NHỮNG
YOGA
TÂY TẠNG VỀ GIẤC MỘNG VÀ GIẤC NGỦ Nguyên
tác:
The Tibetan Yogas of Dream and Sleep Nhà
Xuất
Bản Snow Lion Ithaca, New York, 1998 Việt
dịch:
Đương Đạo - Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 2000
PHẦN
BỐN: GIẤC NGỦ
3.
Thực Hành Giấc Ngủ và Thực
hànhGiấc Mộng
Sự
khác biệt giữa thực hànhgiấc mộng và thực hành giấc
ngủ một cách nào đó giống như sự khác biệt trong thực
hànhan định (samatha) khi một đối tượng được dùng và
khi không có đối tượng. Tương tự, trong thực hành tantra,
yoga giấc mộng được dùng để phát sanh thân thể thiêng
liêng của hóa thần thiền định (yidam), việc này còn trong
lãnh vực của chủ thể và đối tượng, trong khi yoga giấc
ngủ khai triển tâm thức của hóa thần, nó là tánh giác thuần
khiếtbất nhị.
Khi
học trò được đưa vào thực hànhĐại Toàn Thiện, những
thực hành với những thuộc tính thường được dạy trước
tiên. Chỉ sau khi một phát triển nào đó về sự vững chắc
thì thực hành không có những thuộc tính mới bắt đầu.
Điều này bởi vì cách kiểu nổi trội của ý thứcchúng
ta là phải làm việc với những thuộc tính, với những đối
tượng của chủ thể mà nó tự đồng hóa với. Bởi vì chúng
tathường trựcđồng hóa với hoạt động của tâm thức
động, vào lúc bắt đầu sự thực hành của chúng ta phải
cung cấp cái gì cho tâm thức bám nắm. Nếu chúng ta nghe nói,
“Hãy như hư không”, tâm thức động không thể hiểu nghĩa
gì, vì không có cái gì để bám giữ. Nó cố gắng tạo ra
một hình ảnh về tánh không để đồng hóa với nó, đấy
không phải là sự thực hành. Nhưng nếu chúng ta nói rằng
có cái gì cần được quán tưởng và rồi tan biến v.v...,
tâm thức động cảm thấydễ chịu, bởi vì có cái để
nghĩ đến. Chúng ta dùng tâm thứcý niệm và những đối
tượng của tỉnh giác để dẫn tâm thức đến tỉnh giác
mà không có những thuộc tính, đó là nơi sự thực hành phải
đến.
Thí
dụ, chúng ta được nghe nói là tưởng tượng thân thể tan
biến – điều ấy nghe có vẻ tốt, nó có thể hình dung.
Sau khi hòa tan, có một khoảnh khắc trong đó không có gì để
bám nắm, và điều này cung cấphoàn cảnh trong đó hành giả
đã được chuẩn bị có thể nhận biết rigpa. Nó tương tự
như đếm trở lui từ mười – mười, chín, tám... – cho
đến số không. Trong số không, không có gì để bám nắm
cả, đó là tiglé của hư không, nhưng chính sự chuyển động
đưa chúng ta đến đó. Đếm ngược lại đến tánh không
thì tương tự với dùng sự thực hành với những thuộc tính
để đưa chúng ta đến tánh không của sự thực hành không
có những thuộc tính.
Thực
hành giấc ngủ thực ra không có hình tướng, thế nên không
có gì để tập chú vào. Sự thực hành và mục tiêu là như
nhau: an trụ trong sự hợp nhất không thể tách lìa của sáng
tỏ và tánh không, vượt khỏi sự tách lìa của người tri
giác và cái được tri giác. Không có phẩm tính nào cả, không
lên xuống, không trong ngoài, không đỉnh đáy, không thời
gian hay biên giới. Trọn vẹn không có một phân biệt nào.
Bởi vì không có đối tượng nào của tâm thức để bám
nắm như trong giấc mộng, yoga giấc ngủ được xem là khó
khăn hơn yoga giấc mộng. Trở nên sáng sủa minh bạch trong
một giấc mộng nghĩa là giấc mộng được nhận biết ; nó
là đối tượng của tỉnh giác. Nhưng trong thực hành giấc
ngủ, sự nhận biết không phải là về một đối tượng
của một chủ thể mà là sự nhận biếtbất nhị về cái
tỉnh giácthuần túy, cái tịnh quang, bởi chính bản thântỉnh giác. Thức giác quan không vận hành, thế nên tâm thứcdựa vàokinh nghiệmgiác quan không vận hành. Tịnh quang thì
giống như thấy mà không có con mắt, không có một đối tượng
hay một người thấy.
Điều
này tương tự với cái xảy ra khi chết: khó hơn để trở
nên giải thoát trong trung ấm thứ nhất, trung ấmthanh tịnh
một cách bổn nguyên (ka-dag), hơn là trong trung ấmtiếp theo,
trung ấm tịnh quang (od-sal), trong đó những hình ảnh khởi
lên. Vào lúc chết, có một khoảnh khắc tan biến hoàn toàn
của kinh nghiệm chủ thể vào trong nền tảng trước khi những
xuất hiện của những cái nhìn thấy thuộc trung ấm. Vào
khoảnh khắc đó, không có cái ngã chủ thể, cũng như kinh
nghiệm hàng ngày chấm dứt trong sự tan biến vào giấc ngủ.
Chúng ta ra đi. Và rồi những giấc môïng khởi lên trong giấc
ngủ, hay những hình ảnh khởi lên trong trung ấm, và khi chúng
được tri giác, sức mạnh của những khuynh hướng nghiệp
tạo ra cảm thức về một cái ngã đang tri giáckinh nghiệm
về những đối tượng của tri giác. Bị bắttrở lại trong
nhị nguyên, chúng tatiếp tục trong giấc mộngsanh tử nếu
đang ngủ hay tiếp tục đi đến tái sanh nếu trong trung ấm.
Nếu
chúng tahoàn thànhthực hành giấc ngủ, chúng ta có thể giải
thoát trong trung ấmthanh tịnh một cách bổn nguyên. Nếu chúng
ta chưa hoàn thành yoga giấc ngủ, chúng ta sẽ gặp những cái
nhìn thấy trong trung ấmtiếp theo, trải qua nó, và nếu chúng
ta đã hoàn thànhthực hànhgiấc mộng, chúng ta có khả năng
hơn để giải thoát. Nếu chúng ta không hoàn thànhthực hành
giấc ngủ hoặc yoga giấc mộng, chúng tatiếp tục trôi lăn
trong sanh tử.
Bạn
phải quyết định cho chính bạn cái gì trong những thực hành
này là thích hợp nhất. Những giáo lýĐại Toàn Thiện luôn
luôn nhấn mạnh sự quan trọng của tự biết chính mình, nhận
biết những khả năng và những chướng ngại của bạn, và
dùng cái hiểu biết đó để thực hành trong cách lợi lạc
nhất. Nó nói rằng chỉ có một ít người mà đối với họ
thực hành giấc ngủ sẽ dễ dàng hơn thực hànhgiấc mộng,
thế nên một cách tổng quát, tôi đề nghị bắt đầu với
thực hànhgiấc mộng. Nếu tâm thức bạn còn bám nắm, sẽ
có ý nghĩa khi bắt đầu với yoga giấc mộng, trong đó tâm
thức có thể buộc chặt vào chính giấc mộng. Sau khi sự
vững chắc trong rigpa được khai triển, thực hành giấc ngủ
sẽ dễ dàng hoàn thành hơn bởi vì có một kinh nghiệm mạnh
mẽ của sự không bám nắm, của sự không là một chủ thể,
nó là tình huống trong giấc ngủ. Một lý do khác khiến tôi
đề nghị bắt đầu với yoga giấc mộng là thường thường
phải lâu dài cho hành giả để trở nên minh bạch trong giấc
ngủ hơn là trong giấc mộng. Thực hành trong một thời gianlâu dài mà không có những kết quả rõ ràng có thể dẫn
đến ngã lòng, điều này có thể trở thành một ngăn chướng
trên con đường. Một khi bạn có một kinh nghiệm nào trong
yoga này hay yoga kia, sẽ tốt để tiếp tục và tăng cường
sự thực hành.
Hai
yoga cuối cùng dẫn vào nhau. Khi thực hànhgiấc mộng được
hoàn thànhtrọn vẹn, cái tỉnh giácbất nhị của rigpa sẽ
biểu lộ trong giấc mộng. Điều này dẫn đến nhiều giấc
mộng của sáng tỏ và cuối cùng đến sự hòa tan của những
giấc mộng vào tịnh quang. Đây cũng là quả của thực hành
giấc ngủ. Ngược lại, khi tiến bộ có được trong yoga giấc
ngủ, những giấc mộng sẽ tự nhiên trở nên minh bạch và
những giấc mộng của sáng tỏ sẽ tự nhiên khởi lên. Những
giấc mộngminh bạch bấy giờ có thể được dùng cho sự
phát triển của sự linh hoạtmềm dẻo của tâm thức như
đã diễn tả trước đây. Thành côngcuối cùng trong cả hai
thực hành đòi hỏi rằng sự hiện diệnthuần khiết của
rigpa phải được nhận biết và làm vững chắctrong suốt
cả ngày.
4
Chuẩn Bị cho Ban Đêm
Người
trung
bình không biết những nguyên lý của thiền định, mang
những căng thẳng, phiền não, tư tưởng và những rối rắm
mê mờ của ban ngày vào ban đêm. Đối với một người như
vậy, không có thực hành hay thời gianđặc biệt nào được
đặt riêng ra để xử lý ban ngày hay làm bình lặng trước
khi vào giấc ngủ. Với họ giấc ngủ đến giữa sự phóng
dật, và những tiêu cực được được giữ trong tâm thức
suốt đêm. Khi cơn mộng khởi sanh từ những tiêu cực này,
không có sự vững vàng ổn định trong hiện diệntỉnh thức
và cá nhân bị cuốn theo những hình ảnh và mê lầm của
thế giới mộng. Thân thểcăng thẳng bởi lo âu hay nặng
nề bởi buồn rầu, và khí trong thân thì thô và không trơn
tru khi tâm thức phóng đi đây đó. Giấc ngủ bị nhiễu loạn,
những giấc mơ đầy căng thẳng hay chỉ là một sự trốn
thoátthích thú, và người ngủ khi thức dậy thì mệt mỏi
và không được ngơi nghỉ vào buổi sáng hôm sau, thường
tiếp tục ban ngày trong một trạng tháitiêu cực.
Ngay
cả với người không thực hành những yoga giấc mộng hay
giấc ngủ, vẫn cólợi lạc khi chuẩn bị cho giấc ngủ,
xem nó là nghiêm túc. Tịnh hóa tâm thức đến mức tốt nhất
trước khi ngủ, cũng như trước lúc thiền định, làm phát
sanh nhiều sự hiện diện hơn và những phẩm tính tích cực.
Hơn là để cho những xúc tình tiêu cựcmang đi lúc ban đêm,
hãy dùng bất cứ phương tiện thiện xảo nào bạn có để
giải thoát bạn khỏi những xúc tình đó. Nếu bạn biết
làm thế nào để cho xúc tình tựgiải thoát, tan biến vào
tánh không, thì hãy làm thế. Nếu bạn biết làm thế nào
để chuyển hóa nó hay tạo nên cái đối trị với nó, hãy
dùng hiểu biết đó. Hãy cố gắng nối kết với vị lama,
yidam, và dakini ; hãy cầu nguyện đến chư Phật và những
thần bổn tôn ; hãy phát khởi lòng bi. Hãy làm điều gì bạn
có thể làm để gỡ thoát cho bạn căng thẳng trong thân thể
và những thái độtiêu cực trong tâm thức. Thoát khỏi sự
quấy nhiễu, với một tâm thức nhẹ tênh và thoải mái, bạn
sẽ kinh nghiệm một giấc ngủ yên nghỉ hơn và phục hồi
sức khỏe hơn. Dù cho không thể làm phần sau của những thực
hành, sự thực hành này là một cái gì tích cực mà ai cũng
có thể hòa trộn vào cuộc sống hàng ngày.
Ở
trên là vài chuẩn bị tổng quát cho ban đêm, nhưng chớ tự
giới hạn trong những cái ấy. Điểm quan trọng là tỉnh thức
với cái mà bạn đang làm với tâm thức bạn và nó ảnh hưởng
bạn thế nào, và dùng sự hiểu biết của bạn để làm bình
an chính bạn, trở nên hiện diện, và mở ra những khả tính
của ban đêm.
CHÍN
HƠI THỞ TỊNH HÓA
Có
lẽ bạn đã ghi nhận sự căng thẳng nhiều biết bao được
mang vào trong thân thể và sự căng thẳngảnh hưởng đến
hơi thở như thế nào. Khi có ai mà chúng ta đang có nhiều
rắc rối với họ đi vào phòng, thân thể co siết và hơi
thở trở nên ngắn hơn và gắt hơn. Khi chúng ta sợ, hơi thở
thành nhanh và cạn. Khi buồn, hơi thở thường sâu và điểm
thêm những tiếng thở dài. Và nếu người nào chúng ta thích
và chăm lo đi vào phòng, thân thể thư giãn và hơi thở rỗng
rang và thoải mái.
Hơn
là chờ đợi kinh nghiệm để thay đổi hơi thở, chúng ta
có thể chủ động thay đổi hơi thở để thay đổi kinh nghiệm
của chúng ta. Chín hơi thở của sự tịnh hóa là một thực
hành ngắn để làm sạch và tịnh hóa những kinh mạch và
để thư giãn tâm thức và thân thể. Hình vẽ những kinh mạch
có thể tìm ở trang 69.
Ngồi
xếp chân trong thế thiền định. Đặt hai tay dưới bụng,
tay trái trên tay phải. Hơi cúi đầu một chút cho cổ thẳng.
Hãy
quán tưởng ba kinh mạch năng lực trong thân bạn. Kinh mạch
trung ương màu xanh và đứng thẳng qua trung tâm của thân ;
nó cỡ bằng một cây mía, và hơi rộng ra từ tim đến chỗ
mở ra của nó nơi đỉnh đầu. Hai kinh mạch hai bên đường
kính bằng cây bút chì và nối với kinh mạch trung ương ở
chót đáy của nó, khoảng bốn inch dưới rốn. Chúng đi thẳng
qua thân ở hai bên kinh mạch trung ương, cong lại dưới xương
sọ, đi qua sau mắt và mở ra nơi lỗ mũi. Nơi người đàn
bà kinh mạch phải màu đỏ và kinh mạch trái màu trắng. Nơi
người đàn ông kinh mạch phải màu trắng và kinh mạch trái
màu đỏ.
Ba
hơi thở đầu
Đàn
ông : Đưa bàn tay phải lên với ngón tay cái đè gốc ngón
tay đeo nhẫn. Bịt lỗ mũi phải với ngón tay đeo nhẫn, hít
vào ánh sáng màu lục qua lỗ mũi trái. Rồi bịt lỗ mũi trái
với ngón tay đeo nhẫn tay phải, thở ra hết qua lỗ mũi phải.
Lập lại như vậy ba lần hơi thở vào và ra.
Đàn
bà : Đưa bàn trái lên với ngón cái đè gốc ngón tay đeo
nhẫn. Bịt lỗ mũi trái với ngón tay đeo nhẫn, hít vào ánh
sáng màu lục qua lỗ mũi phải. Rồi bịt lỗ mũi phải với
ngón tay đeo nhẫn, thở ra hết qua lỗ mũi trái. Lập lại
như vậy ba lần hơi thở vào và ra.
Với
mỗi hơi thở ra, hãy tưởng tượng mọi chướng ngạiliên
hệ với năng lực nam bị trục khỏi kinh mạch màu trắng
trong hình dạng không khí màu xanh nhạt. Những cái này gồm
những đau yếu thuộc khí cũng như những chướng ngại và
che chướng liên hệ với quá khứ.
Ba
hơi thở thứ hai
Đàn
ông và đàn bà : Đổi tay và lỗ mũi và lập lại ba lần
hơi thở vào và ra. Với mỗi hơi thở ra, hãy tưởng tượng
mọi chướng ngạiliên hệ với năng lực nữ bị trục khỏi
kinh mạch màu đỏ trong hình dạng không khí màu hồng nhạt.
Những cái này gồm những đau yếu thuộc mật cũng như những
chướng ngại và che chướng liên hệ với tương lai.
Ba
hơi thở thứ ba
Đàn
ông và đàn bà : Đặt bàn tay trái trên bàn tay phải dưới
bụng, bàn tay ngửa lên. Hít vào ánh sáng màu lục có tính
cách chữa lành qua cả hai lỗ mũi. Hãy quán tưởng nó đi
xuống theo hai kinh mạch hai bên đến chỗ nối kết với kinh
mạch chính, khoảng bề rộng bốn ngón tay dưới rốn. Với
hơi thở ra, hãy quán tưởngnăng lựcđi lên theo kinh mạch
trung ương và ra đỉnh đầu. Hoàn thành ba hơi thở vào và
ra. Với mỗi hơi thở ra, hãy tưởng tượng tất cả mọi
thế lực làm cho đau yếu liên hệ với những ma quỷ đối
nghịch bị trục khỏi đỉnh đầu trong hình dạng khói màu
đen. Những cái ấy gồm những đau yếu thuộc chất niêm dịch.
Cũng như những chướng ngại và che chướng liên hệ với
hiện tại.
GURU
YOGA
Guru
yoga là một thực hànhchính yếu trong mọi trường phái Phật
giáo Tây Tạng và đạo Bošn. Điều này chứng tỏ trong kinh
tantra, và Đại Toàn Thiện. Nó phát triển sự nối kết trong
lòng với vị thầy. Bằng cách liên tục làm mạnh lòng sùng
mộ, chúng ta đến chỗ sùng mộ thuần túy, không lay chuyển,
căn cứ thần lực của sự thực hành. Tinh túy của guru yoga
là hòa lẫn tâm của hành giả với tâm của đạo sư.
Đạo
sưchân thật là gì ? Đó là bản tánh nền tảng, vô tướng
của tâm, tánh giác bổn nguyên nền tảng của mọi sự, nhưng
vì chúng ta sống trong nhị nguyên, sẽ ích lợi cho chúng taquán tưởng cái ấy trong một hình tướng. Làm như vậy là
sử dụng một cách thiện xảo những nhị nguyên của tâm
thứcý niệm để làm mạnh thêm lòng sùng mộ và giúp chúng
ta nhắm đến thực hành và sự phát sanh những phẩm tính
tích cực.
Trong
truyền thống Bošn, chúng tôithường dùng hoặc Tapihritsa như
là đạo sư, hoặc Phật Shenla Odker*, ngài đại diện sự hợp
nhất của tất cả chư đạo sư. Nếu bạn đã là một hành
giả, bạn có thể có một bổn tôn khác để quán tưởng,
như Guru Rinpoche hay một yidam hay dakini. Trong khi điều quan trọng
là làm việc với một dòng phái mà bạn có một mối liên
kết, bạn cần hiểu rằng đạo sư bạn đang quán tưởng
là hiện thân của tất cả các đạo sư bạn đã liên kết,
tất cả các vị thầy đã theo học, tất cả các bổn tôn
bạn đã có những cam kết. Đạo sư trong guru yoga không chỉ
là một cá nhân, mà là tinh túy của giác ngộ, tánh giác bổn
nguyên nó là bản tánhchân thật của bạn.
Đạo
sư cũng là vị thầy mà bạn nhận những giáo lý từ ngài.
Trong truyền thốngTây Tạng, chúng ta nói rằng đạo sư
Tapihritsa
còn
quan
trọng hơn đức Phật. Vì sao ? Bởi vì đạo sư là sứ
giả trực tiếp của những giáo lý, người đem trí huệ của
Phật đến cho đệ tử. Không có đạo sưchúng ta không tìm
racon đường của chúng ta đến với Phật. Thế nên chúng
ta cần cảm thấy sùng mộ với đạo sư như đối với Phật
nếu thình lình Phật xuất hiệntrước mặtchúng ta.
Guru
yoga không chỉ là phát sinh một cảm giác nào đó đối với
một hình ảnh được quán tưởng. Nó được làm để tìm
thấy tâm nền tảng trong chính bạn, tâm đó là nhất như
với tâm nền tảng của tất cả các vị thầy của bạn,
và của tất cả chư Phật và những bậc chứng ngộ đã từng
sống ở đời. Khi bạn hòa nhập với vị guru, bạn hòa nhập
với thật tánh nguyên sơ của bạn, nó là người hướng dẫn
và đạo sư đích thực. Nhưng điều này không nên là một
thực hànhtrừu tượng. Khi bạn làm guru yoga, hãy cố gắngcảm thấy lòng sùng mộ mãnh liệt đến độ tóc gáy dựng
đứng, nước mắt bắt đầu rơi trên mặt bạn, và lòng bạn
mở ra và tràn đầy tình thương mến lớn lao. Hãy để bạn
hòa lẫn hợp nhất với tâm của guru, chính là Phật tánhgiác ngộ của bạn. Đây là cách thực hành guru yoga.
Thực
hành
Sau
chín hơi thở, vẫn ngồi trong tư thế thiền định, hãy quán
tưởngđạo sư ở trên và trước mặt bạn. Đó không phải
là một bức tranh bằng phẳng, hai chiều – hãy để cho một
hiện thể thực sự hiện hữu ở đó, với ba chiều, làm
bằng ánh sáng, trong sạch, và với một sự hiện diện mạnh
mẽ tác độngcảm giác trong thân thể, năng lực, và tâm
thức của bạn. Hãy phát sanh sùng mộ mạnh mẽ và suy nghĩ
về sự trao tặng vĩ đại những giáo lý và cơ hội tốt
đẹp lớn lao bạn đang hưởng khi liên kết với chúng. Dâng
lên một lời cầu nguyệnchân thành, cầu xin những tiêu cực
và che ám của bạn được dẹp bỏ, những phẩm tính tích
cực của bạn được phát triển, và bạn hoàn thành được
yoga giấc mộng.
Bấy
giờ hãy tưởng tượng nhận những ban phước từ đạo sư
trong hình thức những ánh sáng ba màu tuôn chảy từ ba cửa
trí huệ của ngài – cửa thân, cửa ngữ, cửa tâm – vào
ba cửa của bạn. Những ánh sáng được chuyển vào theo trình
tự sau : Ánh sáng trắng tuôn chảy từ luân xa đỉnh đầu
của đạo sư vào luân xa đỉnh đầu của bạn, tịnh hóa
và làm thư giãn toàn thân thể bạn và phương diện thể xác
của bạn. Rồi ánh sáng đỏ từ luân xa cổ họng của đạo
sư chảy vào luân xa cổ họng của bạn, tịnh hóa và làm
thư giãn phương diệnnăng lực của bạn. Cuối cùng, ánh
sáng xanh từ luân xa tim của đạo sư chảy vào luân xa tim
của bạn, tịnh hóa và làm thư giãn tâm thức bạn.
Khi
những ánh sáng vào thân thể bạn, hãy cảm thấy chúng. Hãy
để thân thể, năng lực và tâm thức của bạn thư giãn,
tràn ngập trong ánh sáng trí huệ. Hãy dùng tưởng tượng
của bạn để làm cho sự ban phước thành ra có thực trong
kinh nghiệmtrọn vẹn của bạn, trong thân thể và năng lực
của bạn cũng như trong những hình ảnh trong tâm thức bạn.
Sau
khi nhận sự ban phướcgia bị, hãy tưởng tượng đạo sư
tan vào trong ánh sáng, ánh sáng này đi vào tim bạn và ở lại
đó như tinh túy sâu xa nhất của bạn. Hãy tưởng tượng
rằng bạn tan biến trong ánh sáng ấy, và an trụ trong tánh
tỉnh giácthanh tịnh, rigpa.
Còn
có những giáo huấn tỉ mỉ về guru yoga gồm trong những lễ
lạy, dâng cúng, ấn, thần chú và những quán tưởngphức
tạp nữa, nhưng tinh túy của sự thực hành là hòa trộn tâm
thức bạn với tâm thức của đạo sư, nó chính là tánh giác
thanh tịnh, bất nhị. Guru yoga có thể được làm bất kỳ
lúc nào trong ngày ; càng nhiều càng tốt. Nhiều đạo sư nói
rằng trong tất cả mọi thực hành, guru yoga là cái quan trọng
nhất. Nó ban cho sự ban phước của dòng truyền và có thể
mở ra và làm mềm dịu tấm lòng và làm bình lặng tâm thứchoang dã. Hoàn thànhtrọn vẹn guru yoga là hoàn thànhcon đường.
CHE
CHỞ
Đi
ngủ hơi giống với chết, một hành trìnhmột mình vào cái
không biết. Thông thường chúng ta không lo lắng về giấc
ngủ bởi vì chúng ta quen với nó, nhưng hãy nghĩ về điều
mà giấc ngủ kéo theo. Chúng ta tự mất mình trong một sự
trống không trong một khoảng thời gian, cho đến khi chúng
ta khởi lên lại trong một giấc mộng. Khi chúng tanằm mộng,
chúng ta có thể có một bản sắc khác và một thân thể khác.
Chúng ta có thể ở trong một nơi chốn xa lạ, với những
người chúng ta không biết, dấn thân vào những hoạt động
rối rắm có vẻ rất nguy hiểm.
Chỉ
ngủ trong một nơi chốn không quen thuộc có thể tạo ra lo
âu. Nơi chốn có thể hoàn toànan ninh và tiện nghi, nhưng
chúng ta không ngủ như ở nhà trong môi trường quen thuộc.
Có thể năng lực chỗ ấy xấu. Hay có thể chỉ sự không
an ninhcủa riêngchúng ta làm rộn chúng ta, và ngay cả trong
những chỗ quen thuộcchúng ta cũng cảm thấylo âu khi chờ
giấc ngủ đến, hay lo sợ bởi cái chúng tanằm mộng. Khi
vào giấc ngủ với sự lo âu, những giấc mộng của chúng
ta trộn lẫn với sợ hãi và căng thẳng, giấc ngủ kém yên
và, và sự thực hành khó làm hơn. Thế nên là một ý tốt
khi tạo ra một cảm thức được che chở trước khi chúng
ta ngủ và chuyển hóa nơi chốn ngủ của chúng ta thành một
không gianthiêng liêng.
Điều
này được làm bằng cách tưởng tượng những dakini bảo
vệ khắp chung quanh chỗ ngủ. Hãy tưởng tượng những dakini
như những nữ thầnđẹp đẽ, những người nữ giác ngộ,
màu lục và đày đủ năng lựcche chở. Họ ở gần khi bạn
ngủ và suốt cả đêm, như những người mẹ trông chừng
cho con họ, hay những người bảo vệ bao quanh một ông vua
hay hay bà hoàng hậu. Hãy tưởng tượng họ ở khắp nơi,
giữ gìn những cửa lớn và cửa sổ, ngồi cạnh bạn trên
giường, đi dạo trong vườn hay sân... cho đến khi bạn hoàn
toàncảm thấy được che chở.
Lại
nữa, sự thực hành này thì hơn việc chỉ cố gắngquán
tưởng điều gì : hãy thấy những dakini với tâm thức bạn
nhưng cũng dùng sự tưởng tượng của bạn để cảm thấy
sự hiện diện của họ. Tạo ra một môi trường thiêng liêng,
che chở theo cách này là làm bình yên, thư giãn và xúc tiến
giấc ngủ yên nghỉ. Một nhà thần bí sống như vầy : thấy
điều thần bí, thay đổi môi trường với tâm thức, và cho
phép những hành động, thậm chí những hành động tưởng
tượng, có ý nghĩa.
Bạn
có thể nâng thêm cảm thức an bình trong môi trường bằng
cách để những vật có tính chấtthiêng liêng trong phòng
ngủ : những hình ảnhan bình, đáng yêu, những biểu tượngtôn giáo và thiêng liêng, và những vật khác hướng tâm thức
bạn đến con đường.
Tantra
Mẹ nói cho chúng ta rằng khi chúng ta chuẩn bị cho giấc ngủ
chúng ta cần duy trì sự tỉnh giác về những nguyên nhân của
giấc mộng, đối tượng để tập trung vào, những vị bảo
vệ và về chính chúng ta. Giữ những cái ấy trong sự tỉnh
giác, không phải như nhiều cái, mà như một môi trường đơn
nhất, và điều này sẽ có một hiệu lực lớn lao trong giấc
mộng và giấc ngủ.
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa sen là hình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiênba cõi.
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo phápgiải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo PhápThời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà laVô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
Thiết lập nó như một mạn đà laVô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo PhápThời Luânhoạt động.
Tục lệ Lễ hộiLiên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trìđúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tậpchánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Chắc chắnĐức Phật đã thiết lập nhiều quy luậtđạo đức và thiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tảcuộc đờiđức Phật với những thần thôngbiến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giốngtình thương nẩy mầm...
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lựccứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu NiThế Tôn vì thương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộsâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủitâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thànhvăn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiềnxưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúcvui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
Thuở xưa, khi Đức Phậtthuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiệntinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóatruyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
Theo tư tưởngPhật giáo phát triển, đức PhậtDi Lặcxuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêng và vui vẻ.
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tựcầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
Thiền sưLinh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâmgiác ngộ rất hấp dẫn và nổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâmgiác ngộ cũng oai hùng cao cả...
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt namyêu quí như một người bạn thân thiết...
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sưVô Trước.
Mùa xuântự tín là mùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.