Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dòng lệ A-tư-đà

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 13514)
Dòng lệ A-tư-đà


Vào một buổi sáng kia, kinh thành Ca Tỳ La Vệ bỗng trở nên nhộn nhịp, tươi vui và khác lạ hơn mọi ngày. Bầu trời hôm ấy thật quang đãng và trong mát, cây cối tươi thắm lạ thường, muôn hoa ngời sắc dưới nắng hồng và tỏa ra những làn hương thoang thoảng dịu ngát, từng đàn chim ríu rít vui hót trên những hàng cây xanh và xa xa vọng lại những âm thanh trầm lắng của từng lời kinh, từng hồi chuông vang vọng từ các ngôi đền nguy nga, cổ kính.

Tin vui về Hoàng hậu Ma Da vừa sinh hạ được một hoàng nam đã nhanh chóng vang đi khắp chốn trong vương quốc của bộ tộc Thích Ca, lan truyền đến các quốc gia lân cận, đến cảnh giới của chư thiên xa xôi, đến những bậc hiền sĩ đang ẩn tu trên những đỉnh núi cao quanh năm phủ đầy tuyết trắng của dãy Hy Mã Lạp Sơn, trong đó có Đạo sĩ A Tư Đà. A Tư Đà vốn là con trai của một Bà La Môn xứ Ujjenì thơ mộng và trù phú. Với tư chất thông tuệ, uyên bác, ông đã sớm trở thành một người đức độ, thông thái và được dân chúng xứ ấy tôn xưng là hiền giả khả kính. Khi danh tiếng vang xa khắp nơi, A Tư Đà được Sìhahanu, thân phụ của vua Tịnh Phạn, mời về cung để truyền dạy đạo lý siêu thế cho mình. Được phép Vua Sìhahanu, A Tư Đà bèn cất một am tranh tại một khu vườn trong kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tu trì và cũng để vua có dịp được học hỏi thêm những khi rảnh rang việc triều chính. Tại am thất đơn sơ này, với những nỗ lực cao độ của mình, chẳng bao lâu, A Tư Đà đã thành tựu tám cấp độ thiền địnhchứng đắc ngũ thông. Vì quá khao khát với lý tưởng giải thoát, muốn vượt qua những sở chứng hiện có, ông liền từ giã chốn đô thị huyên náo, lên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn và dành trọn quãng đời còn lại của mình trong cảnh u tịch vắng vẻ của chốn thâm sơn hoang dã.

Kinh Lalitavistara (Thần Thông Du Hí) kể lại rằng vào một ngày kia, với thiên nhĩ thông của mình, A Tư Đà bỗng nghe chư thiên trên cung trời Tam Thập Tam hân hoan ca múa và truyền nhau tin vui rằng: “Một hoàng nhi vừa chào đời tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hoàng nhi ấy sau này sẽ trở thành một đấng Toàn giác, một bậc Đạo sư của chư thiên và loài người”. “Ta có nghe lầm chăng?” A Tư Đà tự hỏi, và rồi ông dùng Thiên nhãn quan sát và biết được rằng Hoàng hậu Ma Da đã hạ sanh được một hoàng nhi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hài nhi đã được đưa về thành Ca Tỳ La Vệ. Thân của hài nhi này có đầy đủ đức tướng hy hữutỏa ra những vầng hào quang kỳ diệu vô ngần. Liền khi ấy, A Tư Đà liền dẫn người thị giả và cũng là cháu của mình là Naradatta về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tận mắt chiêm ngưỡng đức tướng của một thánh nhân vừa giáng trần.

Khi đến trước cổng hoàng cung, A Tư Đà thấy hàng ngàn người đang tụ hội tại đây, họ từ khắp nơi đổ về mang theo những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, những cổ trầm hương quí nhất, ngạt ngào nhất cùng vô số lụa là, vật báu để dâng lên đức vua, mừng cho dòng tộc Thích Ca vừa sanh được một hoàng nhi cao quí, người sẽ tiếp nối sự nghiệp của hoàng triều và sẽ làm rạng rỡ đất nước này. A Tư Đà đến bên người lính gác cổng và nhờ anh ta vào báo với hoàng gia.

Được tin có một Đạo sĩ từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn đến thăm, vua Tịnh Phạn vô cùng mừng rỡ và liền cho mời A Tư Đà vào đại sảnh. Sau khi thi lễ chào hỏi xong, nhà vua bèn cất tiếng:

- Thưa Đạo sĩ, trước đây Quả nhân chưa từng gặp Ngài, vậy thìmục đích gì mà hôm nay Ngài quan lâm đến đây?.”

- Muôn tâu Hoàng thượng, Ngài vừa có được một người nối dõi cao quý và xứng đáng, lão đến đây để mong được tận mắt xem hoàng nhi ấy.

Khi nhìn thấy hài nhi có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân ánh lên những vầng hào quang siêu việt hơn cả phước tướng của Đế Thích, Phạm Thiên và tất cả các thiện thần hộ thế khác, A Tư Đà liền thốt lên rằng:

- Kỳ diệu thay! Bậc thánh nhân này là phước lành cho cõi thế.

Liền khi ấy, A Tư Đà liền rời khỏi chỗ ngồi, chắp tay đảnh lễ và cúi đầu đặt trán hôn lên đôi chân bé nhỏ của hài nhi, rồi lại đi nhiễu bên phải hài nhi một vòng. Ngắm nhìn kỹ diện mạo và kim tướng của hài nhi, A Tư Đà lặng người lại, những giọt nước mắt chợt lăn xuống đôi gò má già nua, nhăn nheo đầy phong sương của Đạo sĩ. A Tư Đà đã khóc, niềm bi cảm dâng trào trong tâm hồn thanh khiết của một bậc Hiền nhân.

Nhìn những giọt nước mắt cùng cử chỉ ảo não, đau xót của A Tư Đà, vua Tịnh Phạn vô cùng ngạc nhiênlo âu. Người bước đến bên cạnh Đạo sĩcung kính thưa rằng:

- Thưa Đạo sĩ, sao Ngài lại đau xót và than khóc như vậy? Có điềm gì bất hạnh sẽ xảy đến với hài nhi này chăng?

- Tâu Hoàng thượng, lão khóc là không phải khóc cho hài nhi này, sẽ không có điều gì bất hạnh xảy ra đối với một con người thánh thiện như thế cả. Lão khóc là khóc cho chính mình. Vì sao vậy? Tâu Hoàng thượng, lão đã già nua, yếu ớt, thân thể cằn cỗi như một cỗ xe rệu rã, còn hài nhi này chắc chắn sẽ trở thành một bậc Toàn giác tối thượng, Ngài sẽ chuyển bánh xe chánh pháp mà từ xưa nay chưa có một Đạo sĩ, Sa môn, Bà la môn, Thiên thần, Ma vương… trên thế gian này chuyển được như vậy. Vì lợi íchhạnh phúc cho nhân gian, Người sẽ tuyên thuyết chánh pháp sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, với nghĩa lývăn tự đầy đủ. Tâu Đại vương, hoa Ưu Đàm ngàn năm mới nở một lần, cũng thế trải qua vô lượng kiếp chư Phật mới thị hiện trên thế gian này. Hoàng nhi này chắc chắn sẽ chứng ngộ trí tuệ vô thượng, sẽ dẫn dắt vô số chúng sinh vượt thoát đại dương luân hồi để đến cảnh giới giải thoát, bất tử. Nhưng lão sẽ không gặp được một đức Phật cao quý như thế. Đại vương ơi, lão khóc là khóc cho mình bạc phước kém duyên, thọ mạng không còn bao lâu nữa để được nghe đấng Giác Ngộ tuyên giảng chánh pháp, để được đảnh lễcúng dường bậc Đạo sư của chư thiên và loài người…”

Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu. Những tri thức cao siêu, thâm sâu và đầy vẻ u huyền trong những bộ thánh kinh Vệ Đà ông đã thông suốt, những kinh nghiệm tu trì siêu tuyệt đương thời ông đã trải qua, những sở chứng cao tột nhất ông đã đạt được, nhưng vấn nạn về lẽ tử sinh cứ mãi bám víu, đeo đẳng tâm hồn của bậc Đạo sĩ.

A Tư Đà không phải như những phàm nhân tầm thường chỉ biết quanh quẩn trong kiếp người với những giả tạm, phù phiếm của trần thế. Ông là một người có chí khí, có tri thức uyên bác và khát vọng cao thượng, và vì thế ông đã từ bỏ tất cả những vướng bận của trần duyên, đã đi khắp nơi học hỏi đạo lý và đã đạt được những kinh nghiệm tâm linh cao cả nhất mà đương thời ít có ai bì kịp. Với thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, tha tâm thông… ông có thể lắng nghe, nhìn thấy và thấu cảm được những việc xa xăm trong vũ trụ, những cảnh thăng trầm của cuộc thế huyễn mê, những tâm tư của bao trái tim khác, nhưng oái oăm thay, ông lại không trực nhận, không lắng nghe và cũng chẳng tỏ ngộ được tự tánh thanh tịnh của chính mình. Những triền phược của vô minh vi tế không để cho ông được tự tại, thong dong trong cảnh giới giải thoát viên mãn. A Tư Đà đã khóc và cảm thấy tự thẹn cho chính mình không đủ phước duyên để được nghe diệu pháp của đức Phật, không được qui ngưỡnghành trì theo pháp môn của Ngài.

Có lẽ A Tư Đà không chỉ khóc cho chính mình mà còn khóc cho những ai vẫn đang chơ vơ, lạc lõng, mờ mịt, không tìm được hướng đi xán lạn trong cuộc đời thật ngắn ngủi này. Trong cuộc sống, có biết bao người đã đến và đi trong lo âu, phiền muộn, mang theo mình nỗi buồn của lẽ tử sinh. Những con người ấy cũng chẳng khác chi những hạt bụi đang lãng du, phiêu bồng trên những sa mạc khô cằn, hun hút. Chúng đến và đi, sanh khởihoại diệt trong cô đơn, quạnh quẽ. Từ thuở hồng hoang của nhân loại cho đến tận hôm nay và có lẽ đến tận mai sau nữa, khát vọng tìm về với chân lý, với ý nghĩa đích thực của cuộc sống vẫn là một động lực mãnh liệt, thôi thúc bao lớp người từ mọi phương trời khác nhau dấn thân vào những cuộc hành trình tâm linh xa xôi và kỳ vĩ, và rồi những ai chưa đủ duyên lành để gặp gỡ và an trú vào chánh đạo sẽ là những người bất hạnh nhất trên cuộc đời này. Nghèo đói, mồ côi, bệnh tật v.v…được xem là những nỗi bất hạnh trong đời người, song người ta có thể khắc phục những chướng duyên ấy bằng cách này hay cách khác. Sống mà không gặp được các bậc Chân sư soi sáng và dẫn lối cho đời mình, để nhận diệntrở về an trú trong con người thật của chính mình thì đó mới là nỗi bất hạnh lớn lao và đáng sợ nhất.

Chánh pháp của đức Thế Tônvô giádiệu dụng của nó thật bất khả tư nghì. Kinh tạng Nguyên ThủyĐại Thừa có kể rằng trong nhiều kiếp quá khứ, khi còn là một hành giả đang tầm đạo, đức Phật đã hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả tánh mạng của mình để mong học được giáo pháp chân chính. Những ai đón nhận và thọ trì chánh pháp với tâm niệm nhiệt thành thì mới thể nghiệm được sự vi diệu của nó. Thiện Tài Đồng Tử, nhị tổ Huệ Khả, pháp sư Huyền Trang, thiền sư Lâm Tế… là những tấm gương tỏa sáng về tinh thần tha thiết, khát ngưỡng, cầu học chánh pháp trong đạo Phật.

Càng về sau, những tấm gương cầu pháp như thế thật hiếm hoi. Cuộc sống trong xã hội văn minh đã cuốn hút con người vào quĩ đạo của guồng máy vật chất và hưởng thụ. Con người phần nhiều chỉ biết an phận với những niềm vui thế tục mà mình đang hiện có. Có một lần, Lạt ma Dorje Khensen đưa sư phụ mình là Dudjom Rinpoche ngang qua một nghĩa trang. Nhìn những ngôi mộ thẳng tắp chạy dọc trên những thảm cỏ xanh cùng những luống hoa đủ màu đang khoe sắc, ông khen rằng:

- Thầy ơi, người Tây phương quả thật văn minh. Ngay cả nơi dành cho xác chết cũng đẹp đẽ, sạch sẽ.

Hòa thượng Dudjom mỉm cườitrả lời:

- Đúng, họ văn minh, con cũng thấy rằng nơi dành cho “xác sống” còn đẹp và sạch hơn thế nữa kia.

Phần lớn con người sống mà mơ hồ, không ý thức được sự sống. Họ cũng chẳng khác gì với những xác chết biết đi. Người ta sống theo một khuôn mẫu đã vạch sẵn: nhỏ thì học hành, trưởng thành thì lo kiếm việc làm, sau đó thì lập gia đình, sinh con, đẻ cái, lo mua nhà cửa, xe cộ, đến tuổi trung niên thì lo danh vọng, địa vị, tài sản…Hình như họ chỉ biết lo chứ không biết sống. Vì cứ mải miết lo như vậy nên những nội kết cứ tích chứa ngày càng nhiều trong tâm thức, đến một lúc nào đó một biến cố bất ngờ xảy ra, dù là nhỏ nhoi, cũng làm cho họ chao đảo và rơi vào những bi kịch thương tâm. Vì thế khi sống mà không tiếp xúc được với ý nghĩa thực sự của cuộc sống thì con người đâu có khác chi những “xác sống” trong dòng đời.

Khác với A Tư Đà ngày xưa, người đời sau này cũng đã khóc, khóc vì thời cuộc nhiễu nhương, vì chiến tranh thiên tai, vì lòng người tao loạn, vì vô thường nguy biến… những cái khóc như thế thường mang tính cảm quan của tâm thức phàm tục. Một hôm vua Linh Công cùng với Di Tử Hà và các quan đại thần trong triều cùng lên núi cao để du sơn ngoạn cảnh. Nhìn thấy muôn người sống trong cảnh phồn vinh, giang sơn gấm hoa một dãi mênh mông, vua không cầm lòng được và chợt khóc òa lên: “Ôi đất nước ta đẹp quá, giang sơn cẩm tú đẹp quá, nhưng các khanh ơi, trẫm đã già nua, sẽ chẳng còn sống bao lâu nữa để tận hưởng mọi thú vui của cuộc đời này”. Lúc ấy, các quan thấy thế cũng hùa theo mà khóc, riêng Di Tử Hà thì cười ngặt nghẽo, cười như chưa bao giờ được cười. Di Tử Hà đã cười cho tham vọng hão huyền của nhà vua cứ muốn sống mãi và làm vua mãi để hưởng thụ những cái vui thoáng chốc của cuộc đời, lại cười cho hàng quan lại không phân định được đúng sai, phải trái của thế sự mà chỉ biết làm theo một cách mù quáng để lấy lòng nhà vua mà thôi.

Thuở xưa, có đôi lúc các bậc Hiền nhân cũng đã khóc, nhưng sự rung động của những trái tim kỳ vĩ, cao cả đó không phải là sự bi lụy trước những vô thường, thịnh suy của cuộc sống mà thay vào đó là niềm thao thức, là tâm niệm vị tha, hướng thượng của đời mình. Doãn Am Thiền Sư là một bậc cao tăng đức độ, giới luật nghiêm trì. Mỗi khi chiều xuống, Ngài đứng nhìn mặt trời đang khuất dần nơi chân trời xa thẳm mà rơi lệ, lòng tự thẹn rằng một ngày đã qua mà mình chưa tiến bộ được bao nhiêu trên trong con đường giải thoát. Sau đó Liên Trì Đại Sư mỗi khi nhìn mặt trời lên, Ngài thường nhắc lại lời than thở của Doãn Am Thiền Sư và tự khuyến tấn mình rằng: “Kim hựu hoán nhật. Tạc nhật dĩ thành không quá, vị tri kim nhật công phu như hà?” (Hôm nay lại sang một ngày mới. Hôm qua công phu đã chưa được gì, không biết hôm nay ta có đạt được công phu gì chăng?). Ngài Liên Trì vốn là một hành giả Tịnh Độ nổi tiếng, một bậc chân tu tinh nghiêm, nhưng vẫn luôn dè dặt, cẩn trọng và luôn tự khuyến tấn mình. Quả thật, đó là một tấm gương sáng để những hành giả thời nay phải suy tư.

Theo Kinh Phật Bản Hạnh, khi Bồ-tát giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, thân Ngài tỏa ra những vầng hào quang trong suốt, trái đất chấn động, chư thiên trên sáu tầng trời cõi dục ca hát và loan truyền nhau tin vui này. Lúc ấy, A Tư Đà từ cung trời Tam Thập Tam trở về nơi ẩn tu và dẫn một môn đồ của mình vào thành Ca Tỳ La Vệ. Khi sắp đến thành, A Tư Đà nghĩ rằng không nên thi triển thần thông mà hãy đi bộ vào thành. Hôm ấy mọi người trên phố nhìn Đạo sĩ với vẻ hiếu kỳ, có kẻ đứng trước cửa, có người từ cửa sổ, người khác thì dựa vào bao lơn… chăm chú theo từng bước đi của ông. Họ nhìn ông và thì thào với nhau:

- Trước đây, khi vào thành, vị Đạo sĩ này nương thần thông mà đến thẳng hoàng cung, nhưng sao hôm nay ông lại bước chầm chậm như vậy?

Khi xem tướng thái tử, Đạo sĩ luôn tỏ vẻ cung kính và ngưỡng mộ trước đức tướng của một Thánh nhân. Bao nhiêu vật báu mà vua Tịnh Phạn dâng tặng, Đạo sĩ đều đem dâng cúng cho thái tử. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trên người của thái tử đã nói lên một sự thậtthái tử sau này hoặc trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc trở thành một đấng Giác Ngộ. A Tư Đà tỏ vẻ cung kính, bi cảm rơi lệ, thương cho thân phận mình vì ông biết rằng hoàng nhi này sẽ không là một Chuyển Luân Thánh Vương thông thường mà nhất định sẽ trở thành một đức Phật.

Chuyển Luân Thánh Vương là danh từ chỉ cho một vị đại vương tài đức, dùng chánh pháp cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vị vua này có đủ bốn đức: sống lâu, không bệnh tật, dung mạo đẹp đẽ và kho báu dồi dào. Tuy nhiên, những phước đức hữu lậu đó không thể sánh với những phẩm tính siêu việt của một đức Phật. Có lần Bà La Môn Sela được chiêm ngưỡng đức tướng của đức Phật, ông bèn thốt lên rằng:

- Thưa đức Cồ Đàm, Ngài có đầy đủ phước tướng của một Chuyển Luân Thánh Vương, người sẽ cai trị cả bốn châu thiên hạ.

Đức Phật liền đáp:

- Đúng thế Sela, ta là quốc vương, nhưng vương quốc của ta là chánh pháp, nơi đó không có tước vị. Ta cũng chuyển pháp luân, nhưng pháp luân ấy không hề thoái chuyển.

Bản sớ giải của kinh Tương Ưnggiải thích rằng nếu Chuyển Luân Thánh Vươngbảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, tướng quân báu, châu báu, nữ báu và gia chủ báu thì đức Phật cũng có bảy món báu tương ưng (Thất Giác Chi) khác: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả. Còn bản chú giải của kinh Tăng Chi thì so sánh năm phẩm chất giữa Chuyển Luân Thánh Vương với đức Phật như sau: nếu Chuyển Luân Thánh Vương biết thiện; biết pháp (truyền thống và phong tục truyền thừa); biết thời (lúc nào nên đăng triều, lúc dạo chơi, lúc xem xét thiên hạ); biết chúng (phân định hàng quí tộc, Bà La Môn…); và biết lượng (thưởng phạt công tâm), thì đức Phật cũng biết năm đặc tánh của thiện; biết pháp Tứ Đế; biết lúc nào nên giảng pháp; biết đâu là quí tộc, Bà La Môn, Tỳ Kheo…; và biết thọ nhận tri túc tứ sự cúng dường. Trưởng lão Vagisa từng tán thán rằng đức Phật cũng như một vị Chuyển Luân Thánh Vương (có ngàn người con và cận thần bao quanh) có ngàn vị Tỳ Kheo kề cận hộ trì. Trong Kinh Trung Bộ, Tôn giả Vô Não đã ca tụng rằng đức Phật đã hóa độ hàng đệ tử mình với tâm lượng từ dung, không thúc ép và bức bách một ai cũng như Chuyển Luân Thánh Vương luôn cai trị muôn dân mà không dùng đến binh đao, gậy gộc. Các bản kinh Pali thường khắc họa và nhấn mạnh đến tính thế tục trong hình ảnh của Chuyển Luân Thánh Vương khác biệt với hình ảnh siêu thoát của một đức Phật, bậc Đạo Sư của thế giới tâm linh.

Mọi hình thái, thể chế xã hội được thiết lập theo những khuôn mẫu trong phạm vi tương đối của mỗi quốc giachủng tộc. Theo đà tiến hóa chung, các cơ cấu ấy sẽ được thay đổi theo điều kiện và nhu cầu của thực tế. Có lẽ đỉnh cao của mọi hình thái đó là một thế giới hưng vượng mà mẫu người lãnh đạo đó là Chuyển Luân Thánh Vương. Nhưng rồi thế giới ấy có lúc cũng phải biến đổi và có những vị Chuyển Luân Thánh Vương vì thấu rõ tính vô thường nên xả bỏ tất cả để sống một cuộc đời phạm hạnh viễn ly (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống).

Không như Chuyển Luân Thánh Vương ngồi trên ngai vàng để cai trị thiên hạ, đức Phật với tấm y hoại sắcbình bát đơn sơ đã du hóa khắp nơi để trang trải ánh sáng của tình thươngtuệ giác. Ngài đã vượt qua những con đường dài hun hút đầy sỏi đá chông chênh, an nhiên, điềm tĩnh với cái nóng hừng hực của mùa hạ, cái lạnh thấu xương của mùa đông, bình thản trước mọi thị phi, hiềm thù của nhân thế. Nơi Ngài ngồi giảng pháp và nghỉ ngơi là những phiến đá xanh, những bãi cỏ hiền hòa thơ mộng nằm cạnh những dòng nước tươi mát, thơm trong, bên dưới những tàn cây rậm rợp và hùng vĩ. Mỗi hành vi, cử chỉlời nói của Ngài là những bài học thâm thúy cho bất cứ ai trên cõi đời này. Đạo sĩ A Tư Đà đã suy nghiệm được bài học ấy, đã cảm nhận được Sư giao thoa mầu nhiệm, thiêng liêng của đức Phật ngay từ khi Ngài còn là một hài nhi sống trong nhung lụa vàng son. A Tư Đà buồn tủi vì biết mình sẽ không sống được bao lâu nữa để trở thành một thành viên trong gia đình tâm linh thanh tịnh, một thần dân trong vương quốc chánh pháp của đức Phật. Vương quốc tâm linh đó được khơi nguồn từ tâm hồn sâu lắng của đức Thế Tôn tại Bồ Đề Đạo Tràng, lan tỏa đến năm nhà khổ hạnh tại Lộc Uyển, thấm nhuần đến một nghìn hai trăm năm mươi vị thánh Tăng tại Ma Kiệt Đà, Kiều Tất La…, và rồi đến hàng triệu con tim trên khắp hành tinh này.

Thế hệ Phật tử hôm nay và mai sau sẽ luôn cảm thấy tự hào và sung sướng vì giữa một thế giới đầy sầu hận bi hoang, họ đã được diễm phúc hội ngộ và an trú trong suối nguồn chánh pháp thanh lươngan lạc. Họ sẽ luôn biết nâng niu, trân quí những gia tài pháp bảo mà các bậc tiền nhân đã để lại, luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn kỳ quan chánh pháp và sẽ sống bằng trọn trái tim hiểu biếthướng thượng như lời nhắn nhủ của Hòa thượng Nàrada: “Có những quốc gia hình thành rồi tan rã, có những đế quốc được xây dựng trên bạo lực và cường quyền đã trở nên hưng thịnh rồi suy vong, nhưng vương quốc chánh pháp của đức Phật, được kiến tạo bằng tình thươngtuệ giác sẽ mãi phồn thịnhtiếp tục thịnh vượng cho đến khi nào người con Phật biết vâng giữ những nguyên tắc cao thượng của chánh pháp.”

Mùa Phật Đản PL 2548

ĐT.

Tài liệu tham khảo:

- The Lalitavistara, Tr by R.L. Mitra, Delhi, 1998
- Malalasekera G.P, Encyclopaedia of Buddhism, Vol II , Ceylon, 1966
- Nàrada, The Buddha and His Teachings, Malaysia, 1988
- Samuel Beal,The Romantic Legend of Sàkya Buddha, M.Banarsidass, 1985
- Thomas Ed, The Life of Buddha as Legend and History, M.Munshiram, 1992
- Wimalaratana, Concept of Great Man, B. Singapore, 1998

Nguồn: Tập san Pháp luân số 2

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11345)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11525)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 14071)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10283)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10754)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11285)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11238)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11403)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10138)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9929)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10679)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11292)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42122)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10456)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11835)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9993)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10430)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10588)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45671)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32066)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11292)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10663)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11279)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10596)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13433)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12336)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11006)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10595)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12276)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11130)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11812)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29220)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9192)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10516)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10201)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10542)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10882)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10785)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32090)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27346)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17761)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11840)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12237)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10421)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11678)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10402)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10746)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 27999)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10116)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10240)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10621)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10753)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11209)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10376)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10670)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11455)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18213)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10495)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12823)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11731)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29125)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28555)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28257)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13295)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22746)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13419)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11545)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13782)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25665)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26034)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22265)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14458)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12046)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11779)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11668)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11459)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33141)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31810)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12001)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39581)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22431)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11945)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14189)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13329)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14287)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12032)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10383)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11211)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13278)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34474)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12590)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12203)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13513)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12596)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12933)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16276)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11702)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27343)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28361)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13373)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant