Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Phật đản sinh, suy niệm về giá trị của tình thươngthái độ học Phật

03 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10625)
Nhân Đại lễ kỷ niệm ngày Đức Phật đản sinh, suy niệm về giá trị của tình thương và thái độ học Phật

NHÂN ĐẠI LỄ KỶ NIỆM NGÀY ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH,

SUY NIỆM VỀ GIÁ TRỊ CỦA TÌNH THƯƠNGTHÁI ĐỘ HỌC PHẬT

Minh Chi

1. Giá trị của tình thương yêu 

Ðôi điều tâm sự của tôi đồng thời cũng là đôi điều học tập được, sau gần cả một cuộc đời hướng tới đạo Phật và những thông điệp của Ngài, chứa đựng những chân giá trị sống động, mà bất cứ người nào dù xưa hay nay, ở phương Ðông hay phương Tây cũng đều mơ ước có được cho mình. 

Điều quý báu thứ nhất mà tôi học tập được từ đạo Phậtcon người phải cố gắng sống tốt, sống thiện lành, với tình thương yêu chân thật và rộng lớn đối với mọi người, mọi vật. Nếu mình sống tốt, thiện lành với mọi người, thì một cách tụ nhiên, mọi người cũng sẽ sống tốt và thiện lành đối với mình. Ðó là quy luật nhân quả, một quy luật rất công bằng. Ai cũng có thể hiểu điều này, cảm nhận điều này trong cuộc sống hàng ngày. Ðó là một sự cảm nhận rất tự nhiên, và cũng vì rất tự nhiên cho nên là đúng đắn, không sai. Mình làm điều lành, thì tự nhiên tâm cảm thấy vui, một niềm vui rất thật mà trong sách gọi là phúc lạc, tức là niềm vui do phúc đức đem lại. 

Trái lại, nếu làm một việc không thiện lành, có những lời nóiý nghĩ không thiện lành, thì một cách tự nhiên, chúng ta cảm nhận trong tâm bứt rứt, khổ não không yên. Sự cảm nhận này cũng chân thật như khi ta cảm nhận vui trong tâm sau một việc làm thiện lành vậy, hay là sau một lời nói hay một ý nghĩ thiện lành. 

Nếu chúng ta sống tỉnh giác, biết lắng nghe tiếng nói của nội tâm phê phán chúng ta qua cảm thọ, thì trong cuộc sống, chúng ta sẽ có cơ hội tạo ra thêm bao nhiêu điều thiện lành, trong cả ý nghĩ, lời nóiviệc làm, và cũng như vậy chúng ta sẽ tránh được bao nhiêu điều ác, vừa hại cho bản thân, vừa lại cho xã hội

Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật. Tình thương đó vốn có sẵn trong chúng ta, nó càng rộng rãi bao nhiêu, thì tính vị kỷ cũng sẽ giảm bớt tương đương bấy nhiêu. Mà tính vị kỷ thói hư tật xấu làm gì, nói gì , nghĩ gì cũng vì cái Ta, chính đó thực sự là cội nguồn của mọi bất hạnhđau khổ, mọi xung đột và chiến tranh, mâu thuẫn, hiện đang gây bao tang tóc, bao nước mắt và máu ở những nơi như Palestine, Israel, Afghanistan, Paskistan... 

Chúng ta đối trị tính vị kỷ không phải trên bình diện lý thuyết mà bằng tình thương rộng rãi, bao la mà sách Phật thường gọi là lòng từ, lòng bi... Chính tình thương đó, trong sự thực thi hàng ngày của nó, là phương thuốc đối trịhiệu quả nhất đối với cái Ta vị kỷ. Trong bài viết này, tôi không dùng hai khái niệm và từ ngữ quen thuộclòng từ, lòng bi mà chỉ dùng hai chữ tình thương, bởi lẽ tất cả mọi người dù là Phật tử hay không đều có sẵn tình thương đó, là điều quý báu nhất của con người, trong cả một đời

Chúng ta hiểu tình thươngthái độ nhạy cảm và đồng cảm giữa con ngườicon người, giữa con người và tất cả những gì mà con người tiếp cận. Tình thươngthái độ gần gũi, dịu dàng, không hại lẫn nhau mà làm tốt cho nhau trong phạm vi khả năng của mỗi bên. Biết sống với tình thương đó là biết sống hạnh phúc, biết sống có ý nghĩa. Còn nếu khôngtình thương đó, hay đúng hơn, tuy vốn có tình thương đó nhưng lại để cho nó mai một, héo tàn, thì anh có sống cũng như chết rồi! 

Ðạo Phật rất coi trọng lòng từ và lòng bi cũng vì lẽ đó. Bồ tát Quán Thế Âm sở dĩ được trọng vọngsùng bái khắp nơi ở Ðông Á, đặc biệt là ở nước ta, chính vì Ngài là biểu trưng sống động của lòng từ bi lớn. Chính lòng từ bi là cội rễ của tâm Bồ đề, tức là cái tâm qiác ngộ (bodhicitta). Vì vậy mà khi kết thúc cuộc đối thoại với nhà khoa học vật lý thiên văn người Mỹ gốc Việt là Trịnh Xuân Thuận và thầy Matthieu Ricard đã dẫn chứng rất đúng chỗ, bài thơ của Thiền sư Tây Tạng Khabbar: 

“Ai có lòng bi thì người đó nắm bắt được mọi giáo lý 
 Ai không có lòng bi thì không nắm bắt được bất cứ giáo lý nào...”
(Xem “L’univers dans la paume de la main” [Vũ trụ trong lòng bàn tay], trang 423–chuyển dẫn từ bản dịch của Huyền Chân, nguyệt san Giác Ngộ số 72, tr.29). 

Chúng ta cũng nên chiêm nghiệm lời tuyên bố sâu sắc và đầy ý nghĩa của ngài Ðạt Lai Lạt Ma XIV: “Trái tim tôi là ngôi chùa của tôi. Tình thương là triết lý của tôi, tôi không cần một triết lý phức tạp nào khác...” (The Tibetan book of living and dying–Cuốn sách Tây Tạng về sự sống và sự chết, tr.95) 

Bấy nhiêu dẫn chứng cũng đủ để chúng ta thấy rõ, đạo Phật coi trọng tình thương bao la, rộng rãi đó như thế nào, tình thương mà sách Phật gọi là lòng từ, lòng bi, một tình thương tuôn ra từ lòng người một cách tự nhiên, tỏa sáng khắp mọi người, mọi vật mà nó đụng chạm đến. Nếu tất cả Phật tử chúng ta, là Tăng hay tục, nam hay nữ, tất cả đều cảm nhận phải sống bằng tình thương như vậy mới là sống hạnh phúc và có ý nghĩa, hàng nghìn, vạn, triệu Phật tử chúng ta đều đối đãi với nhau như vậy và đối đãi với mọi người, mọi vật cũng như vậy thì xã hội chúng ta sẽ tốt đẹp lên bao nhiêu. Bởi lẽ, một khi đã có sẵn tình thương đó ở trong lòng, thì một cách tự nhiên, mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của chúng ta, trên mọi cương vị, mọi hoàn cảnh, cũng sẽ đều thấm nhuần mọi tình thương đó. Thí dụ. bác sĩ chữa bệnh và săn sóc bệnh nhân không phải chỉ với thuốc men và kiến thức y học mà còn với tình thương đó; thầy dạy học trò, cũng dạy với tình thương đó trong khi chuyển giao kiến thức; nhà báo viết báo cũng viết với tình thương đó; tất cả mọi cán bộ, công tác trong mọi cơ quan hành chánh sự nghiệp hay sản xuất cũng công tác với tình thương đó trong khi tiếp cận mọi người dân... 

Hãy ví dụ tình thương đó như một ngọn nến. Hàng nghìn, vạn, triệu người có tình thương đó khác nào như ngàn, vạn, triệu ngọn nến cháy rực, sẽ làm xã hội ta trong sáng, đẩy lùi và dập tắt mọi tội ác và tệ nạn xã hội

Gandhi nói: hai chỗ nương tụa của mọi nền văn minh đích thực và bền vữngchân lýtình thương (satya và ahimsa) (chuyển dẫn từ “The concept of man”, Prefatory remarks–Radhakrisnan, tr.12). 

Nhưng chân lý, dù là chân lý tương đối cũng không dễ nắm bắt. Phải học tập, biết tư duy và thực nghiệm để đạt được một chân lý tương đối. Nhưng tình thương thì tuôn chảy tự nhiên từ lòng người, thí dụ như từ lòng người mẹ cho con bú, và tình thương đáp lại của đứa bé... 

Còn đối với đạo Phật, thì tình thương hay lòng từ, lòng bi là suối nguồn của tâm Bồ đề. Tình thươngcứu tinh của nhân loại hiện nay, trong khi tại các điểm nóng trên thế giới người ta đang đáp lại điều ác bằng những điều ác hơn, đáp lại bạo lực bằng bạo lực kinh khủng hơn! Còn đạo Phật thì nói: 

“Với hận diệt hận thù 
Đời này không có được 
Không hận diệt hận thù 
Là đinh luật ngàn thu” 
(Kệ 5 - Kinh Pháp Cú

Câu thứ ba trong bài Pháp Cú trên có thể đổi lại không sai: Tình thương diệt hận thù

Cũng như lấy điều thiện diệt điều ác, lấy tình thương diệt bạo lực vậy.

Các bạn đọc có thể nói là tôi đang nói trong mơ, Vâng, có lẽ đúng là giấc mơ trong súng đạn và bom nổ tứ tung, nhưng đó là giấc mơ đẹp mà loài người–trước hết là những quốc gia giàu mạnh nhất hiện nay–phải cố gắng ra sức thực hiện cho kỳ được, nếu không thì vòng xoáy bạo lực và thù hận sẽ dẫn hành tinh và Ioài người ở trên đó đến bờ vực thẳm của diệt vong. Tôi biết suy nghĩ này không phù hợp với nhiều người. Thế nhưng, những điều mà nhiều người làm, tự cho là rất thực tế nếu đối chiếu với hiệu quả mà nói, thì những điều gọi là thực tế đó họ làm cũng chỉ là giấc mơ mà thôi. Bởi vì, làm sao mà lấy lửa dập tắt được lửa, lấy hận thù dập tắt được hận thù, lấy bạo lực dập tắt được bạo lực? Ðó là điều không thể. Ðiều không thể mà cứ làm thì phải chăng mình đang mộng mị? 

Khi người mẹ cho con bú, bấy giờ hiện hữu một tình thương giao hòa giữa mẹ và con thật tự nhiên, đậm đà và sâu sắc. Nhiệm vụ của mọi người trong gia đìnhtrân trọng giữ gìn tình thương đó, tình thương mẹ-con mà trong bài kinh Từ Bi, Ðức Phật đem ví với lòng từ của đạo Phật. Lòng từ mà Phật thường mô tả là tỏa sáng, là trạng thái tinh thần đẹp nhất dưới thế gian này. 

Có điều, các bà mẹ có khi không biết là chính tình thương đó, sau này sẽ trở thành suối nguồn của đầu óc cởi mở, trí thông minh, trí tuệ. Cũng như trong sách Phật, nói lòng từ, lòng bi là suối nguồn của tâm Bồ đề tức là tâm giác ngộ. 

Một đặc sắc của tâm hồn người Việt là giàu tình thương. Có thể đây là hệ quả tự nhiên của lịch sử một dân tộc, do vị trí địa lý đặc biệt mà phải trải qua chiến tranh liên miênthiên tai dồn dập. Và trong niềm đau khổ chung, con người rất thương nhau. Bản thân tôi cảm nhận điều này trong những năm tháng chiến tranh, cũng như trong những tháng vừa qua, miền Trung và Tây Nam Bộ bị lụt lội trầm trọng kéo dài. Từ mọi miền của đất nước, từng đoàn xe tới tấp chở vật phẩm cứu trợ đến các tỉnh bị lụt. Cảnh các em học sinh vùa khóc vùa gói sách vở làm quà tặng gửi các bạn ở những nơi chỉ là đồng nước mênh mông, không còn trường để đến học và cũng không còn sách vở để viết! 

Từ tất cả những cảnh tượng đó toát ra một tình thương mênh mang, sâu lắng. Và tôi nghĩ: Với tình thương đó, tương lai dân tộc Việt sẽ được đảm bảo. Vì tình thương dẫn tới đoàn kết và thành công trong mọi sự nghiệp của dân tộc Việt. 

2. Thái độ của người học Phật 

Học Phật cũng như học bất cứ môn học nào khác, phải tìm thấy cho được niềm vui ở trong đó, thì nhất định học Phật sẽ có kết quả. Tôi thấy có thể nói khiêm tốn: Học Phật trước hết là để cho mỗi người học Phật đều trở thành một người tốt, một người thiện, lương tâm không bao giờ bị bức xúc, vì có điều suy nghĩ, lời nóiviệc làm có hại cho người và xã hội, học Phật trước hết là học làm một người có ích cho đời và đạo. 

Mỗi người như vậy sẽ có đời sống an vui, vì họ chỉ nghĩ, nói và làm những chuyện phúc đức, lợi tha. Nhờ học Phật mà có được một đời sống an vui. Cho nên học Phật chính là niềm vui, một niềm vui lớn. Có lẽ vì vậy cho nên ông Khổng Tử nói “Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả” (Luận ngữ, chương “ủng giả”–đệ lục). Nghĩa là: Biết mà học đạo không bằng học đạo mà thấy được niềm vui ở trong đó. Và người thầy dạy giỏi không phải là ông thầy trao truyền cho học trò thật nhiều kiến thức, mà là người thầy biết tạo ở nơi học sinh niềm vui thật sự trong khi học. Muốn có niềm vui khi học tập, thì học tập phải có sáng tạo. Nhưng nếu chỉ tiếp thu một cách thụ động thì không thể có sáng tạo

Muốn học Phật có sáng tạo và có được niềm vui lớn, thì không được một chiều đọc sách Phật, và thuộc lòng những điều ghi trong sách Phật, tuy rằng việc ghi nhớ tốt sách Phật cũng là điều đáng khen ngợi rồi. Việc đọc và học sách Phật chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết kiểm nghiệm những điều ghi trong sách với cuộc sống, với diễn biến ở ngoài đời và ở trong thân tâm chúng ta. Ðời sống là quyển sách, luôn trải rộng trước mắt. Thân tâm chúng ta, luôn phản ứng trước những diễn biến của đời sống bên ngoài cũng là một cuốn sách khác rất gần gũi đối với mỗi chúng ta. Muốn học Phật có kết quả, chúng ta phải thường xuyên đọc và nghiền ngẫm sách Phật (Kinh, Luật, Luận), “sách cuộc đời” và “sách thân tâm” của chúng ta. Thí dụ đọc kinh Pháp Cú, trong phẩm Tâm, chúng ta biết vấn đề uốn nắn tâm, điều phục tâm, phòng hộ tâm, an trú tâm là quan trọng đến dường nào, bởi lẽ đến hai bài kệ 42 và 43 của phẩm Tâm, kinh Pháp Cú cảnh báo rằng, tâm nghĩ bậy còn làm hại chúng ta hơn kẻ thù hại ta: tâm nghĩ tốt, nghĩ thiện sẽ làm tốt cho ta hơn cả cha mẹ muốn làm điều tốt cho ta. 

“Kẻ thù hại kẻ thù 
Oan gia hại oan gia 
Không bằng tâm hướng tà 
Gây ác cho tự thân” 
(Kệ 42) 

“Điều mẹ cha, bà con 
Không có thể làm được 
Tâm hướng chánh làm được 
Làm được tốt đẹp hơn” 
(Kệ 43) 

Ðọc kinh Pháp Cú như vậy, chúng ta đã hiểu tâm nghĩ bất thiện, nghĩ bậy, nghĩ tà tác hại đến chúng ta như thế nào, chúng ta hãy kiểm nghiệm xem, chúng ta có thể hay không, suốt ngày, luôn luôn, bất cứ ở đâu, hay làm gì điều tuyệt đối không bao giờ nghĩ bất thiện, nghĩ điều làm hại người, hại vật. Trái lại, thường xuyên nghĩ thiện, nghĩ điều tốt lành đối với mọi người, mọi vật

Chúng ta biết, trong các thuyết về đạo đức học ở phương Tây có thuyết của Socrates cho rằng, chỉ cần giảng giải cho người biết rõ như thế nào là thiện, là ác thì con người nhất định sẽ làm điều thiện, tránh điều ác. Có thể nói, yêu cầu này của thuyết đạo đức học của Socrates, đạo Phật đã đáp ứng một cách đầy đủ vớí thuyết 5 giới, 10 thiện: không làm 3 điều ác về thân là giết hại, ăn trộmtà dâm; không làm 4 điều ác về lời nói là nói ác. nói dối, nói chia rẽ, nói lời vô nghĩa; không dung dưỡng 3 điều ác về ý là tham lam, sân hậnsi mê

Có thể nói thuyết đạo đức của phật giáo đã phân biệt rạch ròi điều thiện với điều ác. Kinh Pháp Cú còn khuyên chúng ta tránh điều ác, siêng làm điều thiện ngay từ trong tâm của mình, ngay trong suy nghĩ. Vậy thì điều mà chúng ta kiểm nghiệm đối với thân tâm mình, là có thể hay không, sau khi được giảng về thuyết đạo đức của đạo Phật, thân tâm chúng ta luôn luôn nghĩ thiện, nói thiện, làm thiện, luôn tránh nghĩ bất thiện, nói và làm điều bất thiện. Có thể hay không thể? Và nếu không thể thì vì sao?. 

Ðó là điều tất cả chúng ta phải kiểm nghiệm khi học Phật. Hãy xem trước một việc bất thiện, không nên làm, thân tâm chúng ta sẽ phản ứng ra sao. Và trước một việc thiện nên làm phản ứng như thế nào. Phải chăng chúng ta sẽ không ngần ngại, không do dự làm việc thiện và tránh việc bất thiện

Tôi biết rằng việc này không dễ. Trong Thiên Chúa có thuyết đạo đức cho rằng, do con người phạm nguyên tội từ thời Adam, cho nên trong nhiều trường hợp, chân tay không làm theo cái đầu, mà còn làm trái lại. “Mọi người đều mâu thuẫn với bản thân vả cuối cùng với Thượng đế, bởi lẽ có một quy luật của tay chân chống lại quy luật của tâm thức của nó” (Xem “Christ vs Socrates” – Reinhold Niebuhr, chuyển dẫn từ cuốn “Towards liberal education”, tr.773). Thuyết này của Thiên Chúa giáo được minh họa bằng câu tâm sự của Pauline: “Điều thiện mà tôi muốn làm thì tôi không làm. Điều ác mà tôi không muốn làm, thì tôi cứ làm”. Chúng ta cũng có thể nhắc lại câu thời danh của Bertrand Russell xác định xu thế căn bản của con người là lòng tham “quyền lực và danh vọng”. 

Tôi kể ra hết như vậy, để người học Phật được học thuyết đạo đức rạch ròi thiện ác, chúng ta nỗ lực nghĩ điều thiện, nói và làm điều thỉện. Tránh nói, làm điều ác, điều bất thiện. Còn về thuyết của Thiên Chúa giáo, nói tay chân không vâng lời cái đầu, và về tâm sự bất lực của Pauline, thì người học Phật suy nghĩ thế nào? 

Tôi nghĩ là đạo Phật đã có câu trả lời: Kinh Lăng Nghiêm nói tới tập khí nan trừ, tức thói quen lâu ngày khó bỏ. Sách Phật cũng khuyến cáo Phật tử phải sống như ngưòi chiến sĩ, và có một nỗ lực đạo đức không ngừng. Nỗ lực đạo đức của người Phật tửhai mặt: một mặt là tự mình phấn đấu để trở thành người hoàn thiện, một mặt nữa là hết lòng giúp đỡ chúng sinh, giúp đỡ người khác. Hai mặt đó bổ sung và hỗ trợ nhau. Cũng như muốn tránh ác, thì làm thiện. Muốn làm thiện thì tránh ác. Làm thiện tránh ác thì tâm ý mình sẽ trong sáng, tâm ý trong sáng giúp cho việc làm thiện, tránh ác được dễ dàng. Cũng như hai chuyện hướng ngoại và hướng nội của đạo Phật là bổ sung và hỗ trợ cho nhau chứ không mâu thuẫn nhau. Nhiều người lầm, khi nghe nói đạo Phật hướng nội bèn vội cho đạo Phậtích kỷ, là bàng quán với đời. Họ không hiểu rằng, muốn giúp đỡ người khác có hiệu quả thì nội tâm người giúp phải trong sáng, thiện lành. Ðó là những điều chỉ cần qua kiểm nghiệm ở đời là thấy liền không phải bàn cãi. Giúp người có năm bảy cách. Có thể giúp người mà làm hại người. Thí dụ có những đạo sư tà giáo tổ chức cho hàng loạt đệ tử mình tự tử tậr thể! Chuyện này đã từng xảy ra với giáo phái gọi là “Cổng Thiêr đường” ở Thụy Sĩ và ở Mỹ. 

Chính vì vậyđạo Phật khuyến cáo nỗ lực giúp đỡ chúng sinh phải đi đôi với nỗ lực hoàn thiện bản thân

Ðể giúp loại bỏ niệm ác (tức là tư tưởng ác), Phật nói là người có niệm ác không khác gì nuôi kẻ thù trong nhà, nó làm hại mình còn hơn kẻ thù làm hại mình. Trái lại người có niệm thiện, niệm lành thì niệm thiện, niệm lành đó còn giúp đỡ mình hơn cha mẹ , bà con giúp đỡ mình nữa (Xem kinh Pháp Cú, kệ 42, 43).

Ðối với người bị niệm ác ám ảnh, dày vò, sách Phật khuyên chúng ta dùng 5 biện pháp

a) Dùng niệm thiện, đánh bật niệm ác, cũng như người thợ mộc thiện xảo dùng một niêm gỗ này đánh bật một niêm gỗ khác. 

b) Xem niệm ác là một cái gì ghê tởm, như xác chó hay xác rắn, sao lại đem quàng vào cổ, mà trái lại phải vứt xa đi. 

c) Ðối với niệm ác, cũng như đối với một vật xấu, chúng ta đừng nhìn nó nữa, mà nhìn sang nơi khác

d) Hãm chậm dòng ý niệm lại, cũng như người đang chạy, chuyển sang đi bước một, đang đi thời đứng lại, rồi ngồi lại. 

e) Cũng như người lực sĩ, mím chặt môi, dùng cả sức mình vứt niệm ác ra xa. 

Năm biện pháp trên, có trong kinh An Trú Tầm, thuộc kinh Trung Bộ, tôi chỉ thuật lại ý đại khái, không dẫn nguyên văn. Nhưng qua lời thuật đại khái, chúng ta cũng đủ thấy Ðức Phật cũng không nói sống đạo đức là chuyện dễ dàng, không những phải cố gắng thường xuyên mà còn phải khéo léo, thiện xảo nữa. 

Riêng về biện pháp thứ tư, tôi xin giải thích thêm một ít. Ðây là biện pháp chủ động làm giảm tốc độ của dòng chảy tâm thức, của dòng ý niệm. Thí dụ có người nghĩ tới thuốc lá, vội đi tìm ngay bao thuốc, rút thuốc ra châm hút... Con người hành động như cái máy. Ở đây người học Phật nghiện thuốc, cũng sẽ không làm thế. Vừa nghĩ tới thuốc lá, anh ta sẽ không đứng dậy đi lấy bao thuốc, mà ngồi lại nghĩ tới ung thư phổi, bệnh lao, nghĩ tới chuyện tốn tiền, vợ con la rầy... Nói tóm lại , tức là hãm chuyện hút thuốc lá lại, rồi chuyển dòng ý nghĩ mình sang các chuyện như ung thư phổi, bệnh lao phổi... Nhưng muốr làm được việc đó, thì đừng có chạy theo dòng ý niệm hút thuốc lá như một cái máy, như một người không biết suy nghĩ. Lợi ích của việc hãm chậm dòng chảy ý mệm là như vậy. 

Niệm ác, niệm bất chính có nhiều lắm, và còn phức tạp hơn nhiều niệm hút thuốc lá. Nhà phân tâm học Freud nói đến sụ ám ảnh tình dục. B.Russell nói đến tham vọng “quyền lực và danh vọng”, sách báo phương Tây nói nhiều đến lòng ham muốn hưởng thụ vật chất, ý muốn tham nhũng của một số người muốn “hy sinh đời bố, củng cố đời con”... Ðối với tất cả những ý mệm ác, bất thiện có khả năng xảy ra như trên, chúng ta sẽ gắng áp dụng một trong năm biện pháp Ðức Phật dạy trong kinh An Trú Tầm

Là người học Phật, thường xuyên được đọc sách Phật, chứa đựng những tư tưởng đẹp, thiện, lành. Những tư tưởng đó, tiếp thu vào người, tạo ra một chuyển biến nội tâm hướng thiện và hướng thượng. Chúng ta thường xuyên gần gũi những người học Phật khác, sống theo năm giới, mười thiện đều là những gương sáng thúc đẩy chúng ta tránh ác, làm thiện. Nhiều người đều sống như vậy, thì chúng ta sẽ tạo ra cả một cộng nghiệp thiện lành. thành cả một áp lực thúc đẩy xã hội hướng thiện và hướng thượng

Tất nhiên, không tránh khỏi có ngoại lệ. Nhưng người viết bài này nhân dịp lễ Phật Ðản năm nay, rất tin ở sức mạnh bất khả kháng của điều thiện, điều lành, tin ở sức mạnh của lòng thương, lòng từ, một sức mạnh tỏa sáng một cách tự nhiên từ tấm lòng của mọi người Việt Nam trải qua nhiều đau khổ, bất hạnh, nhưng suối nguồn tình thương đó không bao giờ cạn, vẫn dồi dào thêm, sẽ làm dập tắt mọi hận thùbất hạnh, đẩy lùi mọi tệ nạn xã hội, khai mở những trang sử mới đẹp đẽ nhất cho thiên niên kỷ mới này.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11718)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11229)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11949)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10275)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29267)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11965)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11963)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10965)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19641)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7357)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11386)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12875)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17373)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11492)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22131)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11854)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15947)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12131)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14120)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12628)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13231)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13681)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20027)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14430)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13566)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12367)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11909)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34766)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13426)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13741)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32003)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13224)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13079)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13438)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18059)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14942)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15750)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14889)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15868)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20816)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21338)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35183)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43972)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37931)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15153)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15082)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13008)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12671)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15633)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27763)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14992)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11429)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53221)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16551)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13192)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20716)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12641)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15619)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15527)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14808)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15629)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13063)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11786)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12320)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12597)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13504)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12493)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25005)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11997)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12778)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11628)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13770)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14128)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12935)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12762)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13029)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13942)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13017)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13637)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12477)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14462)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13319)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13798)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14649)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11891)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12736)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28312)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11818)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12665)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15081)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12025)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11790)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12895)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12004)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11535)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10309)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant