Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11793)
Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản của Đức Thế Tôn

Tuyên xưng Thông Điệp Phật Đản

của Đức Thế Tôn

 

Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian hết 2011 năm dương lịch, đi xa hơn nữa 624 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni, nước Ca Tỳ La Vệ tức Ấn Độ bây giờ. Đó là Thái tử Tất Đạt Đa, con Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia.
 
Người từ cõi trời Đâu Suất, thị hiện giáng trần, ban ra Thông Điệp Vô ThượngKhai thị chúng sinh ngộ nhập Phật Tri Kiến”, khai sáng Đạo Từ Bi cứu khổ chúng sinh, thông lộ thanh lương cho phàm nhân lên đường Tứ Thánh.
 
Người đã ban Thông Điệp nhân bản hòa bình cho nhân loại: “Không có hận thù khi nước mắt cùng mặn. Không có giai cấp khi dòng máu cùng đỏ. Không có tranh chấp giết hại lẫn nhau khi mọi loài đều cần có sự sống và tôn trọng sự sống”. Người đã vạch ra tiêu chí chỉ hướng vươn lên: “Cội nguồn của khổ đau là tham lam, sân hận, si mê. Căn nguyên của oán cừu là ngã mạn, tranh đoạt, cửa quyền, hiếp đáp. Gốc rễ của bất anthủ thế, gườm nhau, cưỡng chiếm, đáp trả, hơn thua”. Người đã hoằng dương Đạo lý Giác ngộ, Giải thoát: “Chúng sanh vốn trầm luân trong biển khổ, lặn hụp trong căn nhà lửa Tam thế, xoay quần trong lục đạo luân hồi, mê lầm với bóng tối thâm u, đắm say với mộng huyễn bào ảnh, chưa biết và không có ánh sáng để đi”.
 
Người đi trước, dẫn đường và làm hướng đạo sư. Vàng bạc, châu báu, giàu có, nhung lụa ư ! Ai đầy đủ hơn, sung túc hơn được sống và thừa hưởng cung vàng điện ngọc ? Ai quyền uy hơn, cửu trụ hơn sẽ kế nghiệp Phụ Hoàng trị vì thiên hạ, đứng trên thiên hạ với thần dân quốc thích ? Ai đẹp hơn trên trần gian, một Công chúa Gia Du sắc nước hương trời “Chìm đáy nước cá lờ đờ lặn, Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa, Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình”, với hàng trăm hoa hậu tuyển chọn cho cung đình, với hàng ngàn mỹ nữ phục vụ cúc cung, yến tiệc linh đình, sơn hào hải vị, nhạc hội tháng năm.
 
Sinh thì Người đã biết rồi, duy nhất chỉ riêng Người mới bước đi bảy bước, mỗi bước nở ra một đóa hoa sen, bước cuối cùng đứng lại, tay đưa lên trời, tay chỉ xuống đất, dõng dạc nói: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chứ tất cả những ai chào đời đều “Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì?”.
 
Cuộc ngoạn du ra bốn cửa thành, nhìn thấy bốn cảnh Già, Bịnh, Chết, một đạo sĩ, chính là tuyệt lộ. Tuyệt lộ dẫn đến tử lộ - chấm dứt mọi đắm lụy của nhân gian, chặt đứt mọi hệ lụy của trần gian mà con người nói riêng, chúng sinh nói chung, lặn hụp trầm luân mãi trong ba đường sáu nẻo từ vô thỉ đến nay, và di họa đến vô chung.
 
Cửa Thành phía Đông, kia là ai, sao lại nhăn nheo, lưng còm, tóc bạc, run rẩy, mắt mờ, tai điếc, lú lẫn, lãng quên ? Đó là một con người nhưng là người già! Ai mà gọi là thọ mới sống được như thế, nếu bằng không thì chết từ trong bụng mẹ, chết mới ra đời, chết lúc còn nhỏ thanh thiếu niên “Ngoài kia lắm mộ tuổi còn xanh”, chết thuở trung niên. Kiếp phù sinh dễ có mấy ai “thất thập cổ lai hy”? Sống sót lắm mới như thế kia, rồi từ lão niên lão giả, lòm khòm, lụ khụ, ngơ ngơ ngáo ngáo, khi quên khi nhớ, nói chẳng ra câu, mở miệng không lời, “Lợi còn không có nói chi răng, Sống trơ trơ biết chi ăn uống”, thế giới con người chập chờn cửa tử đọng lại mới ghi vào sách gọi là kỷ lục.
 
Cửa Thành phía Tây, kia là ai, sao lại đau đớn, nhăn nhó, rên la thảm thiết, có khi quằn quại cực hình, có khi nằm yên thở dốc? Cái mặc thì áo quần xốc xếch, mền chăn gối nệm bùi nhùi. Cái ăn không thèm ngó dù mỹ vị cao sang, mới hôm nào ngày ba bữa dư thừa vẫn kêu đói bụng. Uống ráng lắm từng hớp cầm chừng. Nhà cửa cũng lắc đầu. Vàng bạc cũng bảo thôi. Dục lạc ái ố không thèm ngó tới. Ruồi bu, muỗi đậu đuổi không xong. Nước miếng, mũi dãi nhểu nhảo lều bều… Xin lỗi, ngay cái đại cái tiện đổ bừa trên cái bô bên cạnh, nửa trong nửa ngoài nhơ nhớp tanh hôi. Đầu tóc bù xù rối bời chẳng cần chải chuốt, hai mắt lờ đờ không muốn khép mở, chân tay dở lên dở xuống không nổi, nói năng thì thào chẳng nên tiếng nên lời. Đó là cái bịnh, mà phải bịnh chí tử, bịnh trầm kha, bịnh thứ thiệt mới được. Đừng vội chê cười đánh giá hay bỡn cợt đãi bôi, nên nhớ ở đời ai không bịnh, khi bịnh rồi mới biết!
 
Cửa Thành phía Nam, kia là ai, sao lại cứng đờ, mắt nhắm nghiền, miệng ngậm câm, tay chân co quắp, không cục cựa, không nhúc nhích? Một nhúm người lại khóc lóc, kêu ca, đầu chít tang trắng, trên bàn có một di ảnh, một bát nhang, khói hương lan tỏa, một mâm cơm với một chén có vài miếng thức ăn gắp để sẵn, cắm đôi đũa lên đó. Rồi dâng trà lần 1, lần 2, lần 3, lại có tiếng ê a cầu nguyện, lễ tạ nhị bái, tam bái, người này chia buồn, người nọ phân ưu, nhìn nhau ngấn lệ? Đó là một con người đã chết! Đã có sinh thì phải có tử, không ai ngoại lệ, không ai thoát khỏi. Hết sống nổi thì phải chết, và nên nhớ rằng, lằn ranh sống chết không xa, không dài, không lâu, chỉ từng hơi thở! Tấm thân kia trả về cát bụi, con người kia chuyển hóa vô thường. Kiếp nhân sinh ngắn ngủi và trần gian chỉ là quán trọ phù du.
 
Cửa Thành phía Bắc, còn kia là ai, sao ăn mặc khác người, tư thái thong dong, phong cách tự tại, thoát ra vẻ thanh bạch, thánh thiện, an nhiên? Hỏi ra, người ấy không nhà không cửa, không vợ không con, không tiền không bạc, áo quần một bộ, gia tài một túi vắt vai. Thật vỏn vẹn, đơn sơ, thanh bần. Cái gì người ấy cũng không có mà cái có của người ấy khó tìm trên thế gian. Được đáp, ông ta là Đạo sĩ. Đạo sĩ là gì? Ai biết đạo, hiểu đạo, sống với đạo, trả lời rất dễ. Ai không biết đạo, mơ hồ về đạo, nghi hoặc cho đạo, giải bày nhiều cách cũng khó thông. Thì ra, Đạo là thế à!
 
Người đã quyết chí xuất gia tầm đạo. Vào một đêm kia, Mồng 8 Tháng 2 Âm lịch, Người âm thầm từ tạ Phụ Hoàng, từ biệt thê nhi, lìa bỏ hoàng cung, vượt hoàng thành, khi đến dòng sông A Nô Ma, nói với hầu cận Sa Nặc, đưa đến đây đủ rồi, hãy lui về, mang mái tóc xuân xanh, nhung bào, kiếm báu về trao lại Phụ Thân, thưa dùm ta rằng: “Ta chỉ trở về khi tầm ra Đạo, ngược lại, bằng không, xem như ta không có mặt trên thế gian này”. “Ngài ra đi vì chúng sanh, Ra đi nguyền đem cho đời bao vui sướng, Ra đi giải thoát luân hồi cho chúng sanh”.
 
Sáu năm trường giữa núi rừng Hy Mã, trùng trùng tuyết phủ, tắm gội gió sương, thời thọ thực mỗi ngày là vài hạt mè và vài cọng lá rừng, tận dụng mọi thời gian cho khổ hạnh, tham thiền, nhập định. Quần áo duy nhất một mảnh y vàng. Ngày thời chim hót, đêm tiếng thú vang. Ôi, hình ảnh của đạo sĩ Tất Đạt - bộ da bọc xương cách trí, thân hình kiệt lực tiều tụy, duy chỉ đôi mắt thâm sâu sáng quắc, duy chỉ nghị lực siêu tuyệt vô song, biểu hiện đức tính phi thường của một bậc thiên thượng thiên hạ duy ngã Thế Tôn, trầm tư một cái gì cao tột siêu xuất chưa liễu ngộ bản lai diện mục ? Cơ chừng nó chập chờn đâu đó, đến rồi đi, đi rồi đến, như con đom đóm lập lòe chưa đủ sức phá tan bóng tối, như thanh âm nhỏ bé chưa đủ sức làm tan vỡ hư vô, thượng thông thiên đường hạ triệt địa phủ, như tiếng sóng rì rào chưa đánh động trùng dương biển lộng!
 
Do đó, Người từ bỏ lối tu khổ hạnh, giai đoạn ban đầu ắt có và cần đủ khổ luyện, đúc rèn chuẩn mực, làm kim chỉ nam định hướng hành trình, vẽ bản đồ thiên la địa võng đạt ngộ, nhưng muốn đi tới đích, phải có sức của thân, lực của tâm, thần của trí. Không thể có sức lực trên tấm thân tiều tụy! Không thể có sáng suốt khi tâm trí hệ lụy cơ thể suy vi! Chao ôi, nhờ miếng sữa biếu tặng của cô bé chăn cừu Tu Xà Đề, còn hơn thần linh y dược, làm cho Người hồi phục khỏe khoắn lạ thường. Cảm ơn nghe thành phần nghèo khổ bần cùng trong xã hội, nghèo vật chất nhưng không nghèo tinh thần, nghèo miếng cơm manh áo nhưng không nghèo tấm lòng biết trân quý tình thương sự sống. Trong cuộc đời, nhiều lúc nghèo làm được mà giàu không làm được, nhiều khi giàu làm được mà nghèo không làm được, và biết đâu người giàu cần phải học cái chơn chất, trong sạch, thanh cao, thánh thiện của người nghèo!
 
Sau khi thọ dụng bát sữa xong, tìm đến một chỗ kia, dưới cội cây Tất Bát La cổ thụ, lá tròn đầy xanh mượt, cành vững chải vươn cao, dọc theo triền núi điệp trùng, bên cạnh dòng sông Ni Liên thì thầm muôn thuở. Người ngẫm nghĩ, có lẽ không đâu thích hợp hơn nơi này, không đâu an định hơn vị thế nơi đây. Bèn kết cỏ làm bồ đoàn, đặt sát gốc cây, sau lưng là núi rừng, trước mặt là dòng sông. Người tự phát đại thệ nguyện: “Nếu không tầm ra Đạo, không chứng đắc, không liễu ngộ, thì dù cho thịt có nát, xương có tan, ta cũng quyết không rời bỏ chỗ này”. Và Người buông tất cả, an tọa kiết già, sâu vào thiền định.
 
Ngày một, Người vẫn ngồi yên. Ngày hai không nhúc nhích. Ngày ba không động đậy. Cho tới tuần 1, tuần 2, tuần 3, vẫn cứ thế, bất động, không lay. Bên ngoài, lục trần im bặt thanh âm, đối cảnh. Bên trong, lục căn trong vắt an tịnh pha lê. Núi rừng im tiếng gió. Dòng sông lặng nước reo. Chim không nghe tiếng hót. Thú không nghe tiếng vang. Không gian như ngưng đọng. Thời gian như ngừng trôi. Đến một đêm cuối của tuần “thất thất”, canh một, canh hai, canh ba, bỗng lục thông tuần tự hiển bày, chân như hiển lộ, mặt mũi thật của con người, của nhân sinh, vũ trụ được khai ngộ tinh tường. Cái gọi là trùng trùng vốn không diệt không sinh. Cái gọi là bản lai vốn không còn không mất. Cái gọi là vạn hữu càn khôn vốn không đục không trong không tăng không giảm. Đó là Phật tánh chơn thường vi diệu hằng nhiên. Không phải chỉ riêng Người mà ai ai cũng có, nên Người dõng dạc Thông Điệp “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Người đã chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vô thượng chánh đẳng bồ đề. Nơi người ngồi gọi là Bồ đề tọa, cây Bát La gọi là cây Bồ Đề, Đạo của Người hoằng dương gọi là Đạo Giác Ngộ.
 
Tuyệt trần thay, tuyệt thế thay Đạo sĩ Tất Đạt Đa! Nếu là người thường, đời thường, với cương vị Đông cung Thái Tử, với vợ đẹp con ngoan, với cung vàng điện ngọc, với mọi sắc màu dục lạc tột đỉnh của trần gian, không phải Tất Đạt Đa thì kim cổ nào ai làm được ? Nếu Người cũng như bao nhiêu vị Thái tử khác trên thế gian, tận hưởng mọi nhung lụa sang giàu, ngất ngưởng cương vị vua chúa lộng lẫy quyền uy, rồi hoàng hậu hoàng phi với muôn ngàn cung tần mỹ nữ, khi thời đại biến chuyển hưng phế thịnh suy, dù có ra sao cũng phải tử vong gọi là băng hà. Và Người cũng đã biệt tăm biệt tích như hàng bao nhiêu Thái tử khác, hay hàng vô số vua chúa khác, đã từ 2,600 năm trước.
 
Nhưng Người thì không. Người mãi mãi là đấng Như Lai, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Người mãi mãiTa Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Người mãi mãi là Đức Từ Bi hiện hữu vô cùng cho chúng sinh biết thương yêu, tôn trọng sự sống. Người mãi mãi là ngọn đuốc trí tuệ sáng ngời cho chúng sanh biết nẻo mà đi. Người mãi mãiHiện tại Trang nghiêm vương Phật, nối kết Qúa khứ thiên ức Phật, hoằng truyền Vị lai thiên ức Phật mà Đức Di Lặc Từ Tôn sẽ đăng tòa Long Hoa Pháp Hội 16 triệu năm sau.
 
Hình ảnh nào đáng quý hơn, đáng tôn thờ hơn, đáng nêu gương hơn. Một bậc Giáo Chủ cõi Ta Bà, một bậc Thầy của thiên nhơn, một đấng Cha Lành chung bốn loại, mà cái mặc vẫn chỉ có 3 Y, cái ăn vẫn ngày ngày Khất thực, đầu trần chân đất như bao đệ tử khác, ngủ nghỉ trên cái đơn gỗ mộc như thất chúng đệ tử. Ôi dung dị vô biên! Ôi chơn chất vô thượng! Hình ảnh đó sao không học mà lại “Trưởng giả học làm sang”, được một chút gì đã cố quên chối bỏ cái nghèo khó thuở cơ hàn, xa lánh tương lân dòng họ!
 
Người là bậc Thầy tuyệt thế bất nhị, ròng rã 45 năm trường hoằng khai Tam Tạng kinh điển, ba rừng giáo lý thượng thừa, mà 26 thế kỷ qua, chưa ai đã từng đọc hết, chưa ai đã từng xem xong, cho đến thế kỷ “văn minh” hai mươi mốt, với hệ vi tính công nghiệp điện tử toàn cầu, vẫn mò mẫm chưa thông.
 
Thế giới văn minh nhân loại hôm nay, nào Bác học tuyệt siêu, nào Khoa học tuyệt đỉnh, nào Y học tinh hoa, cơ sở Thiên văn, Viễn vọng, cơ quan khám phá không gian, nhân - vật - trí - lực cùng đầu tư, cùng đổ ra. Tuy nhiên, bịnh nan y vẫn bó tay chưa nói đến bịnh đột biến phát sinh dịch nhiễm, phi thuyền không gian tạm viếng Mặt Trăng, dò dẫm Hỏa tinh, chưa tới Kim tinh, nói chi qua khỏi Thái dương hệ. Rồi hiện tượng Đĩa bay, Người ngoài không gian vẫn bí ẩn, mê hoặc. Thế giới hữu hình, siêu hình như chuyện cổ tích, thần thoại, dù bao nhiêu nhà nghiên cứu, học giả tìm tòi, viết lách, và nghệ thuật phim ảnh diễn dịch mơ hồ. Trong khi Người, 26 thế kỷ trước đã nói: “nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng”, “hằng hà sa số thế giới”. Mỗi thời Kinh giảng của Người, không những chỉ Thập đại đệ tử, 1,250 vị đệ tử lớn, 7 lớp đệ tử xuất gia tại gia nghe, mà còn vô số Chư Thiên rải hoa cúng dường thính pháp, cho đến vô số Ma vương, Đại ma vương nhiếp phục phụng hành.
 
Ngày Phật Đản 2635 năm nay, dương lịch 2011, âm lịch Tân Mão niên, Phật lịch 2555 năm, vốn đã từng năm, từng năm kéo dài hơn 25 thế kỷ, với Tổ Tổ truyền thừa, Tăng Già chấn tích trùng quang, khoảng ¼ dân số thế giới quy ngưỡng tri hành, khắp mọi quốc gia dân tộc vượt qua biên cương ranh giới.
 
Bản thân chúng tôi đón nhận, chứ thật sự không mừng lắm dù Liên Hiệp Quốc công nhận Ngày Khánh Đản của Đức Thế Tôn trở thành Ngày Lễ Phật Đản Vesak Liên Hiệp Quốc vào năm 1999. Cái nhìn của chúng tôi, quá chậm. Cái đánh giá của chúng tôi, quá yếu. Chậm, bởi Đạo Phật đã hiện hữu 2600 năm qua, sau vài Tôn giáo cổ đại, nhưng trước nhiều Tôn giáo sau này. Yếu, bởi công nhận Ngày Lễ Quốc Tế mà sao không Nghỉ Lễ có tính quốc tế. Và cảm thấy kỳ kỳ, những quốc gia Phật Giáo lâu đời, tín đồ Phật Giáo đa số, không Nghỉ Lễ của Phật Giáo mà lại Nghỉ Lễ tôn giáo khác với thời gian có mặt ít hơn, tín đồ thiểu số. Hy vọng một ngày không xa, Liên Hiệp Quốc phải thực hiện cho bằng được mỗi tôn giáo lớn trên trái đất này phải có Ngày Lễ Chính của họ và được Nghỉ Lễ trên toàn thế giới, không cá biệt bất cứ tôn giáo nào, bởi mỗi tôn giáo đều chỉ hướng cho đời, mỗi tôn giáo đều an tĩnh tâm linh. Đây, có thể là bàn đạp san bằng hệ lụy dị biệt, cách ngăn, tỵ hiềm để con người được gần nhau hơn, nhân loại tin yêu nhau hơn.
 
Vô tình năm nay chúng tôi có nhận và đọc Thông Điệp Phật Đản của Ông Ban Ki Moon, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc “…cốt lõi của nó là vấn nạn về khổ đau của nhân loại mà chính Đức Phật đã nhìn thấy và nhấn mạnh cách đây hơn 2,500 năm” ; “Lời khai thị của Ngài…khơi dậy những cuộc hội đàm đa phương” ; “Rất nhiều tổ chức Phật Giáo đang thực hành giáo pháp của Đức Phật. Tôi vô cùng cảm ơn sự ủng hộ của họ đối với những hoạt động của Liên Hiệp Quốc nhằm đạt được Những Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ” ; “…tôi hy vọng tất cả mọi người có thể dựa vào những lời dạy có giá trị phổ quát trong Đạo Phật để hành động trong tình đoàn kết với những người đang đau khổ, để góp phần tạo nên một thế giới nhiều tình thương yêu hơn, nhiều sự tỉnh giác hơn cho tất cả chúng ta”.
 
Lại thêm Thông Điệp gởi đến Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc của Bà Irina Bokova, Giám đốc UNESCO. Rằng “Nhân Đại lễ Vesak lần thứ 8, tôi muốn bày tỏ lời chúc chân thành và nồng hậu nhất đến tất cả mọi Phật tử trên khắp thế giới” ; “…thúc đẩy sự đối thoại giữa các nền văn hóa, tôn giáo, và giữa mọi người với nhau trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta phải làm việc mỗi ngày để xóa đi sự hiểu lầm, để nâng cao kiến thứcthắt chặt mối quan hệ cộng tác với nhau” ; “Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã được thành lập nhằm góp phần tạo dựng nền hòa bình lâu dài, bền vững, thông qua sự hợp tác về giáo dục, khoa học, văn hóa, giáo tiếp và thông tin”; “Tầm quan trọng của Hội thảo lần này (tại Đại Lễ Phật Đản) chính là ở đây”.
 
Cái nhìn của chúng tôi, có một sự kỳ thú qua hai Thông Điệp này.
 
Vâng, họ cũng là hai con người, nhưng khác người thường, nên Lời Chúc Tụng của họ mới gọi là Thông Điệp. Một - của người đàn ông, hay nam giới, nam tử - giữ trọng nhiệm Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc. Một - của người đàn bà, hay nữ giới, nữ lưu - nắm cương vị Giám đốc Tổ chức Văn hóa, Khoa học, Giáo dục Liên Hiệp Quốc. Ông Ban Ki Moon người Châu Á , Bà Irina Bokova người Châu Âu - tượng trưng cho Đông PhươngTây Phương, cho Da Màu – Da Trắng. Đông – Tây đã gặp nhau. Da Màu – Da Trắng đã gặp nhau.
 
Vâng, Đức Phật Thích Ca Giáo chủ cõi Ta Bà đã nói: “Không có hận thù khi dòng máu cùng đỏ. Không có ngăn cách khi nước mắt cùng mặn. Tâm bình thế giới bình. Hận thù không tiêu diệt được hận thù mà chỉ có Từ bi mới xóa sạch được hận thù”.
 
Vâng, ý nghĩa siêu tuyệt của Đạo Phật, rằng: người có Đông Tây Nam Bắc nhưng Phật tánh không có Nam Bắc Đông Tây, màu da có trắng đen vàng đỏ nhưng Phật tâm đồng đẳng không màu. Nhân loại nhiều chủng tộc quốc gia trên năm châu bốn biển, nhưng lương tri hòa điệu giai tầng, tình người hòa chung sự sống.
 
Vâng, nếu các quốc gialiệt cường hay chậm tiến mà không chạy đua theo bạo lực, vũ khí, hạt nhân, nguyên tử, quốc phòng, mà dùng mọi nhân - tài - vật - lực cho con người, cho sự sống, thì hòa bình thế giới tự nhiên có mặt, mọi bất ổn khu vực, liên quốc, đa quốc hay chiến tranh lạnh chiến tranh nóng tự nhiên triệt tiêu. Hơn nữa, các ngân khoản phí tổn khổng lồ bạch hóa hay úp mở ấy, thiết nghĩ sẽ đủ và dư để san lấp hố thẳm giàu – nghèo, để hàn gắn vết tích tang thương xây dựng lại những thiên tai đã, đang và sẽ liên tục liên hoàn xảy ra mọi nơi mọi lúc.
 
Cuộc đời, sự sống, hành xử, đối đãi, tin yêu, tôn trọng, Đức Phật đã ban Thông Điệp diễm tuyệt muôn đời.
 
Xã hội, thế giới, nhân loại, nhân sinh, đạo đức, nhân bản, Đức Phật đã ban Thông Điệp tuyệt thế muôn năm.
 
Không những Ngài chỉ ban Thông Điệp của Tình Thương, Sự Sống, mà Ngài còn ban Thông Điệp hết khổ đau, sống an lành, giải quyết được Sinh, Già, Bịnh, Chết, dung thông Tứ Thánh Lục Phàm, mở rộng Sáu Đường Ba Cõi, và phổ nhiếp càn khôn vũ trụ vô lượng hằng hà sa số thế giới.
 
Thật vinh hạnh cho những ai làm người con Đức Phật, ân đức cao dày mới được làm đệ tử của Đức Từ Bi, căn duyên gốc rễ nhiều đời mới tựu thành Trưởng tử Như Lai trên hành trình giác ngộ, cứu nhân độ thế, chuyển hóa quần sanh, nhập lưu Thánh Chúng.
 
Hỡi nhân loại và hỡi chúng sanh! Thân người dễ gì có được. Phật Pháp dễ gì sẽ gặp. Đạo Pháp dễ gì mới nghe. Phật Đạo dễ gì mới thành.
 
Phật Đản quý vị đã biết rồi. Đạo Phật quý vị đã nghe rồi. Chần chừ gì nữa. Sang giàu và nghèo hèn ư! Quyền uy và bạo lực ư! Chiến tranh và thù hận ư! Chủng tộc và màu da ư! Địa bàn và giới tuyến ư! Gia tàisự nghiệp ư! Tài sắc danh thực thùy ư!
 
Nghĩa địa đã chật mồ. Hồn ma luôn vất vưởng. Khói lạnh đống tro tàn. Sống và Chết không có lằn ranh. Nghìn thu và Thiên cổ đợi chờ. “Trăm năm còn có gì đâu, Chẳng qua một nắm cỏ khâu ranh rì”, hoặc “Một hũ cốt xương mờ dấu tích, Bóng hình ai nhòa nhạt phôi pha, Cuộc đời tựa giọt sương sa, Nắng tan đâu mất la đà về đâu, Mau mau tỉnh ngộ qui đầu, Phật Đà vô thượng nhiệm mầu đẹp thay”.
 
Dâng lên cúng dường, ngưỡng phục hồi quy, quay đầu bỉ ngạn, chính là Thông Điệp của Sự Sống và Thông Điệp Phật Đản muôn đời.
 
Hướng về Phật Đản là hướng về sự thanh cao minh triết thường hằng. Từng thời kỳ thời đại sẽ qua đi, từng chủ thuyết chủ nghĩa sẽ xếp theo trang lịch sử, nhưng Thông Điệp của Tình Thương của Trí Tuệ của An Lành Giải Thoát miên viễn mọi không thời bất di bất dịch, sẽ góp phần rất lớn, sẽ là nền tảng vững chắc, và là chỉ hướng tuyệt siêu, không những cho Thiên Niên Kỷ 3,000 mà còn vĩnh trụ thiên thu
 
Viết cho Ngày Phật Đản 2635 - Phật lịch 2555,
Âm lịch Rằm Tháng Tư năm Tân Mão,
Dương lịch 17 tháng 5 năm 2011
 
TNT Mặc Giang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11315)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11488)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13473)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14042)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10261)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10737)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11254)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11204)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11379)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10104)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9896)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10633)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11257)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42041)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10422)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11772)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 9959)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10390)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10550)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45596)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32018)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11263)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10632)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11257)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10575)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13395)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12276)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 10967)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10568)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12254)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11111)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11774)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29148)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9162)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10485)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10171)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10504)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10851)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10758)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32031)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27271)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17696)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12190)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10383)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11621)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10363)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10696)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 27931)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10087)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10202)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10591)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10713)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11155)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10327)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10634)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11408)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18132)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10447)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12789)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11671)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29060)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28474)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28196)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13252)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22667)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13382)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11512)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13742)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25592)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 25977)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22196)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14422)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12002)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11748)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11639)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11420)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33063)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31750)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 11967)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39527)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22339)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11911)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14135)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13283)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14232)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 11988)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10349)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11148)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13237)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34398)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12548)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12168)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13469)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12548)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12893)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16226)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11659)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27299)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28306)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13338)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant