Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương VII: Lập các mối nghi để trừ nghi

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10378)
Chương VII: Lập các mối nghi để trừ nghi

DU TÂM AN LẠC ĐẠO
Tác Giả: Sư Nguyên Hiểu nước Tân-La -Tỳ Kheo Thích Giác Chính dịch Việt
Nhà xuất bản Fahasa 2007

Chương VII
Nêu Ra Nghi Để Trừ Nghi

Hỏi: Nhiếp Đại Thừa Luận Thích nêu ra thuyết Biệt thời ý, há chẳng phải là phá trừ nghi sao?

Đáp: Luận kia trình bày có Biệt thời và chẳng phải Biệt thời. Nếu chỉ phát nguyện thì đó là Biệt thời. Nếu hạnh nguyện gồm tu thì chẳng phải Biệt thời.

Như Bồ-tát Thiên Thân phán định hạnh mười niệm là Biệt thời ý, vì sao lại tạo ra bộ luận Vãng Sinh để khuyên người vãng sinh? Lại nữa, nguyên nhân phát khởi giáo lý Quán Kinh là do bà Vi-đề-hy sinh ra nghịch tử là Vương tử A-xà-thế, nhân đó mà bà nhàm chán cõi Ngũ trược, nguyện sinh về cõi Cực Lạc. Đức Phật liền giảng ba phước nghiệp[1] và 16 quán môn cho bà nghe, đồng thời khuyên chúng sinh vãng sinh, cho đến những người tạo tội Ngũ nghịch, Thập ác cũng được khuyên vãng sinh. Bà Vi-đề-hy là người thỉnh Đức Phật giảng về Tịnh độ, thân ở trong Ngũ trược mà lại sinh nghịch tử, Đức Phật cho rằng đều được vãng sinh. Ngay đó mà biết phàm phu hiện ở trong cõi Ngũ trược, nhưng vẫn được vãng sinh.

*

Hỏi: Vi-đề-hy là vị Bồ-tát, vì độ chúng sinh, nên hiện thân người nữ, nhưng lại sinh người con nghịch tử, lẽ nào thật là phàm phu ư?

Đáp: Giả sử thật là Bồ-tát thị hiện, thọ thân người nữ giáo hóa chúng sinh, ắt phải ẩn giấu năng lực thật có của mình, biểu hiện đồng với phàm phu, để nhiếp hóa đồng loại. Tức hiện đồng với phàm phu, thân ở trong cõi Ngũ trược, thường biết rõ những thống khổ của họ để dẫn dắt vãng sinh Cực Lạc.

Nhiếp Luận chép: “Vì chỉ phát nguyện là Biệt thời, cho nên biết tu Ba phước nghiệp, Mười sáu quán môn, bảy ngày niệm Phật đâu phải là Biệt thời”.

Hỏi: Như luận Vãng Sinh nói: “Người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa không được vãng sinh”. Tại sao ở đây lại nói cả ba hạng người đó đều được vãng sinh?

Đáp: Theo lý thì thật đúng như vậy, nếu không có chủng (hạt giống) thì nhất định không được vãng sinh. Nói chánh chủng: Là ở trong cõi này, hoặc có chủng tánh người nam hay chủng tánh người nữ, nếu có nhân người nữ thì nhất định chiêu cảm nữ căn, người này giả sửtu tập hạnh Tịnh độ cũng không được vãng sinh. Vì trong Tịnh độ không có người nữ. Đây là định nghiệp, chính là nghiệp chướng, không thể gắng được. Hạng người thiếu căn như đui, điếc v.v… cũng như thế. Nếu có ăn năn, trừ bỏ thì không sinh vào những hạng người đó. Hàng Nhị thừa do gieo nhân Nhị thừa, không tin Đại thừaTịnh độ trong mười phương nên cũng không được vãng sinh. Từ “Chủng” được trình bày trong luận chính là Định nghiệp chủng.

Hỏi: Nếu như thế, tại sao Quán Kinh lại nói: “Thọ trì ngũ giới thì được vãng sinh, nghe giảng về Tứ đế thì chứng được quả A-la-hán v.v…”?

Đáp: Theo luận Trí Độ, đây chẳng phải là hạng Ngu pháp[2]. Họ tin có chư Phật trong mười phương và có Tịnh độ để phát nguyện vãng sinh, nếu chứng quả A-la-hán rồi thì Phật sẽ giảng kinh Pháp Hoa cho họ nghe, đồng thời khuyên họ phát tâm hồi hướng về Đại thừa.

Hỏi: Chúng sinh nghiệp ác rất nặng, chướng ngại Tịnh độ, một chút thiện nhỏ thì không thể trừ được ác nghiệp. Vì sao trong Quán Kinh lại nói: “Khi lâm chung niệm mười niệm thì được vãng sinh?”.

Đáp: Tâm là chủ của nghiệp, là nguồn gốc để thọ sinh. Lúc lâm chung, tâm giống như con mắt, có thể dẫn dắt tất cả nghiệp. Nếu lúc lâm chung, tâm nghĩ ác thì dẫn dắt các nghiệp ác, nếu tâm nghĩ thiện thì dẫn dắt các nghiệp thiện. Giống như rồng đi đến đâu thì mây tụ tập theo đến đó. Nếu tâm hướng về Tây Phương thì nghiệp cũng theo tâm đến đó.

*

Hỏi: Trong kinh Di-lặc Sở Vấn, khi luận về mười niệm có ghi: “Chẳng phải niệm phàm phu, chẳng xen niệm kết sử”. Ở đây, hết thảy chúng sinh đều là phàm phu, kết sử chưa đoạn trừ thì làm sao niệm Phật mà được vãng sinh?

Đáp: Như kinh kia nói thì chỉ có mình Phật được vãng sinh, chúng sinh khác không được vãng sinh, vì hàng Bồ-tát Thập địa tâm sau cùng vẫn có hai loại vô minh. Ở đây giải thích rằng: Niệm phàm phu, là nếu người không phát tâm Bồ-đề, mong cầu ra khỏi ba cõi để thành Phật mà chỉ niệm Phật cầu vãng sinh, như thế thì đó chính là niệm phàm phu, người đó hoàn toàn không được vãng sinh. Do đó, cần phải phát tâm Bồ-đề. Chẳng xen niệm kết sử, tức là chỉ cần nhất tâm liên tục, quán tướng hảo của Phật, nếu miệng niệm Phậttâm duyên theo năm dục thì đó là xen niệm kết sử. Niệm Phật là tâm phải thuần tịnh, ngược lại với kết sử.

*

Hỏi: Chúng sinh chứa nghiệp ác nhiều như núi, làm sao mười niệm có thể diệt trừ được? Giả sử có biến ra trăm ngàn vạn cũng còn rất ít, nếu như không trừ sạch nghiệp ác thì làm sao được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Có ba nghĩa:

1. Nếu người lúc lâm chungchánh niệm hiện tiền, thì tâm ấy có thể dẫn dắt nghiệp thiện được tạo ra từ vô thỉ, cho đến nghiệp thiện ngay trong đời này đồng thời tương trợ liền được vãng sinh.

2. Danh hiệu của chư Phật đều được thành tựu từ muôn vạn công đức, cho nên nếu người chỉ có thể niệm được một niệm danh hiệu Phật thì ngay trong niệm đã niệm muôn vạn công đức, thì diệt được tội nghiệp. Nghiệp ác làm ngăn ngại việc vãng sinh, nay nghiệp ác đã được trừ diệt rồi thì còn quan hệ gì nữa? Cho nên trong phần Hạ phẩm vãng sinh có nói: “Do nhờ niệm danh hiệu Phật mà trong mỗi mỗi niệm trừ được tội lỗi sinh tử trong 80 ức kiếp”.

3. Nghiệp ác từ vô thỉ đều do vọng tâm sinh khởi, công đức niệm Phật từ Chân tâm sinh khởi. Chân tâm như mặt trời, vọng tâm như bóng tối, chân tâm hiện khởi thì vọng tâm liền tiêu trừ, như mặt trời vừa xuất hiện thì bóng tối liền tiêu tan. Do ba nghĩa này, nên nói người nào lúc lâm chungthành tựu mười niệm thì nhất định được vãng sinh!

*

Hỏi: Tịnh độ thù thắng vi diệu, là Liên Hoa Bảo Tạng, chỗ cư ngụ của đấng Pháp vương, chẳng phải là chỗ của phàm phu tu hành. Đúng ra phàm phu thì tu hành ở đất phàm phu, bậc Thánh thì giáo hóađạo tràng của bậc Thánh, lẽ nào hạng phàm phu thấp kém mà lại được sinh vào chỗ vi diệu này?

Đáp: Hễ là hạng phàm phu thì không được dạo chơi nơi cõi thanh tịnh, đã là đấng Pháp vương sao lại đi vào cõi Ngũ trược. Mặc dù là đấng Pháp vương, nhưng vì muốn giáo hóa chúng sinh nên đi vào cõi Ngũ trược? Mặc dù là phàm phu, vì muốn cúng dường chư Phật mà sinh vào cõi thanh tịnh. Lại nữa, Đức Phật A-di-đà phát 48 lời nguyện lớn, trước hết là vì tất cả hàng phàm phu, sau đó thêm bậc Thánh của Tam thừa, cho nên biết tông chỉ của Tịnh độ vốn dành cho hàng phàm phu, còn bậc Thánh chỉ là phụ. Lại nữa, hàng Bồ-tát Thập giải trở lên, không lo sợ sinh vào đường ác, cho nên có thể không nguyện sinh về Tịnh độ. Do đó biết tông chỉ sâu xa của pháp môn Tịnh độ vốn dành cho hàng phàm phu, chẳng phải cho hàng Bồ-tát.

*

Hỏi: Gặp được thiện duyên, dự vào chín phẩm, thường xem văn nghĩa, lìa bỏ được tâm sân. Nếu như có những người ác, không biết tu thiện, sau khi chết bị rơi vào ba đường ác, thì có thể dùng phương tiện cứu vong linh, trừ nghiệp chướng để sinh về Cực Lạc được không?

Đáp: Chúng sinh ngu si khó thông đạt, thì Thánh giáo có diệu thuật cứu giúp. Cho nên phẩm Quán Đảnh Chân Ngôn Thành Tựu, kinh Bất Không Quyên Tác Thần Biến Chân Ngôn, quyển 28 chép: “Bấy giờ, các cõi nước trong mười phương, tất cả Như Lai trong ba đời và đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng lúc duỗi cánh tay vô úy bên phải, xoa đảnh vua Thanh Tịnh Liên Hoa Minh, đồng thời cùng thuyết Bất Không Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn rằng:

“Án a mộ già giáp oa phế lỗ giả nã ma ha mẫu nại la ma nĩ bát đầu ma nhập phược la bả la miệt đả dã hồng”.

Nếu có chúng sinh nào ở bất cứ nơi đâu mà nghe được Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn này từ hai, ba cho đến bảy biến thì liền trừ diệt được tất cả tội chướng. Nếu có chúng sinh nào gây ra các thứ tội Thập ác, Ngũ nghịch, Tứ trọng nhiều như cát bụi, đầy khắp thế giới này, đến khi thân hoại mạng chung, bị rơi vào đường ác, nên đem chân ngôn này gia trì vào trong cát sỏi 108 biến, rồi vào trong Thi-đà lâm[3], rải trên hài cốt của người chết, hoặc rải trên mộ. Những vong linh ấy hoặc đã bị đọa trong địa ngục, trong ngạ quỷ, trong A-tu-la hay trong bàng sinh, nhưng nhờ bổn nguyện chân thật của Nhất Thiết Bất Không Như Lai, và Bất Không Tỳ-lô-giá-na Như Lai cùng với sức gia trì của thần chú Đại Quán Đảnh Quang Chân Ngôn trong cát, tức thời liền được ánh hào quang chiếu đến thân, nhân đó trừ được các tội báo, bỏ được thân thống khổ, sinh về cõi Tây Phương Cực Lạc, hóa sinh trong hoa sen, cho đến khi chứng được Bồ-đề, vĩnh viễn không bị đọa lạc. Các kinh văn như thế phổ biến khắp nơi.

Tiếc thay! Nghiệp ác tự mình tạo thì chiêu cảm quả khổ như bóng theo hình. Xót thay! Nguy khốn chỉ mình ta, không có ai cứu giúp. Nếu chẳng có tâm đồng thể đại bi[4], bí thuật hoằng tế thì sao có thể từ xa mà mở cửa u đồ, để được lên đài sen. Tuy không có lý người khác làm mà ta thọ nhận, nhưng có sức duyên khởi không thể nghĩ bàn. Thế mới biết nhờ gặp cát đã được gia trì thần chú, tức là có duyên, nếu không gặp được cát sỏi đó, đâu thể có thể nói đến kỳ hạn giải thoát.

Sức đại bi cùng khắp, lời chân thật chẳng hư dối mà không tin nhận, không thực hành thì về sau ăn năn không kịp! Thế thì, người không tin nhận, luống phụ ân sâu dày, ngày báo đáp càng xa vời. Người tin nhận thực hành theo, tiếp dẫn hồn về hoa sen, hạnh hiếu thuận được lập, may gặp được chân ngôn, khiến dễ dàng giải thoát. Phàm trăm người quân tử, không ai mà không phụng hành. Việc rải cát trên mộ mà còn vượt qua ba cõi, huống gì thân được mặc áo gia trì thần chú, tai được nghe tiếng tụng chú!

Xuân Bính Tuất, PL. 2550 (2006)

Thích Giác Chính cẩn dịch
(Tu vien Hue Quang)

 
Giải thích pháp số:

[1] Ba Phước Nghiệp (Tam chủng tịnh phước, Tam chủng tịnh nghiệp): ba chính nhân Tịnh nghiệp, cũng là ba nhân vãng sinh Tịnh độ:

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, thờ phụng sư trưởng, từ tâm bất sát, tu tập 10 nghiệp lành.

2. Thọ trì Tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.

3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn người tu hành (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4079).

[2] Ngu pháp: hàng Tiểu thừa Ngu pháp và hàng Tiểu thừa Bất ngu pháp.

Tiểu thừa Ngu pháp chỉ cho Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác ngu về lý pháp không của Đại thừa. Vì hàng Nhị thừa này chỉ chứng sinh không, chấp chặt pháp có, không biết về chân lý Nhị không của Đại thừa, nên bị chê là Ngu pháp.

Tiểu thừa bất ngu pháp chỉ cho Nhị thừa Thanh văn, Duyên giác vừa chứng được lý Tiểu thừa, vừa hiểu được lý Đại thừa. Tuy cùng là Tiểu thừa nhưng tâm hiểu biết có hơn kém khác nhau. Do họ có thể hồi chuyển tâm Tiểu thừa hướng về Đại thừa, nên còn gọi là Hồi tâm Tiểu thừa (Nhị thừa hồi tâm). Trong năm phán giáo của đại sư Hiền Thủ, hạng này được xếp vào Đại thừa Thỉ giáo (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2907).

[3] Thi-đà lâm: theo Huyền ứng âm nghĩa, q.7, “Thi-đà lâm, gọi đủ là Thi-đa-bà-na, có nghĩa là Hàn lâm (rừng lạnh). Rừng này sâu thẳm lạnh lẽo, nhân đó mà có tên Hàn lâm. Rừng này ở cạnh thành Vương-xá, người chết phần nhiều được đưa tới đây. Nay Thi-đà lâm là từ dùng để chỉ chung chỗ bỏ xác người chết”. Còn gọi là Khủng úy lâm (rừng sợ hãi) (TĐPH Hán-Việt, PVNCPHVN, Nxb Hà Nội, 1994, t. II, tr. 1492).

[4] Đồng thể đại bi: quán chúng sinh với mình đồng một thể mà khởi bi tâm bình đẳng để cứu khổ, ban vui. Bồ-tát từ Sơ địa trở lên, xem nỗi khổ của chúng sinh như nỗi khổ của chính mình mà sinh lòng xót thương vô hạn. Kinh Đại Bát Niết-bàn, q. 16, bản Bắc ghi: “Như cha mẹ thấy con bệnh hoạn, sinh lòng khổ não, xót thương lo buồn, từng giây từng phút. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng như thế, thấy chúng sinh bị phiền não trói buộc, các Ngài buồn khổ, lo nghĩ như mẹ thương con đỏ, đến nỗi các lỗ chân lông đều ra máu” (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1598).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15579)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23030)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14052)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12978)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55109)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9171)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14444)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14204)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13884)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36322)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19156)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20289)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17638)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31535)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15942)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14683)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46175)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35938)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18948)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20193)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18369)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19843)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19530)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33416)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54521)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63653)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17390)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27442)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23035)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18893)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17923)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20937)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14472)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16865)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17478)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21982)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15102)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13506)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14368)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15398)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14991)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12699)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13351)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27397)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16238)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13201)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21651)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22730)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46187)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22458)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18906)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14738)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13840)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13656)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14576)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33318)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38387)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31235)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12529)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43421)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46666)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant