Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I- Nội dung tu Thiền trong cuộc sống

24 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11859)
I- Nội dung tu Thiền trong cuộc sống

THIỀN TRONG ÐỜI THƯỜNG
 Thích Thông Huệ

Chương 1

THIỀN VÀ SỰ SỐNG

Chúng ta có thể dùng văn tự ngôn ngữ để diễn tả hay định nghĩa Thiền?

Nếu Thiền có thể diễn tả bằng ngôn từ, lúc ấy không còn là Thiền nữa. Ðức Phật thuyết pháp ròng rã 49 năm, cũng không nói được đến chỗ nầy. Vì không thể tiếp cận Thiền bằng ngôn ngữ, nên nhiều vị Thiền sư ngày xưa, khi khai thị cho môn đệ, chỉ dùng những hành động kỳ quặc hay lời nói vô nghĩa. Từ đó, Thiền mang một vẻ bí hiểm, thậm chí quái dị đối với những người muốn nhận ra lẽ thật bằng tri thứckiến thức.

Thật sự, ta không thể giới hạn Thiền trong một khuôn khổ, một hình thức, cũng không thể lý giải bằng tư duy suy luận. Thiền không thể tách rời khỏi cuộc sống, không thể tìm thấy ở một nơi xa xôi bí mật nào đó. Bởi vì, Thiền là Chân lý sống. Sự sống chỉ tươi nhuận luân lưu trong phút giây hiện tại, nên muốn trực nhậnthẩm thấu Thiền, chúng ta phải tự mình bơi lội trong dòng sống đang tuôn trào trôi chảy.

Như thế, Thiền có mặt trong mọi sinh hoạt đời thường. Nếu hiểu Thiền là trốn chạy sự sống, là xa lánh cuộc đời, thì vô tình ta đã đánh mất nghĩa vụ thiêng liêng của mình đối với xã hội; và lúc ấy, ta đã biến Thiền thành mảnh đất tâm hoang dại khô cằn.

I- NỘI DUNG TU THIỀN TRONG CUỘC SỐNG

 1- Chánh niệm

Kinh Niệm xứ, một Thiền kinh thuộc Trung bộ tập I, chỉ dạy những điều căn bản về Thiền Vipassana thuộc truyền thống Thiền Nguyên thủy. Nội dung Thiền Vipassana là Chánh niệm trong từng giây phút của đời sống, qua 4 lãnh vực là Thân, thọ, tâm, pháp. Hành giả luôn đặt tâm vào giờ phút hiện tại, tỉnh giác biết rõ mọi vận hành biến đổi của thân tâm bên trong và cảnh vật bên ngoài. Các pháp diễn biến như thế nào, hành giả biết tường tận như thế đó, mà không có một niệm phân biệt chia chẻ xen vào. Ðức Phật gọi đó là Tuệ tri, sự biết về các pháp đúng như tự thân của chúng.

Con người thường thích tìm hiểu những điều cao siêu, xa rời thực tế, trong khi cuộc sống luôn dàn trải trước mắt ta với tất cả nhiệm mầu. Do chúng ta mong mỏi tìm cầu chân lýđâu đó xa xôi, nên không thể thấy chân lý rất đơn giản và ở ngay mảnh đất mình đang đứng. Và rồi, hoặc chúng ta cảm thấy mình bất lực khi muốn vươn đến lý tưởng tuyệt đối; hoặc thấy cuộc đời sao nhiều phiền não nhiêu khê, muốn tìm nơi yên tĩnh, xa lánh hết mọi phù phiếm thế gian.

Con người cũng thường mơ mộng đến tương lai hoặc hoài niệm về quá khứ. Những người lớn tuổi hay sống trong kỷ niệm; kỷ niệm nào cũng đẹp dù vui hay buồn, vì đó là những chuyện đã qua, không bao giờ trở lại. Tuổi thanh niên thì thường phóng tâm đến những viễn cảnh huy hoàng, tuy là những gì chưa đến nhưng nhờ có hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hạnh phúc, người ta mới cố gắng làm việc, học tập. Hy vọng như một tác nhân kích thích, một nguồn động viên quý báu khi quanh ta đầy dẫy khó khăn gian khổ. Ðối với người tu, cõi Cực Lạc hay Niết-bàn là phần thưởng cao cả, là mục đích tối thượng kết thúc cuộc trường chinh chống kẻ thù phiền não tham sân si ngay bản thân mình. Diệt trừ phiền não, thủ chứng Bồ-đề là tinh thần tu tập của những hành giả chưa thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thức tâm phân biệt, còn thấy phiền não đáng diệt trừ, Niết-bàn đáng nương cậy như một thế giới lý tưởng ở một tọa độ không-thời gian nào đó.

Thật ra, chúng ta không thể rời thế gian tìm cầu Phật pháp, vì pháp Phật và pháp thế gian là bất khả phân ly. Mọi sự vật hiện tượng luôn biến chuyển trong từng sát-na, như dòng sông luôn luôn trôi chảy. Nhưng trong dòng chảy bất tận ấy vẫn có một thực tại bất động vĩnh hằng – chính là cái bây giờ tuyệt đối, chỉ hiện hữu nơi đương xứ, bây giờ và ở đây. Thiền định là đặt tâm vào cái bây giờ tuyệt đối ấy để thẩm thấu thực tướng các pháp đang là. Trong kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ dạy về Thiền định như sau:

Ngoại ly tướng tức Thiền
Nội bất loạn tức định
Ngoại thiền nội định, thị vi thiền định.

Tạm dịch:
Ngoài lìa tướng là thiền
Trong chẳng loạn là định
Ngoài thiền trong định, ấy gọi là thiền định.

Cũng như trong kinh Niệm Xứ, Thiền định theo Lục Tổ chỉ dạy không bị hạn cuộc ở thời gian, không gian và cuộc sống của hành giả. Thiền định như một thực tại không lìa thế gian, và phải được thể hiện ngay trong sinh hoạt thường ngày. Trong từng phút giây, nếu ngoài không dính mắc với trần cảnh (lìa tướng), trong không khởi niệm lăng xăng (chẳng loạn), ấy là ta đang công phu thiền định một cách đắc lực nhất. Khéo an trú trong hiện tại, tỉnh giác nhận diện từng con sóng sanh diệt của thân-tâm-cảnh, ta không còn bị dẫn lôi phiêu dạt trăm nơi nghìn chốn nữa. Ðây chính là nội dung của Chánh niệm, bước đầu tiên căn bản của đời sống thiền sinh.

Theo lẽ thường, muốn tìm trâu phải theo dấu chân trâu. Cũng vậy, muốn tìm tâm phải theo dấu vết của tâm. Dấu vết của tâm là những niệm sinh diệt. Nếu lìa sinh diệt niệm để riêng tìm tâm thì chẳng khác nào lìa sóng đi tìm nước. Vì thế, sự tỉnh giác trong đương niệm là bí yếu để nắm bắt sự thật ngay trong dòng sanh diệt của đương niệm. Chúng ta không nên hiểu “tỉnh giác trong đương niệm” là diệt niệm, mà là lặn sâu vào dòng sanh diệt của đương niệm để thực hiện sự chuyển hoá tận gốc rễ. Mặt khác, khi trí óc ta đầy kiến thức vay mượn và tự hào với chúng, ta chưa dọn tâm để tiếp nhận chân lý Thiền. Trong tâm ta phải dọn sạch mọi ý niệm có sẵn, mọi kiến giải gom góp từ nơi khác. Yếu tố quyết định nhân cách của một thiền sinh không phải là sự thông minh bác lãm, mà là công phu hành trì đúng pháp. Bởi vì Thiền không thuộc lĩnh vực lý luận tư duy, không nằm trong ngôn ngữ, mà ở ngay thế giới hiện thực, trong cuộc sống hằng ngày; và sống Thiền nghĩa là chánh niệm ở mọi thời mọi cảnh, khi tĩnh cũng như khi động.

Kinh Pháp Hoa, phẩm Như-Lai Thần Lực diễn tả một hình ảnh lung linh huyền diệu: Từ các lỗ chân lông của Phật Thích Ca phóng ra vô số tia sáng muôn màu rực rỡ, chiếu soi tất cả cõi nước mười phương. Hình ảnh nầy tượng trưng ánh sáng chánh niệm không thể nghĩ bàn, tỏa chiếu từ Pháp thân Ðức Phật. Các bậc ngộ Ðạo khi còn sống ở thế gian, do tâm luôn an trú trong thời điểm hiện tại bất động, nên những công việc bình thường đơn giản trở thành phi thường thoát tục. Và vì các Ngài đi từng bước bình an trong thực tại hiện tiền, nên phương tiện cũng chính là cứu cánh, Niết-bàn Cực-Lạc cũng chỉ ở tại đây và bây giờ!

 2- Lìa nhị biên

Con người chúng ta khi tiếp xúc với ngoại cảnh, lúc nào cũng khởi niệm phân biệt. Mắt thấy sắc liền phân đẹp xấu, đẹp thì ưa, xấu thì ghét; ưa thì muốn chiếm hữu, ghét lại muốn xa lìa. Các căn khác cũng cùng tình trạng như thế, biết bao vọng niệm cuồn cuộn theo nhau như dòng thác lũ. Ý sanh khởi, kích thích miệng nói thân làm. Ðó là tiến trình của nghiệp, là động cơ của guồng máy sanh tử, dù nghiệp thiện lành hay xấu ác. Cho nên, có khởi niệm là có tạo nghiệp, có luân hồi. Nói khác đi, khi sáu căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý) tiếp xúc sáu trần (sắc thinh hương vị xúc pháp), nếu khởi phân biệt hai bên là ràng buộc vào sanh tử. Cũng sáu căn ấy, tuy vẫn tiếp xúc sáu trần mà bặt mọi vọng niệm, thì vẫn thấy nghe hay biết rõ ràng mà không còn động cơ tạo nghiệp, vòng luân hồi bị chặt đứt.

Ðối với người bình thường, cái chết là nỗi sợ hãi lớn nhất và trường diễn nhất. Bởi vì khi sống, con người có thể hưởng thụ mọi lạc thú ngũ dục, có thể tiếp xúc và cảm nhận mọi hiện hữu quanh mình. Sống là sinh hoạt nói năng, là ánh sáng âm thanh muôn màu muôn vẻ; chết là mất tất cả, là vô tri vô giác, là tối tăm ghê rợn, là rơi vào một thế giới mịt mù vô tận vô biên ... Quan niệm như thế có đúng không?

Thật sự, thân người không phải là một cấu tạo đồng nhất, mà do nhiều yếu tố kết hợp lại. Ðức Phật dạy, tứ đại là đất nước gió lửa tạo nên sắc thân, thọ tưởng hành thứcyếu tố tâm lý, nói chung là thân năm uẩn. Các nhà khoa học ngày nay cũng đã chứng minh rằng, đơn vị của cơ thể là tế bào; mỗi tế bào lại được cấu thành bởi nhiều yếu tố, và từng nhóm tế bào đảm trách những công việc khác nhau. Chúng liên tục sinh ra rồi chết đi trong từng giây phút, nên thân ta cũng biến đổi không ngừng. Lại nữa, những bộ phận trong cơ thể đều tự động làm việc mà không theo ý muốn của chúng ta; chỉ khi nào có trở ngại bệnh tật, ta mới ý thức sự có mặt của chúng, vì thế thân nầy không có chủ tể. Không đồng nhất vì được cấu thành bởi nhiều yếu tố, do không cố định vì biến đổi liên tục, do không có chủ tểhoạt động độc lập, nên thân này là vô ngã. Bằng cái thấy minh triết, Ðức Phật dạy rằng, sự sống chỉ là vay mượn giả hợp. Hàng ngày, con người phải vay tứ đại bên ngoài để bồi bổ và đổi mới cho tứ đại bên trong, như mũi hít vào thở ra là vay trả gió, uống nước vào thải ra là vay trả nước ... Vay trả thông suốtmạnh khỏe, vay trả bị trở ngại là ốm đau. Ðáo cùng, không có cái gì là thật ngã.

Vì không có cái sống thật nên cũng không có cái chết thật. Khi ta lìa bỏ thân nầy, thần thức chờ hội đủ duyên, theo nghiệp mà gá vào thai thành thân sau, cứ thế quẩn quanh trong lục đạo. Sự luân hồi như một dòng chảy tương tục không bao giờ dừng, mà cái chết chỉ là sự tạm ẩn tàng để rồi tái hiện dưới một hình thức khác. Ngay cả dạng thân vô hình mà mắt thường không nhìn thấy và cho là hồn ma bóng quế, cũng là những cõi sống thuộc loài ngạ quỷ hoặc thân trung ấm của người mới mất. Và như vậy, sống và chết chỉ là hai cảnh huống đắp đổi cho nhau như sự hiện và biến của một cảnh trên màn hình.

Hiểu sâu thêm một bậc, tất cả những khái niệm phân biệt hai bên đều chỉ là tương đối; chúng là hai mặt đối lập nhau của một thực thể duy nhất và cùng nương nhau mà tồn tại. Có trắng mới có đen, có tốt mới có xấu và ngược lại. Thánh –phàm, Bồ đềphiền não, Sanh tử - Niết-bàn cũng như thế. Khi tâm an định, siêu việt mọi chấp trước thì tất cả đều là Phật pháp; khi tâm loạn động, dù ở nơi thanh tịnh vẫn thấy khổ sở buồn phiền. Những bậc đã giác ngộ nhìn vạn pháp đều vi diệu nhiệm mầu, vì toàn bộ đều ở trong ánh giác. Cho nên, phải nhận cái thanh tịnh vĩnh cửu ngay chỗ vô thường ô trược, cái phi tục ngay từ phàm tục, cái xuất trần ngay trong trần thế. Ðây là tinh thần bất nhị, tư tưởng vút cao của nhà Phật, nơi không thể diễn tả bằng văn tự nên Ngài Duy-Ma chỉ còn cách biểu hiện bằng sự im lặng sấm sét (mặc như lôi).

Trong kinh A-Hàm, Ðức Phật nói Ðề-Bà-Ðạt-Ða sẽ đoạ địa ngục vì tội phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật ra máu. Ngụ ý Ðức Phật muốn cảnh tỉnh những môn đệ còn yếu về mặt nhận thức tương phản hai chiều, phải bỏ xấu về tốt, bỏ mê về ngộ, phải phân biệt rạch ròi giữa thiện và ác. Nhưng trong kinh Pháp Hoa, Ngài lại bảo Ðề-Bà-Ðạt-Ða là thiện hữu tri thức đệ nhất của Ngài, vì nhờ ông ta mà Ngài sớm thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Có phải chăng, Ngài muốn nâng trình độ môn đệ có khả năng hướng đến một cấp độ cao hơn, bằng một bước nhảy siêu vượt cả thiện và ác, cả mê và ngộ ?

Nhà Thiền có câu “Niệm niệm tùng tâm khởi, Niệm niệm bất ly tâm”. Mọi ý niệm đều từ tâm mà khởi, đều không rời khỏi tâm. Tâm là nguồn cội, niệm là ngọn ngành. Tâm là bất sanh bất diệt, niệm thì lúc hiện lúc biến; nhưng khi hiện sanh là từ cái vô sanh, và khi biến diệt lại trở về cái vô diệt. Cho nên, đứng từ Sinh diệt môn hay Tích môn thì thấy có biến có hiện có đi có đến, còn đứng từ Chơn như môn hay bản môn thì không có sanh diệt bao giờ. Niệm như những đợt sóng, tâm như biển cả mênh mông; sóng có khi nào rời nước, vọng và chơn cũng không thể tách rời. Chúng sanh chấp vọng tâm là mình nên mải mê đuổi theo ngoại vọng, bị nghiệp thức dẫn lôi vào vòng xoáy sanh tử; người tu biết trở về nguồn cội, ngay vọng nhận ra chơn, ngay hiện tượng vô thường nhận ra bản chất hằng hữu. Một người tu lý tưởng không phải là người nhắm mắt bịt tai trước trần cảnh, mà là người hàng ngày vẫn tiếp xúc với các duyên nhưng không dính mắc; và thực tế hơn, là người dù bị vấp ngã vẫn đứng lên, tiếp tục bước đi. Minh chứng cho tinh thần nhập thế là gương các cư sĩ Thiền sư, dù trăm công nghìn việc như Tướng quốc Bùi Hưu hay vua Trần Thái Tông, dù thê tử đông đảo và của cải sung mãn như Tuệ Trung Thượng sĩ, vẫn sáng đạo và nhiêu ích cho bao người.

Kinh Lăng Nghiêm mô tả đoạn Tôn giả A-Nan hỏi Ðức Phật về đầu mối sanh tử và nguồn gốc giải thoát. Ngay lúc ấy, mười phương chư Phật đồng thanh cất tiếng: “Hay thay cho An Nan! Ông muốn biết cái câu sanh vô minh là cái đầu nút khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông, chứ không phải là vật gì khác; ông lại muốn biết tính Vô thượng Bồ đề, khiến ông chóng chứng đạo quả an vui, giải thoát, vắng lặng, diệu thường, thì cũng chính là sáu căn của ông, chứ không phải vật gì khác”(1). Tổ Quy Sơn cũng dạy: “Văn thinh kiến sắc cái thị tầm thường, Giá biên na biên ứng dụng bất khuyết”. Nghe tiếng thấy sắc thế nào để tâm bình thường, được như vậy thì bên này (sáu căn), bên kia (sáu trần) tự nhiên ứng dụng toàn vẹn toàn hảo. “Tâm bình thường” là lúc tiếp xúc với trần cảnh, vẫn thấy biết tất cả nhưng không có ý thức phân tích hai bên. Sống với tâm bình thường là giải thoát, là lục tặc biến thành lục thông, diệu dụng bất khả tư nghì.

Lý thuyết nghe rất dễ, nhưng khi thực hành mới vô cùng khó khăn. Bởi vì tập khí nhiều đời, chúng ta quen dính mắc với cảnh, thấy cảnh liền sanh tâm phân biệt. Nhờ công phu miên mật, trong phút giây nào đó ta nhận ra lẽ thật, nhưng cũng chỉ như ánh chớp trong đêm đen, không phải đã xong việc mà còn cần kiên trì gột sạch tập khí, buông bỏ vọng tưởng. Ðời tu rất gian nan vất vả, nhưng bù lại, chúng ta có lúc cảm nhận sự bình an hỷ lạc của Thiền, khi sống với bản tâm sẵn đủ. Bản tâm vốn lặng vốn chiếu, là bổn tịch bổn tri. Bổn tịch là trạng thái lặng lẽ thanh tịnh sẵn có nên không miễn cưỡng để vào định. Bổn tri là cái thường biết sẵn có nên không cưỡng cầu thêm hiểu biết.

Khi các căn tiếp xúc với các trần, không có ý niệm phân ranh là Ðịnh nhưng vẫn rõ ràng thường biết là Huệ. Ðịnh- Huệ đồng thờitrạng thái vô niệm mà tùy cảm tùy ứng, đúng yếu chỉ Thiền tông. Khéo hiểu những điều này, công phu của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và kết quả nhanh hơn. Ai cũng có phiền não kiết sử, nhưng khi rõ tất cả đều không thật và không ở ngoài thể tánh bổn tịch bổn tri, ta sẽ hiểu vì sao không tìm Bồ-đề ở ngoài phiền não. Người biết tu là người gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng không mất tự chủ tỉnh giác. Các vị Thiền sư vẫn sinh hoạt, nói năng như mọi người, không hề có một biểu hiện phi thường xuất thế như thi triển thần thông, pháp thuật. Chúng ta hay đánh giá người khác qua hình tướng, qua ngôn ngữ cử chỉ bên ngoài, nên đôi khi nhận lầm thầy bạn. Trong đời sống thường nhật, tốt nhất là dùng bát phong(2) (*) đo định lực của mình và người.

3-Thiền suy tiến cá nhân nhưng không suy tiến bản ngã:

Quyển Góp nhặt cát đá do tác giả Ðỗ Ðình Ðồng dịch, có kể chuyện một người cha truyền nghề đạo chích cho con. Nếu người cha cứ cho con theo sát mình từng bước, chỉ dẫn con từng việc, thì không thể giúp con phát huy tính sáng tạo và nắm vững những bí quyết trong nghề. Cha phải dồn con vào thế bí để con tự phát hiện, tự kinh nghiệm trên thực tế và tự tìm giải pháp. Chỉ có việc ăn trộm mà còn phải nhọc công như vậy, huống nữa là việc tu hành. Người tu phải có những cuộc thăm dò phiêu lưu gian khổ, tự mày mò kinh nghiệm, tự mình khám phá những bí ẩn kỳ diệu trong mảnh đất tâm của chính mình. Vị thầy chỉ hướng dẫn và trợ duyên cho môn đệ, có lúc phải dồn môn đệ vào chỗ nguy hiểm để môn đệ phát huy nội lực. Ðó là tinh thần tự thắp đuốc lên mà đi, nhưng phải thắp lên với chánh pháp. Những môn đệ biết tự mình bước trên đôi chân của mình, mới đáng tin cậy và đáng giao phó việc lớn trong tông môn.

Với tinh thần tự lực, nhà Thiền chủ trương mỗi cá nhân đều là–và phải là– yếu tố quyết định trong sự giác ngộgiải thoát. Không ai làm thay được cho ai, kể cả chư Phật chư Bồ-tát. Mỗi người phải tự xoay lại chính mình, thầm nhận bản tâm chân thật sẵn đủ, bằng sự thể hiện của tầng sâu thẳm trực giác siêu ý thức, cuối cùng thể chứng chân tánh bất sinh. Khi tất cả những bí mật ngàn đời của vũ trụ vạn loại đã được dàn trải, mỗi vị sáng đạo sẽ có một cách sống khác nhau, một cách giáo hóa khác nhau tùy bổn nguyện. Nhưng muốn đạt đến mục đích tối thượng, người tu phải trang bị cho mình một ý chí kim cương, ngoài kiến thức vững chãi về pháp tu và những kinh nghiệm trong công phu hành trì. Nếu không đầy đủ nghị lực để đương đầu với bao sóng gió cuộc đời, chúng ta khó thể thấu triệt đến mức độ sâu xa siêu tuyệt của đạo lý. Con người yếu hèn bạc nhược thì không thể thành công trong bất cứ công việc nào, huống chi là việc thoát ly sanh tử.

Thiền sư Hoàng Bábài kệ rất hay:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Nghĩa:
Vượt khỏi trần lao việc phi thường,
Ðầu dây nắm chặt giữ lập trường
Nếu chẳng một phen sương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

Ðây là tiếng chuông cảnh tỉnh và khuyến khích người tu chiến thắng mọi chướng duyên, viên thành đạo quả. Vượt khỏi trần lao không phải việc tầm thường, nên ý chí người tu cũng phải phi thường, có bản lĩnh dám làm dám chịu. Người có bản lĩnh là người biết rõ khả năng của mình và công việc mình đang làm; trước khi làm có đắn đo, cân nhắc, và khi biết việc làm ấy là đúng thì gan dạ giữ vững lập trường, đi cho đến đích. Hoa mai trước khi tỏa hương thơm ngát vào mùa xuân, phải trải qua ba tháng đông lạnh lùng buốt giá. Người tu cũng thế, phải trải qua cuộc sống độc hành độc bộ, tu tập tinh cần, tam thường bất túc; phải có sức mạnh tự nội, gan dạ chiến đấu với những cám dỗ của ngũ dục bên ngoài và ma chướng bên trong. Ðời sống thiền sinh chúng ta thú vị ở chỗ, dù phải chiến đấu với bản thân trong từng giây phút, phải cảnh giác cao độ với những quyến rũ ràng buộc của tiền trần, nhưng khi chiến thắng một trận, ta lại thấy mình trưởng thành thêm một ít, và càng vững tin mình sẽ có ngày chiến thắng trận cuối cùng.

Tuy nhiên, tinh thần suy tiến cá nhân trong nhà Thiền không nên đồng hóa với lối suy tôn bản ngã vốn xa lạ với đạo Phật. Chúng ta thường nhìn nhận sự vật theo cái thấy biết chủ quan thiên kiến của mình. Ðây là hành vi của bản ngã. Ngã tướng biểu hiện qua muôn vàn khía cạnh từ thô đến tế, mà nếu không chánh niệm tỉnh giác nhận diệnchuyển hoá chúng, ta khó thể thấu triệt bản chất chân thật của vạn pháp. Chúng ta sẽ bàn đến vấn đề này kỹ hơn ở chương Con đường thiền tập, nhưng ở đây, cần đề cập đến một khía cạnh của tinh thần vong ngã: Lòng từ bi của những bậc Giác ngộ.

Phẩm Phổ môn kinh Pháp Hoa diễn tả lòng từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm như sau:

Bi thể giới lôi chấn
Từ ý diệu đại vân
Và :
Cụ nhất thế công đức
Từ nhãn thị chúng sanh 

Vì sao bản chất của lòng Bi (Bi thể) được ví như tiếng sấm động (lôi chấn), và lòng Từ như đám mây hiền? – Bởi vì tình thương của Bồ-tát là tình thương tích cực, vừa cứu khổ vừa ban vui, như sấm chớp báo hiệu cho mây bao phủ, và mưa trút xuống dập tắt những đám cháy phiền não, làm muôn người muôn vật được tươi mát bình an. Và vì Bồ-tát có đầy đủ công đức, nên nhìn tất cả chúng sanh bằng đôi mắt từ hòa. Ðây là tình thương chân chính và vong ngã của một bậc giác ngộtừ bỏ đắm say vào cuộc sống. Tại sao nói như thế?

Con người thường cho rằng, mình là chủ nhân của vũ trụ, nên mọi loài mọi vật đều phải chịu sự chi phối của mình; thậm chí dùng mạng sống của chúng để thỏa mãn những nhu cầu ẩm thực giải trí cho riêng mình, không biết rung động khi thấy chúng sợ hãi, đau đớn. Tàn nhẫn hơn, có kẻ chủ trương tàn sát những người bị xem là thuộc chủng tộc hạ đẳng hoặc không cùng tôn giáo. Nếu ai có tình thương với người với vật, thì đó cũng là tình thương chiếm hữu, vị kỷ. Cha mẹ nuôi con, muốn con sau này có hiếu với mình, chăm sóc mình lúc già yếu; nam nữ kết hợp với nhau cũng có chọn lựa cân nhắc, có đòi hỏi sự đền đáp tương xứng; bạn bè giúp nhau cũng mong có sự trao đổi, biết ơn... Bồ-tát không như vậy. Các Ngài thương chúng sanh một cách tự nhiên, không phân biệt, không điều kiện. Ðây là tâm Vô duyên từ. Bằng ánh sáng giác ngộ, các Ngài thấy mọi loài chúng sanh đều bình đẳng ở Phật chất, nên thương tất cả những ai còn vô minh. Tình thương của các Ngài chan hòa và bình đẳng khắp vũ trụ vạn loại, không vướng mắc vào nhân- ngã, không bị ràng buộc vào ý tưởng biết ơnđền ơn. Bồ-tát thị hiện nơi đời làm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ để lộ hành tung. Hai Ngài Hàn SơnThập Ðắc, mang thân phận người tu căn cơ hạ liệt, bị mọi người rẻ rúng khinh khi, vẫn bình thản và hành mật hạnh. Khi bị mọi người phát hiện là Bồ-tát hoá thân, hai người đưa nhau vào núi ẩn tích. Ngày nay, trên thế giới cũng có nhiều tổ chức phi chính phủ, những người tình nguyện vào mọi nơi khổ đau bệnh tật, di chứng chiến tranh, để cứu giúp đồng loại một cách vô điều kiện. Các vị ấy cũng đang hành hạnh Bồ-tát, dù thuộc sắc tộc nào, tôn giáo nào. Hình ảnh lạ lùng trong nhà Thiền như gái đá nhảy múa, người gỗ hát ca hay sáo không lỗ, đàn không dây... cốt nói lên diệu dụng bất khả tư nghì, khi các Ngài sống bằng bản tâm thanh tịnh, làm mọi Phật sự với tinh thần vong ngã.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9785)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9943)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9927)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20503)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10332)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9947)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10329)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34402)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9625)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9276)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11088)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8518)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9789)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9173)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20424)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19183)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8727)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8856)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12099)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9588)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22993)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8988)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9257)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9966)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9887)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10605)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10918)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12467)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9328)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9180)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9306)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10452)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21985)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22225)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16600)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9530)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10162)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8386)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9441)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8828)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8620)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12271)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9601)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8603)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9440)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8613)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8345)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8456)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10171)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23613)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9569)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9379)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 8997)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8332)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8514)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7878)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7966)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8790)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8927)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10051)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8638)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8613)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30398)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30047)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24153)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9264)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9624)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9502)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9497)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7852)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9063)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28191)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23680)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12236)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8874)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14236)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14102)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9651)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9336)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9632)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30874)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27107)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32689)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33991)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27741)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10573)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12462)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58650)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10648)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9385)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9545)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13935)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14202)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10757)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28135)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23266)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant