Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương III: Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11051)
Chương III: Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương III
Hoạn Nạn Do Nghi Hoặc

Trước hết trình bày về cảnh sở nghi, tiếp theophương pháp đối trị nghi tưởng. Sau cùng, bàn về những điểm hơn và kém của hóa sinhthai sinh về cõi kia.

* Thứ nhất, nói về cảnh sở nghi, nếu có người với tâm nghi hoặc mà tu các công đức để nguyện được sinh về cõi kia thì những người nầy không hiểu rõ trí Phật, trí Bất Tư Nghị, trí Bất Khả Xứng, Quảng trí Đại Thừa, Thắng trí Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng. Họ nghi ngờ, không tin có những trí này, nhưng vẫn tin có tội và phước, tu tập thiện nghiệp, nguyện sinh về cõi kia. Đây là hạng chúng sinh được sinh về cung điện cõi kia, nhưng suốt 500 năm không được nghe đến Tam Bảo. Chỗ sinh về ấy gọi là biên địa.

Bất Tư Nghị tríThành Sở Tác trí. Trí này có khả năng tạo ra những việc không thể nghĩ bàn, như thân cao không quá một trượng sáu mà cũng không thể thấy được đỉnh đầu; dung lượng không bằng lỗ chân lông mà có thể bao trùm khắp mười phương thế giới; một niệm xưng danh hiệu Phật mà có thể diệt trừ tội nặng nhiều kiếp; mười niệm nhớ nghĩ công Đức Phật mà có thể sinh về Báo độ thù thắng ngoài ba cõi. Những việc như thế chẳng thể suy lường được, cho nên gọi là Bất Tư Nghị trí.

Bất Khả Xứng trí là Diệu Quán Sát trí. Trí này quán sát cảnh không thể nghĩ bàn, nghĩa là tất cả pháp như huyễn như mộng, chẳng có chẳng không, lìa ngôn ngữ, bặt nghĩ suy. Người chấp vào ngôn ngữ thì chẳng thể suy lường được, cho nên gọi là Bất Khả Xứng trí.

Đại Thừa Quảng tríBình Đẳng Tánh trí. Trí này rộng lớn, không đồng với Tiểu thừa. Vì vô ngã, cho nên đều là ngã; vì đều là ngã, nên đều bình đẳng nhiếp thọ. Do trí lực đồng thể, nên chuyên chở khắp tất cả chúng sinh mà đưa đến Vô Thượng Bồ-đề, cho nên gọi là Đại Thừa Quảng trí.

Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí chínhĐại Viên Cảnh trí của Như Lai, trước chuyển bổn thức, sau trở về nguồn tâm. Chiếu soi tất cả nên gọi là Đại Viên Cảnh trí. Trong trí này có năm thù thắng:

1. Vô đẳng: như Giải thoát thân thì Nhị thừa cùng được, còn Đại Viên Cảnh trí chính là Pháp thân, Nhị thừa chẳng thể được.

2. Vô luân: như ba trí trước, Bồ-tát dần dần chứng đắc, còn Đại Viên Cảnh trí chỉ có Phật mới chứng, không ai sánh bằng.

3. Tối: vượt hẳn Bất Tư Nghị trí.

4. Thượng: hơn hẳn Bất Khả Xứng trí

5. Thắng: rộng lớn hơn Đại Thừa Quảng trí.

Do năm thù thắng này, cho nên gọi là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí.

Đây là trình bày bốn cảnh nghi do mê muội.

* Thứ hai, trình bày về phương pháp đối trị nghi hoặc. Như có người tâm không ngay thẳng, tà kiến ngã mạn, tâm đạo cạn mỏng, không hiểu bốn trí mà khởi bốn nghi.

Một là nghi những việc làm của Thành Sở Tác trí. Đó là khi nghe kinh nói: “Người niệm Phật mười niệm thì được sinh về cõi Cực Lạc”, do không hiểu rõ nên sinh nghi hoặc mà cho rằng kinh Phật có nói thiện ác nghiệp đạo, tội phước không mất, nếu nặng thì bị trở ngại. Vậy, một người suốt đời làm ác, chỉ nhờ mười niệm, làm sao có thể diệt hết các tội, vãng sinh Cực Lạc, nhập vào chánh định, vĩnh viễn lìa ba đường ác, cuối cùng chứng quả Bất thoái được? Lại nữa, từ vô thỉ đến nay khởi các phiền não, trôi lăn trong ba cõi[1], trói buộc lẫn nhau, nếu không đoạn trừ Nhị luân phiền não[2] thì làm sao chỉ nhờ mười niệm để ra khỏi ba cõi được? Vì muốn diệt trừ mối nghi do tà kiến này, nên nêu ra Bất Tư Nghì trí. Muốn hiển bày trí huệ Phậtsức mạnh rộng lớn, nên lấy gần làm xa, lấy xa làm gần; biến nặng thành nhẹ, biến nhẹ thành nặng. Tuy thật có việc này, nhưng không thể suy lường được. Vì thế, chỉ nên một mực tin theo kinh nói, không nên dùng trí thức cạn cợt của mình để suy lường. Như muốn sinh lòng tin, cần phải nhờ vào sự mà diễn đạt, dụ dẫn. Thí như ngàn năm góp chứa củi cao cả trăm thước, nhưng chỉ một ngọn lửa nhỏ thiêu đốt trong một ngày là hết sạch. Vậy đâu thể cho rằng làm sao ngàn năm chứa củi mà có thể thiêu sạch trong một ngày được? Lại nữa, ví như một người què mà tự gắng sức đi, cần phải trải qua nhiều ngày mới được một Do-tuần; còn nếu đi thuyền, nhờ vào sức gió thì trong khoảng một ngày có thể đi đến ngàn dặm. Vậy đâu thể cho rằng làm sao người què mà một ngày đi đến ngàn dặm được? Sức của người lái thuyền ở thế gian còn làm được việc vượt ngoài suy nghĩ như thế, huống gì thần lực của Đức Như Lai Pháp Vương lại không thể làm được việc không thể nghĩ bàn sao? Đây là pháp đối trị mối nghi thứ nhất.

Mối nghi thứ hai là nghi về cảnh sở quán của Diệu Quan Sát trí. Trong kinh khen ngợi trí huệ PhậtDiệu Quan Sát trí. Các pháp chẳng phải có chẳng phải không, xa lìa Nhị biên[3], không chấp Trung đạo[4], do không hiểu rõ nên sinh nghi hoặc mà cho rằng: Như nay thấy biết vật nặng thì hạ xuống, vật nhẹ thì cất lên. Nếu như nói nhẹ mà không cất lên, nặng mà không hạ xuống, như thế là vô nghĩa. Pháp do nhân duyên sinh cũng như thế. Nếu thật chẳng phải không thì có, nếu chẳng phải có thì không. Nếu nói chẳng phải không mà không rơi vào có, chẳng phải có mà không rơi vào không, thì cũng giống như nặng mà không hạ xuống, nhẹ mà không cất lên mà thôi. Cho nên, phải biết thuyết này có lời mà không thật. Tính lường như thế tức rơi vào biên kiến. Hoặc chấp Y Tha Khởi là thật có thì rơi vào Tăng ích; hoặc chấp Duyên sinh hoàn toàn không thì rơi vào Tổn giảm[5]; hoặc cho rằng Tục đế là có, Chân đế là không, chấp vào Nhị biên thì rơi vào Tương vi luận; hoặc cho rằng các pháp chẳng có chẳng không, chấp vào Nhất trung thì rơi vào Ngu si luận. Thích Luận[6] chép: “Chẳng có chẳng không là Ngu si luận. Để đối trị kiến chấp sai trái này, cho nên thiết lập Bất Khả Xứng trí, đồng thời hiển bày các pháp rất sâu xa, lìa ngôn ngữ, bặt nghĩ suy, không thể suy nghĩ tính lường, theo lời mà hiểu nghĩa”. Như luận Du-già nói: “Thế nào là các pháp sâu kín khó thấy? Đó là tất cả pháp. Vì sao? Vì pháp sâu kín khó thấy bậc nhất là tự tánh của các pháp. Tự tánh này là bặt hý luận, vượt ngôn ngữ. Nhưng nhờ ngôn ngữ làm chỗ y cứ, nên mới có thể nắm bắt, có thể nhìn thấy, có thể cảm nhận, cho nên gọi là các pháp sâu kín khó thấy. Đây là pháp đối trị mối nghi thứ hai.

Mối nghi thứ ba là nghi về nghĩa Bình Đẳng Tánh trí là ngang bằng. Như trong kinh nói: “Tất cả chúng sinh đều có tâm thức. Hễ loài có tâm thức thì đều chứng được Bồ-đề”. Do không hiểu nên sinh ra mối nghi mà cho rằng: “Nếu nói chúng sinh đều có Phật tánh, đều được độ hết, đều chứng Vô Thượng Bồ-đề, thế thì chúng sinh tuy nhiều nhưng ắt sẽ hết. Vậy Đức Phật sau cùng không có đức lợi tha, vì không còn chúng sinh để giáo hóa, nên nhất định sẽ không thành Phật, vì công đức bị thiếu sót. Không có công đức giáo hóa thì không hợp với lý đạo. Thiếu khuyết công đứcthành Phật làm gì có lý này!”. Suy nghĩ sai lệch như thế rồi phỉ báng Đại thừa, không tin vào ý bình đẳng được độ. Vì để đối trị mối nghi chấp nhỏ hẹp như thế, cho nên thiết lập Đại Thừa Quảng trí. Muốn trình bày Phật trí rộng lớn, chuyên chở tất cả chúng sinh nhập vào Vô dư, cho nên gọi là Đại thừa. Khả năng chuyên chở của trí này không giới hạn, không bờ mé, cho nên gọi là Quảng trí. Sở dĩ như vậy là vì hư không vô biên, chúng sinh vô số lượng, ba đời không giới hạn, sinh tử không đầu không cuối. Chúng sinh đã không có khởi đầu, không có cuối cùng, thì chư Phật cũng không có khởi đầu, không có cuối cùng. Nếu chư Phật đã có khởi đầu thành tựu thì trước đó không có quả Phật, không có Thánh giáo. Vì không có Thánh giáo cho nên không được nghe pháp để huân tập. Không được nghe pháp để huân tậpthành Phật thì không có nhân mà có quả. Đây là chỉ có lời nói mà không có thật. Từ đạo lý này suy ra thì chư Phật không có khởi đầu. Tuy thật không có khởi đầu, nhưng không có một Đức Phật nào mà vốn không là phàm phu. Tuy là phàm phu, mà liên tục chuyển tiến không có khởi đầu. Từ đây suy ra biết được chúng sinh không có cuối cùng. Tuy thật khôngcuối cùng, nhưng tất cả về sau đều được thành Phật. Tuy hết thảy đều được thành Phật, mà liên tục chuyển tiến không có cuối cùng. Cho nên, cần phải tin Bình Đẳng Tánh trí độ khắp tất cả, không có giới hạn. Do đó, mới lập ra Đại Thừa Quảng trí để đối trị với mối nghi thứ ba này.

Mối nghi thứ tư là nghi về nghĩa Đại Viên Cảnh trí biến chiếu cùng khắp tất cả các cảnh. Nghi rằng: Vì hư không vô biên nên thế giới cũng vô biên. Vì thế giới vô biên nên chúng sinh cũng vô biên. Vì chúng sinh vô biên nên căn, dục, tánh v.v… đều không bờ mé, thì làm sao có thể biết hết được? Phải chăng nên tu tập dần dần mà biết được, hay do không cần tuđột nhiên chiếu rõ? Nếu không cần tu tập mà đột nhiên chiếu rõ thì tất cả phàm phu đều được chiếu soi như nhau, vì tất cả đều không tu tập, vì không có nhân khác. Nếu thứ lớp tu tập cuối cùng biết được hết thì tất cả cảnh đều có bờ mé, giới hạn. Không bờ mé mà có cùng tận thì thật không đúng với lý vậy! Tiến thoái như vậy đều không thành lập được, làm sao chiếu khắp được mà gọi là Nhất Thiết Chủng trí? Để đối trị lại hai mối nghi này, cho nên lập ra Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí. Đại Viên Cảnh trí này hơn hẳn ba trí kia, vượt ngoài hai đế, có một không hai, vượt ngoài Hai quan[7], siêu việt cả Vô quan. Chỉ nên tin theo, không thể so lường, cho nên gọi là Tối Thượng Thắng trí.

Tại sao phải khởi lòng tin theo? Thí như thế giới vô biên, không vượt ra ngoài hư không, vạn cảnh không có giới hạn, bao hàm trong một nguồn tâm. Phật trí lìa tướng, quy về nguồn nhất tâm. Trí và nguồn nhất tâm dung hòa nhau không khác. Vì Thỉ giác[8] tức đồng với Bản giác[9], cho nên không có vạn cảnh vượt ngoài trí. Từ đạo lý này suy ra thì trí vô hạn thấu suốt tất cả cảnh, vì vô biên trí chiếu soi vô biên cảnh. Như luận Khởi Tín nói: “Tất cả cảnh giới vốn từ nhất tâm, lìa niệm. Vì chúng sinh vọng thấy cảnh giới, cho nên tâm có phạm vi, giới hạn. Do vọng khởi niệm, không hợp với pháp tánh, cho nên không thể hiểu rõ. Chư Phật Như Lai lìa kiến tướng, không chỗ nào không bao trùm, vì tâm chân thật thì thể tánh của các pháp chiếu soi tất cả pháp vọng, có dụng đại trí, vô lượng phương tiện, tùy theo chỗ thích ứng của chúng sinh mà khai thị tất cả pháp nghĩa. Cho nên được gọi là Nhất Thiết Chủng trí”. Đó là Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí. Vì không có chỗ thấy, nên không có chỗ nào không thấy. Như thế là đối trị mối nghi thứ tư.

Nếu không đạt được ý, theo lời mà hiểu nghĩa, thì Hữu biên hay Vô biên đều là lỗi lầm, hay căn cứ vào nghĩa Phi hữu biên mà giả lập nghĩa Vô biên. Nếu người không giải quyết bốn mối nghi thì tuy có sinh về cõi kia cũng vẫn ở biên địa[10]. Như có người mắt tâm chưa sáng, tuy chưa hiểu rõ cảnh giới của bốn trí nêu trên, mà tự khiêm, ngưỡng cầu Như Lai, một mực tín phục Phật pháp. Những người như thế, tùy phẩm hạnh tu hành của họ mà được sinh về cõi kia, không ở biên địa. Người sinh về biên địa thuộc một loại riêng, chẳng thuộc chín phẩm. Vì thế không nên vọng sinh nghi hoặc.

* Thứ ba, trình bày về điểm hơn và kém của việc hóa sinh[11] và thai sinh về cõi kia.

Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan và Bồ-tát Di-lặc rằng:

- Các ông có thấy cõi nước kia, từ đất lên đến cõi trời Tịnh Cư, các vật trong đó tự nhiên vi diệu, thanh tịnh, trang nghiêm không?

- Bạch Thế Tôn! Có thấy! – A-nan thưa.

- Các ông có nghe tiếng lớn của Đức Phật Vô Lượng Thọ truyền đi khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sinh chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có nghe!

- Các ông có thấy chúng sinh cõi kia ở trong cung điện bằng bảy báu trăm ngàn do-tuần[12], cúng dường chư Phật khắp mười phương hoàn toàn không chướng ngại chăng?

- Bạch Thế Tôn! Có thấy!

- Chúng sinh cõi ấy có loài thai sinh, các ông có biết không?

- Bạch Thế Tôn! Có biết!

- Loài thai sinh đó ở trong cung điện, hoặc một trăm do-tuần, hoặc năm trăm do-tuần. Mỗi chúng sinh ở trong đó đều tự nhiên thọ hưởng khoái lạc giống như trên cõi trời Đao-lợi.

Lúc đó, bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà chúng sinh cõi kia có người thai sinh, có người hóa sinh?

Phật bảo bồ-tát Di-lặc rằng:

- Có những chúng sinh dùng tâm nghi hoặc để tu các công đức, nguyện sinh về cõi đó. Họ không hiểu rõ, lại còn sinh tâm nghi ngờ Phật trí, Bất Tư Nghì trí, Bất Khả Xứng trí, Đại Thừa Quảng trí, Vô Đẳng Vô Luân Tối Thượng Thắng trí, nhưng do tin có tội phước, tu tập các pháp thiện, nguyện sinh về cõi nước đó, nên họ được sinh vào cung điện kia, sống đến năm trăm tuổi, mà vẫn không được thấy Phật, không được nghe kinh pháp, không thấy Bồ-tát, Thanh văn và các Thánh chúng. Vì thế, những chúng sinh sinh trong cõi nước kia được gọi là Thai sinh. Nếu có chúng sinh tin hiểu Phật trí, cho đến Thắng trí, tạo các công đức, phát tín tâm hồi hướng Bồ-đề, thì các chúng sinh này tự nhiên được hóa sinh trong hoa bảy báu, ngồi kiết già, trong khoảng chớp mắt, thân tướng trang nghiêm, thành tựu đầy đủ các công đức, trí huệ giống như Bồ-tát. Lại nữa, bồ-tát Di-lặc! Các bậc đại Bồ-tát ở cõi Phật phương khác khởi tâm muốn được diện kiến, cung kính cúng dường Đức Phật Vô Lượng Thọ và chúng Bồ-tát, Thanh văn. Các Bồ-tát ở cõi ấy sau khi mạng chung cũng được sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ, tự nhiên hóa sinh trong hoa bảy báu. Di-lặc nên biết, những người được tự nhiên hóa sinh kia đều có trí huệ tối thắng, còn những người bị thai sinh đều không có trí huệ, suốt năm trăm năm không được gặp Phật, không được nghe kinh pháp, không gặp Bồ-tát và chúng Thanh văn, không được cúng dường chư Phật, không biết pháp thức của Bồ-tát, không được tu tập công đức. Nên biết rằng những người này, trong đời trước do nghi hoặc mà dẫn đến không có trí huệ. Thí như Chuyển Luân Thánh vương có ngục tù bằng bảy báu, mọi thứ đều trang nghiêm, xếp đặt giường mùng, treo các cờ lọng. Nếu các Vương tử phạm tội, liền bị vua cha giam vào trong đó, khóa bằng xích vàng, canh gác nghiêm ngặt, rồi cung cấp món ăn thức uống, y phục chăn mền, đầy đủ các thứ hương hoa kỹ nhạc, sống giống như Chuyển Luân vương không thiếu một vật gì. Ý ông nghĩ sao? Các vị Vương tử này có cam lòng thọ nhận thú vui nơi ấy không?

Bồ-tát Di-lặc đáp rằng:

- Dạ không! Họ chỉ muốn tìm đủ mọi cách, cầu các thế lực để mong được ra khỏi chốn ấy.

Phật bảo bồ-tát Di-lặc:

- Các chúng sinh này lại cũng như thế! Vì nghi hoặc Phật trí mà bị sinh vào cung điện thai sinh bảy báu. Tuy không có hình phạt cũng như không có một niệm ác, nhưng họ có nỗi khổ là trong năm trăm năm không gặp được Tam Bảo, không được cúng dường, tu tập các pháp thiện. Mặc dù có nhiều thú vui, nhưng không vui bằng cõi Phật Vô Lượng Thọ. Nếu chúng sinh này biết được gốc tội xưa của mình, tự mình ăn năn hối cải, cầu vượt ra khỏi chỗ đó, lập tức được sinh về cõi Phật Vô Lượng Thọ như ý muốn để cung kính cúng dường, đi khắp vô lượng vô số cõi Phật khác để tu tạo các công đức. Di-lặc nên biết rằng, nếu như có Bồ-tát nào sinh tâm nghi hoặc liền mất đi lợi ích lớn. Do đó, cần phải tin rõ trí huệ vô thượng của chư Phật”. Lời của Như Lai chân thật, nếu nghi ngờ thì sau ăn năn không kịp, cần phải thận trọng!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10274)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
(Xem: 11159)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10951)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11192)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11246)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14232)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12474)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11699)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29250)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11650)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10782)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11087)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10942)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10759)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11323)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10771)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12238)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11287)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10052)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11397)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13394)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11245)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11450)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12679)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13772)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13189)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12799)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12158)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30108)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38107)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24883)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10962)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11718)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10653)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11220)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11509)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12891)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12081)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11302)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10204)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11794)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11200)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10890)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13069)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10197)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10872)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10939)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14531)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10684)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12063)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11426)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30163)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19582)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20561)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12551)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12540)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21166)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13247)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14449)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30404)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 27990)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28332)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20924)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28650)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27214)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21925)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26209)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21609)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23398)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26391)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23177)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19812)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22913)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21146)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19949)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15400)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39205)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25631)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14117)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26041)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22504)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29098)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22517)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22847)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13200)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23174)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13154)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28941)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30472)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14234)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26232)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33194)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35533)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8607)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13296)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30637)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22114)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant