ duyên với Phật pháp đã có rồi, thì đừng để buông mất. Chúng ta đang thời mạt pháp, nên hầu hết đều nghiệp nặng, mà hoàn cảnh tu lại đầy gian nan, lực của cõi dục buộc chân người chặt hơn. Cứ bật máy truyền hình là thấy đủ thứ lôi kéo của cõi dục. Trong ba cõi, chỉ trừ nội viện cung trời Đâu Suất của Ngài Di Lặc, còn thì cõi nào cũng đáng sợ hết. Như khi xem bản tin Israel-Palestine mà lòng mình bênh phe này, hận phe kia, thì kiếp sau có thể sẽ rớt vào giữa cuộc tranh chấp đó liền, đâu có biết rằng các chúng sanh đó đều là cha mẹ nhiều đời của mình, và các lẽ phải trái đúng sai của đời hoàn toàn không liên can gì tới đạo cả, mà cũng chỉ là lực của cõi Dục thôi, biến hiện sinh diệt như mây trên trời, như sóng mặt nước. Đã là mây nổi, là sóng trào thì làm gì có phải trái đúng sai... mà mình cứ khởi tâm phân biệt hoài. Hay như khi xem một quảng cáo TV, đột nhiên mong muốn có xe đẹp, nhà to... thì đây cũng là niệm buộc mình chặt hơn vào cõi dục. Mà thử nghĩ xem, 24 giờ trong ngày, có gì mà không lôi buộc mình vào cõi dục? Mình buông thả phạm giới thì sẽ hỏng, mà khi chống cự mà chống sai thì cũng hỏng.

Thí dụ, như hốt nhiên khởi niệm, phải chi mình trúng số để xây vài ngôi chùa ở Sài Gòn. Tâm này là tâm cõi dục, dù là tâm thiện. Nếu không đủ phước lực cho kiếp này trúng số, thì sau kiếp này, chúng ta có thể sẽ đầu thai vào nhà một ông triệu phú ở Chợ Lớn (cũng một hình thức trúng số) và rồi khởi tín tâm đi xây chùa, nhưng mặt khác lại có thể sẽ đi lạc trong các cơ hội kinh doanh làm ăn giữa cõi dục. Nhưng ngay khi khởi niệm xây chùa, một hành vi hộ trì chánh pháp, mà mình cứ đè nén tâm này xuống, thì lại mất thiện căn, kiếp sau khó gặp lại pháp Phật. Mới biết, hễ có với không, hễ thiện với ác đều là sai lệch.

Hay thí dụ khác, như khi xem phim bộ Hồng Kông, chúng ta thấy cô tài tử xinh đẹp, bèn mê liền. Kiếp sau, nếu khôngnhân duyên nào khác can thiệp (mà phải mạnh hơn), thì ta có thể đầu thai vào bụng một phụ nữ ở Hồng Kông, hay Đài Loan, nơi thế lực, ảnh hưởng và quyến thuộc của cô tài tử này đang bao trùm. Nhưng nếu khởi tâm xua đuổi hình ảnh cô này ra khỏi tâm mình, xem đó như là đối thủ thì lại buộc tâm mình theo chiều nghịch lại. Kiếp sau, có thể sinh vào một gia đình Nho Giáo cổ hủ Hồng Kông, thù nghịch các loại phim lãng mạn.

Có một công án nổi tiếng trong Thiền Tông, chuyện một bà lão bảo cô con gái thử một vị sư bằng cách ôm chặt thầy này. Trong đời thường hiện nay, chúng ta thế nào cũng sẽ gặp những hoàn cảnh tương tự như thế. Thí dụ, khi mở TV xem, tình cờ thấy cảnh trai gái gợi dục, thì đối trị ra sao? Buông lung theo cảnh này, thì sẽ rớt sâu thêm vào cõi dục. Còn đàn áp tâm này, mà không đúng pháp thì chỉ như lấy đá đè cỏ, cũng sẽ bị buộc vào cõi dục theo chiều nghịch. Khi vị sư trong công án nói rằng tâm sư như “cây khô, tro lạnh,” thì bà lão chê là sư tu hỏng rồi, không phải là tâm giải thoát, vì cỏ nào có chết đâu, nó vẫn buộc mình chứ. Diệt niệm như thế là lạc đường rồi. Lấy thí dụ, thay vì vị sư đó, mà lại là một em bé 4 tuổi, khi xem TV hay khi được cô gái trong công án ôm thì em bé đâu có khởi niệm phân biệt kiểu thế đâu, mà bé chỉ khởi niệm theo kiểu một em bé; dù bé không sai trái, nhưng cũng chưa là niệm giải thoát. Và hiển nhiên, ở một chiều nghịch lại, ai cũng biết, hễ mà phóng dật thì là hoàn toàn đi lạc. Nghĩa là: giữa sông sinh tử, đứng lại thì chìm liền, mà bước tới thì bị cuốn trôi.

Chỗ này, chính Phật đã dùng ngôn phong Bát Nhã để dạy: “Không đứng lại, không bước tới, ta vượt qua bộc lưu.” Bộc lưu là dòng sông sinh tử, dòng tham ái. Trong Tương Ưng Bộ Kinh tập I, chương I, bản dịch của HT Minh Châu, phẩm Cây Lau, ghi như sau:

[Bắt đầu trích kinh]

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc). 

Rồi một vị Thiên, khi đêm đã gần tàn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên ấy bạch Thế Tôn

-- Thưa Tôn giả, làm sao Ngài vượt khỏi bộc lưu? 
-- Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu
-- Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc lưu? 
-- Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu
(Vị Thiên): 
Từ lâu, tôi mới thấy 
Bà-la-môn tịch tịnh
Không đứng, không bước tới
Vượt chấp trước ở đời.
Vị Thiên ấy nói như vậy và bậc Đạo Sư chấp nhận. Vị Thiên ấy biết được: "Thế Tôn đã chấp nhận ta". Vị ấy đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ.

[Hết trích Kinh]

Trong mọi trường hợp, điều tốt nhất cho người tu vẫn là tinh cần sám hối, kiên tâm tu giới định huệ, khởi Bồ Đề Tâm, phát đại nguyện, tu vô lượng pháp, làm vô lượng công đức... để sẽ không bao giờ đi chệch đường nữa. Cũng nên ghi nhận, sư Hakuin có nhấn mạnh về yếu tố giữ gìn sức khỏe. Đây là một điều cực kỳ quan trọng trên đường tu, mà ai cũng có thể nghiệm thấy dễ dàng. Khi cơ thể bệnh, đau đớn, thì tâm khó định, dễ loạn tâm. Không cần nói tới bệnh nan y, chỉ cần nói tới nhức răng, đau mắt cũng thấy phiền não rồi. Thêm nữa, chúng ta cũng có thể nghiệm theo chiều nghịch. Mỗi khi có chuyện thật buồn trong đời, tâm mình loạn động mà không biết làm sao đối trị, thì cứ ra công viên chạy vài vòng, hay ra hồ mà bơi chừng một giờ... thì tự nhiên lòng dịu xuống. Nhưng không ai nghĩ rằng chạy hay bơi mà giải thoát được sinh tử, chỉ là tạm thôi, chỉ là tạo điều kiện cho thân cường tráng để có sức tu tập... Chúng ta cũng có thể thử xem các phản ứng của tâm: thí dụ như để vài ngày ngồi xem TV coi tâm mình có dễ đối trị hay không; sau đó để vài ngày vừa xem TV vừa tập thể dục, như chạy một chỗ, hay chạy tới ba bước và lui ba bước, hay xen lẫn vừa chạy vưa nhảy xổm mà mắt vẫn dán vào TV... Ta có thể thấy tâm mình biến hiện ra sao trong các điều kiện của thân. Thì sẽ biết là tâm mình sẽ khó hay dễ điều thuận theo thân mình và môi trường chung quanh thế nào. Nên ăn ít để thiểu dục. Nếu thấy phức tạp, thì nên nghe lời Phật dạy là cần tìm nơi lan nhã, u tịch. Hay đem TV bố thí cho người khác luôn.)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13431)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11719)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11234)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11951)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10275)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29267)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11965)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11966)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10966)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19643)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7357)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11388)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35348)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12878)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17374)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11493)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22132)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11854)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15948)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12134)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14121)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12628)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13232)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13681)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20028)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14431)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13566)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12370)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11910)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34769)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13426)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13744)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32006)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13224)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13079)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13438)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18059)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14942)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15752)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14889)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15868)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20820)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21341)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35185)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43976)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37931)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15155)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15083)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13013)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12671)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15635)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27763)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14993)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11429)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53222)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16552)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13194)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20718)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12645)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15620)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15530)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14809)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15632)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13065)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11787)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12321)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12598)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13506)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12495)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25010)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11997)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12780)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11631)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13771)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14129)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12935)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12764)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13033)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13944)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13018)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13639)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12479)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14464)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13321)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13798)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14650)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11896)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12740)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28316)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11819)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12667)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15083)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12030)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11795)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12897)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12006)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11537)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant