Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại

13 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11862)
Cuộc hành trình cuối cùng của Đức Phật với những thống khổ muôn đời của nhân loại

Những khi mà tâm hồn tôi bị hoang mang va dao động trước những thống khổ của con người do chính con người gây ra, những lúc đó tự nhiên những câu thơ của Bùi Giáng, những câu thơ mà một thời tôi đã từng say sưa đọc lại có dịp sống dậy trong tâm hồn buồn bã của tôi: 

Sông ơi em bỏ sa mù

Ði thiêm thiếp cõi quân thù gọi nhau

(Mưa nguồn) 

Tôi đọc đi đọc lại để tự nhắc nhở với chính mình rằng, sự đau khổ của mình chẳng có nghĩa gì hết trước sự đau khổ lớn lao mà Bùi Giáng (hay tất cả những người nghệ sĩ chân chính nói chung), với bao nhiêu mộng ước cho cuộc đời nhưng khi đối mặt thực sự với cuộc đời thì những giấc mộng đẹp đó lập tức bị cuộc đời bóp chết một cách phũ phàng

Rồi tôi lớn lên đi vào đời chân bước

Cỏ mùa Xuân bị giẫm nát không hay

(Mưa nguồn) 

Nhưng tại sao con người lại tự gây đau khổ với con người?

Có lẽ không có lời giải đáp nào chính xác hơn là lời giải đáp của một con người cùng quê hương với Ðức Phật. Người đó không ai khác hơn chính là Mahatma Gandhi: 

“Trái đất có đủ lương thực để nuôi dưỡng con người, nhưng không đủ để nuôi dưỡng lòng tham quá độ của con người”. 

Chính vì thế cho nên khi giới thiệu Triết học Ấn độ cho thế giới, Radhakrisnan, triết giađồng thời cũng là tổng thống của Ấn độ đã tóm tắt 3.000 năm lịch sử tư tưởng Ấn độ bằng 10 chữ như sau: 

“Hãy sống và hãy để cho người khác sống với...”  [1] 

Xin được tiếp tục trở lại về giấc mộng của thi nhân. Trước năm 1975, tại Việt Nam có lẽ Bùi Giáng là một trong những người dịch và viết nhiều nhất về Martin Heidegger (1889 - 1976) triết gia Ðức. Người ta còn nói rằng, nếu không hiểu được Heidegger thì không thể hiểu được cõi thơ của Bùi Giáng. 

Chúng ta có thể tạm bỏ qua những vấn đề như Sein (Hữu thể) hoặc Dasein (Tại - thể - tính) gì đó ...v.v... Tức là những vấn đề hóc búa của triết học mà Heidegger đã bỏ cả đời để trầm tư. Theo tôi, chỉ cần đọc câu nổi tiếng sau đây của Heidegger, một câu tương đốidễ hiểu nhất, thì ta có thể hiểu lý do vì sao mà Bùi Giáng lại dịch và viết nhiều về Heidegger đến như vậy: 

“Trên Trái đất, Heidegger viết, đã xảy ra một tình trạng đen tối của thế giới. Những biến cố chính yếu của tình trạng đen tối ấy là, sự vắng mặt của các Thần linh, sự hủy diệt của Trái đất, sự đoàn ngũ hóa loài người, sự ưu đãi những gì quá tầm thường”[2]. 

Trong tác phẩm Heidegger giảng giải thơ Hoelderlin mà Bùi Giáng đã dịch sang tiếng Việt là Lời Cố quận, được nhà xuất bản An Tiêm phát hành khoảng đầu thập niên 70, nghĩa là những năm cuối cùng của cuộc chiến tranh tại Việt Nam

Trong lời nói đầu cho bản dịch, sau khi đã trích lại hai câu thơ của Huy Cận là: 

Tâm tình một nẻo quê chung

Người về cố quận muôn trùng ta đi... 

Mà Bùi Giáng bảo là đã vô tình đọc được trên một bài báo từ thuở còn trai trẻ. Từ ấy, nghĩa là sau khi đọc được hai câu thơ cho đến khi dịch Lời Cố quận của Heidegger, thì đã hơn 30 năm, mà Bùi Giáng gọi là “ba chục năm nước chảy dưới cầu và bom đạn bò lên mặt đất” rồi ông băn khoăn tự hỏi: 

“Không biết mẫu thân Cố quận đã lưu lạc nơi nào?”[3]. 

Câu hỏi trên của Bùi Giáng khiến ta liên tưởng đến câu hỏi lơ lửng trong bài thơ có tên là Andenken (Hoài tưởng) của Hoelderlin mà ta được biết rằng khi về già sống cô độc một mình trong rừng Hắc Lâm (Rodtnau) của Ðức quốc, Heidegger đã thường đọc lên trong nỗi hiu quạnh và chờ đợi: 

“Những người bạn hữu của tôi bây giờ ở đâu? Hỡi bạn Bellermin.

Với những kẻ đồng hành của anh ấy?

Nhiều người lưỡng lự rụt rè lên đường trở về suối nguồn”.

(Phạm Công Thiện dịch) 

Những cái gọi là “Nẻo quê chung”, “mẫu thân Cố quận” hay “Suối nguồn” ấy ở nơi đâu? Ai là người sẽ chỉ đường cho nhân loại để lên đường trở về? 

Ðọc Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại cùng nhiều bài viết khác của Bùi Giáng từ gần nửa thế kỷ nay thì ta thấy Bùi Giáng thường nhắc đến Ðông phương sơ thủy hay Hy Lạp uyên nguyên. Trong chỗ sơn cùng thủy tận, thì Hy Lạp uyên nguyên của các triết gia tiền Socrates cũng chính là cõi đạo của Ðông phương. Nhưng rồi vì những trận gió biển dâu, những thảm họa lịch sử đã khiến con người quên mất đường trở về để nghe lại tiếng gọi sơ đầu ấy của Như Lai

Và Bùi Giáng đã diễn tả sự lang thang mất lối ấy qua hai câu thơ. 

Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa 

Vậy ai sẽ là người chuẩn bị cho cuộc trở về cội nguồn này? 

Người đó chắc chắn không ai khác hơn là ông Pháp vân địa Bồ Tát Martin Heidegger, theo cách gọi của Bùi Giáng. Chuẩn bị bằng cách nào? Trong Con đường ngã ba, Bùi Giáng viết: 

“Heidegger chỉ khoác nhẹ một nửa bàn tay đủ lật nhào hai ngàn năm rưỡi tư tưởng triết học Tây phương và dựng lên một cái gì chưa có danh hiệu để chỉ định”. 

Thật là ngớ ngẩn với hầu hết chúng ta, điều mải chạy theo cuộc sống đời thường thì cái “cõi gì chưa có danh hiệu để chỉ định” ấy, lại chỉ có một mình thi nhân ám ảnhlặng lẽ đi tìm kiếm giữa một xã hội xô bồ và huyên náo lợi danh này: 

“Cô là ai? Cô từ nghìn thu cổ lục trở về hay từ màu hoa trên ngàn trở lại? Nhưng dù là ai thì cũng được, không sao. Nè, tôi đọc tặng cô một bài thơ. Cô nghe nhé: Em cho phép ta ngồi đây hỏi lại. Và gọi về trăng mùa cũ lang thang. Màu trời đó để ngàn sương hớt hãi. Xuống li ti là dựng vội con đường”[4]. 

Bùi Giáng đã có lần dừng lại bên đường để hỏi một cô gái lạ mà ông không hề quen biết như vậy. 

Sở dĩ tôi có hơi dài dòng về Bùi Giáng một chút như vậy, vì từ hơn nửa thế kỷ nay tại Việt Nam ai cũng phải công nhận rằng, Bùi Giáng là thi sĩ duy nhất đã dám hiến dâng trọn vẹn cuộc đời mình cho cuộc “Lữ” của thi ca. Không cửa, không nhà, không tiền, không bạc, ngay cả một chỗ cố định để ngả lưng cũng không có luôn. 

Nhưng Bùi Giáng (hay tất cả những nghệ sĩ chân chính nói chung) có than thân trách phận? Có nghèo khổ thật không? Chắc chắn là không. Vì lý do đơn giản là họ không đi tìm kiếm sự giàu sang bên ngoài, mà họ tìm kiếm sự giàu sang từ trong chính họ, họ có niềm vui bất tuyệt từ sự giàu sang này: 

Cõi đông bắc một mình tôi bước tới

Miệng ca ngâm tìm kiếm mộng Tây Nam

Ði suốt xứ khắp miền ngang lối dọc

Hồn chiêm bao một thế giới muôn vàn”, 

Như vậy, làm thơ, viết văn hay dịch sách triết lý đối với những nghệ sĩ chân chính không phải để nổi danh hay khoe khoang kiến thức uyên bác của mình, mà như một lần Bùi Giáng đã tâm sự: 

“Kẻ chán chường thi ca mà cứ phải làm thơ. Mình chỉ là một thứ đười ươi, bắt chước tiên thiên mà không thể bắt chước được, vui vậy mà...” [5]. 

Ðúng là như vậy rồi, tôi nhớ có một lần ông say sưa nói về Khổng Tử, nói về Nguyễn Du, chợt ông ngừng lại và nói với tôi:”Ông năm nay bao nhiêu tuổi, mới có hai mươi mấy tuổi, đầu chưa ráo máu mà làm sao ông hiểu được Nguyễn Du, hiểu được Khổng Tử?”. 

Lúc đầu tôi tự chống chế tại sao mình không có quyền hiểu khi mình còn trẻ. Nhưng rồi sau những biến cố xảy ra trên đất nước cũng như trên thế giới tôi mới chợt nhận ra rằng, nếu Nguyễn Du đã phải chứng kiến những biến động phủ phàng của lịch sử dân tộc từ hậu bán thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ thì mới viết nổi truyện Kiều, thì tôi cũng vậy. Làm sao có thể hiểu được những gì Nguyễn Du viết dù chỉ là hai câu thơ mở đầu truyện Kiều thôi: 

Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng... 

Nếu chính mình không chứng kiến cuộc phân ly lớn lao của dân tộc giữa thập niên 70. 

Còn Khổng Tử? Dù không dám nói ra lời, nhưng trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng, Khổng Tử chỉ để cho những tâm hồn cổ lổ sĩ, những người thích làm thầy đời, hay khuyên răn người khác phải làm thế này, phải làm thế kia. Nhưng bây giờ chỉ cần đọc câu truyện ngắn giản dị trong Lễ ký, thì tôi đã thấy Khổng Tử vĩ đại quá rồi: 

“Một vị đại thần ở nước Lỗ, cho hai người con lại học ông. Do đó mà ông được giới thiệu với triều đình Chu ở Lạc Dương; nhưng ông lánh xa chỗ cung điện mà thích đi thăm Lão Tử lúc đó đã gần chết. Khi trở về Lỗ, thấy tổ quốc ông bị tàn phá vì nội loạn, ông cùng với môn sinh qua nước Tề. Ði qua một miền núi non hiểm trở, hoang vu, ông ngạc nhiên thấy một bà Lão, khóc trên nấm mộ. Ông sai Tử Lộ lại hỏi nguyên do. Bà lão đáp:”Cha chồng tôi bị cọp vồ nơi đây, rồi tới chồng tôi cũng vậy, bây giờ con trai tôi cũng bị nạn đó”. Khổng Tử hỏi chỗ nguy hiểm như vậy sao không đi ở chỗ khác, bà Lão đáp:”Vì ở đây không có bọn quan lại hà khắc”. Khổng Tử quay lại bảo các môn sinh:

“Các con nhớ đấy! Chính sách hà khắc còn khốc hại hơn là cọp!”[6].

Thật là khó tưởng tượng được rằng, chỉ một câu nói ngắn gọn “Các con nhớ đấy! Chính sách hà khắc còn khốc hại hơn là cọp!” được phát ra từ một ngôi làng xa xôi ở Trung Quốc cách đây hơn 20 thế kỷ. Vậy mà đến nay đầu thế kỷ 21 vẫn còn giữ nguyên giá trị. Chỉ có khác một điều là, cọp thì đang đứng bên bờ tuyệt chủng, bởi sự săn đuổi tàn ác của con người. Bởi vậy, ngày nay con người không còn sợ cọp nữa mà chỉ sợ chính sách hà khắc do chính con người tạo ra mà thôi. Xin được trích một câu nói nữa của Khổng Tử trong luận ngữ

“Quý Khương (một đại phu nước Lỗ) hỏi về cách cai trị “Tôi muốn giết ít đứa vô đạo cho dân chúng sợ mà hóa ra lương thiện (hữu đạo). Ngài nghĩ nên không?”. Khổng Tử đáp:”Ông muốn cai trị thì cần chi phải giết người. Ông hướng về điều thiện thì dân sẽ hóa ra thiện. Ðức của người quân tử cầm quyền cũng như gió, mà tiểu nhân thì như cỏ. Gió thổi thì cỏ rạp”[7]. 

Nếu ngày nay nhân loại đang tự hào vì đang sống trong thế giới văn minh, thì nhất định không còn cách nào khác hơn là cách giải quyết của Khổng Tử. Nghĩa là không ai có quyền nhân danh bất cứ một lý do nào để giết hại con người một cách bừa bãi được. 

Sử gia Will Durant, một người rất thán phục Khổng Tửnhận xét như thế này:”Trong đạo Khổng có cái gì cố chấp, nghiêm khắc trái với sự xung động tự nhiên của con người; nếu ta có thể thi hành đúng đạo ấy thì tâm hồn sẽ cằn cỗi đi...”. Nhưng sau đó sử gia lại bảo rằng:”Không nên trách Khổng Tử về tất cả những nhược điểm ấy; không ai lại đòi hỏi một triết gia phải suy tư cho hai chục thế kỷ. Trong một đời người làm sao có thể tìm được con đường đưa tới trí thức cho hết thảy các đời sau. Mà rất ít người làm nhiệm vụ ấy một cách đầy đủ như Khổng Tử” [8].

Từ lời nhận xét trên của Will Durant về Khổng Tửchúng ta có thể trở về xem thử nếu áp dụng Ðạo Phật vào thế giơi hôm nay có làm cho tâm hồn con người ”cố chấp, nghiêm khắc hay cằn cỗi” không? 

Trong kinh Rohitassa trong Samyutta Nikaya, Ðức Phật tuyên thuyết

“Trong chính cái xác thân dài một trượng này, cùng với tri giáctư tưởng. Như Lai tuyên bố thế gian, nguồn gốc của thế gian, sự chấm dứt thế giancon đường dẫn đến sự chấm dứt thế gian”. 

Thế có nghĩa là sứ mạng của Ðạo Phật có tính cách toàn diệntriệt để hơn là giải phóng mọi thống khổ của kiếp người. Vì danh từ thế gian (Loka) trong lời dạy trên của Ðức Phật là ám chỉ sự đau khổ”[9]. 

Trong bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển ở thành Ba La Nại, Ðức Phật đã tóm lược những đau khổ mà đã mang lấy thân phận con người thì không ai tránh khỏi như: 

“Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sống chung với người mình không ưa thích là khổ, xa lìa với người mình thương yêu là khổ, mong muốn mà không được là khổ. Tóm tại chính cái thân ngũ uẩn này là khổ” [10]. 

Nếu cái khổ do chính sách hà khắc của các quan lại gây ra chỉ xảy ra một số nước ở thời phong kiến trước kia và một số nước chậm tiến ngày nay thì cái khổ mà Ðức Phật đã nêu ra trong bài pháp đầu tiên ở trên thì bất cứ thời nào xã hội nào, dù xã hội đó tiến bộ hay lạc hậu, bao dung hay hà khắc thì cái khổ đó vẫn không thể nào thay đổi được. Hay nói một cách khác hễ ta còn cái thân ngũ uẩn này thì vẫn phải chịu cái khổ đó, nên ta có thể gọi đó là cái khổ muôn đời của con người

Nếu Khổng Tử được cho là nhà hiền triết thực tế nhất trong những bậc hiền triết của Ðông Phương qua câu nói Chưa biết sự sống, sao biết sự chết (Vị tri sanh, yển tri tử) thì ta cũng có đủ lý luận để nhìn Ðức Phật như một nhà thực tiễn nhất, có thể là thực tiễn hơn cả Khổng Tử nữa. Vì có cái gì thực tế hơn khi Ðức Phật khuyến cáo chúng ta rằng, đau khổ hay hạnh phúc, quý tộc hay tiện dân, tự do hay nô lệ, triền phược hay giải thoát, tất cả đều do ta quyết định lấy từ “trong cái xác thân dài một trượng này”.

Nói như vậy, không có nghĩa là Ðức Phật chẳng quan tâm gì đến vấn đề cải tạo xã hội. Trái lại, mỗi khi có dịp đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của xã hội thì Ðức Phật đều bày tỏ ước muốn của Ngài cho một xã hội tốt đẹp hơn. Một xã hội tốt đẹp nghĩa là một xã hội mà “trong đó dân chúng không bị đàn áp, bóc lột, đánh đập, tù đày, sưu cao thuế nặng, và chịu những hình phạt dã man” [11]

Làm thế nào để thực hiện một xã hội tốt đẹp, nghĩa là một xã hội không có những điều xấu như trên?

Ðức Phật đã nói rõ trong một bài thuyết Pháp có tên là Mười nhiệm vụ của nhà vua (Thập vương pháp) được thuật lại trong Jàtaka (Chuyện tiền thân). 

Trong đó có những điều khoản mà ngày nay vẫn còn là những vấn đề nóng bỏng và nhức nhối cho nhiều quốc gia như “Người cai trị không có thèm khátbám víu nào đối với tài sản, tiền của, mà phải làm sao cho dân được no ấm” hay điều thứ 8 “bất hại” (avihimsa), không chỉ có nghĩa là không hại ai, mà còn có nghĩa là người cai trị phải cố tạo hòa bình bằng cách tránh và ngừa chiến tranh, hay dính dáng đến bạo độngsát hại sinh mạng”. Nhưng quan trọng nhất là điều thứ 10 “Không đối lập, không ngăn cản (avirodha), nghĩa là nhà cai trị không được đi ngược lại với ý nguyện của toàn dân, không được ngăn cản bất cứ biện pháp nào đưa đến sự lợi lạc cho toàn dân. Nói cách khác là nhà cai trị phải thuận theo ý chí của toàn dân”[12]. 

Ðiều cần nói thêm ở đây là, lịch sử dường như luôn luôn có sự trùng hợp thú vị. Không phải Ðông Phương thôi mà xấp xỉ thời đó những triết gia Cổ đại Hy Lạp của Tây Phương cũng đều băn khoăn đi tìm một mô thức để làm sao cho xã hội con người tốt đẹp hơn. Ðó là trường hợp của Platon (428-374) trước Công Nguyên, người mà truyền thuyết cho rằng sau khi thầy là Socrate chết đã đến tận bờ sông Hằng để học đạo với các đạo sĩtriết gia Ấn Ðộ. Quan điểm của Platon về một quốc gia lý tưởng là “chúng ta không thể mơ tưởng những quốc gia hoàn hảo nếu chúng ta chưa có những con người hoàn hảo”[13]. Bởi vậy những quốc gia hoàn hảo phải do một triết gia cai trị, vì “thuật trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều tận tâmhọc hỏi. Chỉ những triết gia mới thích hợp trong việc trị nước. Khi nào triết gia trở thành quốc vương và tất cả những quốc vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì những tệ đoan của xã hội sẽ được chấm dứt”[14]. 

Tất nhiên trong bối cảnh xã hội và chính trị vào thời điểm đó, thì cả một quốc gia đều tùy thuộc vào một người. Sự hưng thịnh hay suy vong đều do một người định đoạt. Vậy cho nên cũng là một việc đương nhiên khi Platon muốn người lãnh đạo phải là một triết gia, còn Khổng Tử là một bậc quân tử, vì theo Khổng Tử, đức của của người quân tử (hay triết gia thì có lẽ cũng như vậy) như gió (quân tử chi đức phong) còn dân đen thì lại được ví như cỏ (tiểu nhân chi đức thảo) mà cỏ thì tất nhiên sẽ nằm rạp xuống khi có cơn gió mạnh thổi đến (thảo thượng chi phong, tất yểu). 

Chính vì cái tầm nhìn hạn chế như vậy nên sức mạnh của cả một dân tộc đã bị bỏ quên. Có lẽ, Ðức Phật là người đầu tiên trong lịch sử của nhân loại lưu tâm đến cả hai. Ngoài những đức tính cần thiết cho một nhà cai trị, mà thời đó gọi là Vua (Ràja) ra, Ngài còn chỉ cho ta thấy sức mạnh của cả một dân tộc nằm ở đâu? 

Trong một bài Pháp mà Ðức Phật đã thuyết giảng cho Vassakàra (Vũ xá) đại thần của nước Ma Kiệt Ðà (Magadha) để thuyết phục ông vua nổi tiếng hiếu chiến nhất thời bấy giờ là A Xà Thế (Ajàtasattu) bãi bỏ ý định xua quân tiêu diệt dân Bạt Kỳ (Vajji). 

Ðây là bài kinh mà có lẽ đến ngày hôm nay nhiều quốc gia cần tín giải thọ trì hằng ngày, nếu muốn cho quốc gia của mình hưng thịnh: 

“Như vầy tôi nghe. Một thời Ðức Thế Tôn ở tại Vương Xá (Ràjagaha) trên đỉnh Linh Thứu (Gijjhakùta) lúc bấy giờ A Xà Thế, con bà Vi Ðề Hi (Ajàtasattu Vedehiputta) vua nước Ma Kiệt Ðà muốn chinh phục dân Bạt Kỳ (Vajji). Vua tự nói:”Ta chinh phạt dân Vajji này, dù chúng có uy quyền, có hùng mạnh. Ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ tiêu diệt dân Vajji, ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong”. 

Rồi Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha nói với Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha: 

“Này Bà La Môn, hãy đi đến Ðức Thế Tôn, và nhân danh Ta, cúi đầu đảnh lễ chân Ngài, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khoẻ mạnh, lạc trú:”Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, lạc trú” và khanh hãy bạch tiếp:”Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha muốn chinh phục dân Vajji, vua tự nói:”Ta quyết chinh phục dân Vajji này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ tiêu diệt dân Vajji, ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong”. Ðức Thế Tôn trả lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại cho ta biết. Các Ðức Thế Tôn không bao giờ nói lời hư vọng”. 

“Tôn Vương, xin vâng”. Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha vâng theo lời dạy của Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cho thắng những cỗ xe thù thắng, tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với các cỗ xe ấy đi ra khỏi Ràjagaha, đến tại núi Linh Thứu, đi xe đến chỗ còn dừng xe được, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Ðức Thế Tôn, khi đến liền nói lên những lời thăm hỏi xã giao với Ðức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha, bạch Ðức Thế Tôn

“Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân của tôn giả Gotama, vấn an Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khoẻ mạnh, lạc trú. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha muốn chinh phục xứ Vajji. Vua tự nói:” Ta quyết chinh phục dân Vajji này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajji; ta sẽ tiêu diệt dân Vajji, ta sẽ làm cho dân Vajji bị hoại vong”. 

Ðiều kiện hưng thịnh của một quốc gia lúc bấy giờ, đại đức Ananda đứng quạt sau lưng Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn nói với đại đức Ananda: 

“Này Ananda, người có nghe dân Vajji thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau không?”. 

- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji thường hay tụ họptụ họp đông đảo với nhau

- Này Ananda, ngày nào dân Vajji thường hay tụ họp đông đảo với nhau thời, này Ananda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết không? 

- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết. 

- Này Ananda, khi nào dân tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết thời này Ananda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji không ban hành những luật lệ không ban hành, huỷ bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajji như đã ban hành thuở xưa thời, này Ananda, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này không? 

- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này. 

- Này Ananda, khi nào dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajji và nghe theo lời dạy của những vị này thời dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữthiếu nữ Vajji phải sống với mình không? 

- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữthiếu nữ Vajji phải sống với mình. 

- Và này Ananda, khi nào dân Vajji không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữthiếu nữ Vajji phải sống với mình thời, này Ananda dân Vajji sẽ được cừơng thịnh và không bị suy giảm

- Này Ananda, người có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp không? 

- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp. 

- Này Ananda, khi nào dân Vajji tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự miếu của Vajji ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước đúng với quy pháp, thời Ananda dân Vajji sẽ được cừơng thịnh và không bị suy giảm. Này Ananda, người có nghe dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở Vajji khiến các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc không? 

- Bạch Thế Tôn, con có nghe dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở Vajji khiến các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc

- Này Ananda, khi nào dân Vajji bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A La Hán ở Vajji khiến các vị A La Hán chưa đến sẽ đến trong xứ, và những vị A La Hán đã đến được sống an lạc thời, này Ananda dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm

Rồi Ðức Thế Tôn với Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha: 

- Này Bà La Môn, một thời ta sống ở Vesàli tại tự miếu Sarandada, ta dạy cho dân Vajji bảy pháp bất thối này. Này Bà La Môn, khi nào bảy pháp bất thối này còn được duy trì giữa dân Vajji, khi nào dân Vajji được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời này Bà La Môn, dân Vajji sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm

Khi được nói như vậy, Bà La Môn Vassakàra, đại thần nước Magadha bạch với Ðức Thế Tôn

- Tôn giả Gotama, nếu dân Vajji chỉ hội đủ một pháp bất thối này, thời dân Vajji nhất định sẽ được cừơng thịnh, không bị suy giảm, huống nữa là đủ cả bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta vua nước Magadha, không thể đánh bại dân Vajji ở chiến trận, trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián. Tôn giả Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều việc và có nhiều bổn phận.

- Này Bà La Môn, người hãy làm những gì người nghĩ là hợp thời. 

Bà La Môn Vassakàra, vị đại thần nước Magadha hoan hỉ, tán thán lời dạy của Ðức Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt”. 

Giáo sư bác sĩ Trần Ngọc Ninh đã chuyển bảy pháp bất thối này ra ngôn ngữ của thời hiện đại như sau: 

1. Sinh hoạt dân chủ.

2. Tinh thần đoàn kết dân tộc.

3. Nguyên tắc pháp trị.

4. Sự hoà đồng thế hệ.

5. Sự kính trọng phụ nữ.

6. Sự tôn trọng tín ngưỡng.

7. Chính sách thu hút trí thức[15].

Như vậy, bảy pháp bất thối này, không phải là một lý thuyết để tranh luận đúng hoặc sai, mà là một điều hiển nhiên phải thực hành mà bất cứ nhà cai trị nào thực tâm muốn quốc gia mình tồn tại và phát triển. 

Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm. Như một lần Ðức Phật đã cảnh cáo các đệ tử của Ngài đừng nên xây dựng hay đứng dưới bất cứ một lý thuyết nào, vì: 

“Này các Kaccàyana, thế gian, phần lớn thế gian, lần mò đi tìm những hệ thống, và bị trói buộc bởi những tín điều. Những người nào không đi tìm những hệ thống, không cần những lập trường lý thuyết, không theo những tín điều, không nhận các tín điều, không coi các tín điều như pháo đài. Người ấy sẽ không có sự hoài nghido dự, vì người ấy không phụ thuộc vào kẻ khác để hiểu biết, sự hiểu biết của người ấy là sự hiểu biết tự chứng. Khi ấy, mới là quan điểm chân chính”.(Samyutta Nikaya) 

Lời cảnh giác ấy của Ðức Phật sau hơn 20 thế kỷ lại đúng hơn bao giờ hết. Vì chẳng phải thế kỷ 20 là thế kỷ mà con người trên hành tinh này đã là nạn nhân cho những pháo đài lý thuyết, ý thức hệ và tín điều đó sao?

Và chừng như Ðức Phật cũng đã tiên đoán sự thống khổ như vậy rồi: 

“Mỗi quan điểm này là một bụi rậm, một sa mạc, một mê cung, một sự nô lệ, một sự trói buộc trí thức, chỉ đem laiï đau đớn, khổ cực, rối loạn và náo động”.(Majjhima Nikaya) 

Bài kinh Ðức Phật dạy về bảy pháp bất thối này, nằm trong kinh thứ 16 trong tập Digha Nikaya, được hoà thượng Minh Châu dịch, có nhan đề là Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Ðức Phật. Trong lời giới thiệu, hoà thượng Minh Châu đã viết rằng: ”Nhìn những hoạt động trong những ngày tháng cuối cùng, chúng ta càng thấy rõ tâm trạng của vị Ðạo Sư, không nghĩ gì đến sức khỏe của mình, mà chỉ lo làm sao cho đệ tử của mình khỏi bơ vơ, lạc lõng một khi mình không còn nữa để dạy bảo”. 

Thật đúng như vậy, mỗi khi đọc Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Ðức Phật, tôi cứ nghĩ rằng, giả như Ðạo Phật không có Tam Tạng kinh điển mà chỉ có Những ngày và những lời dạy cuối cùng này thì cũng đủ giữ vững tinh thần để chúng ta đủ sức đứng dậytiếp tục bước đi giữa cuộc đời thống khổ và gần như thiếu vắng tình thương này. 

Khởi đầu từ núi Linh Thứu ở thành Vương Xá. Sau khi đã trải qua hơn 13 thị trấn và thành phố, cuối cùng Ðức Phật đến Kusinara, giữa rừng cây Sa La mặc dù không phải mùa nhưng bỗng nở rộ như để chào giã biệt Ðức Phật lần cuối. 

Trong cuộc hành trình dài đằng đẵng ấy, mặc dù sức khỏe đã suy kiệt nhưng đến đâu và dừng chân chỗ nào Ngài cũng đều nhắc nhở các Tỳ Kheo đệ tử xuất gia của Ngài phải nỗ lực tu tập ngày và đêm ba pháp vô lậugiới, định, và tuệ vì đó là giáo lý căn bản nhất trên con đường dẫn đến chấm dứt mọi khổ đau. 

Cùng với bảy pháp bất thối, bảy điều kiện để làm hưng thịnh cho một quốc gia mà Ðức Phật đã thuyết giảng cho Vassakàra, đại thần của nước Magadha ở trên, thì nhân đó Ðức Phật cũng nhắc nhở bảy pháp bất thối, nghĩa là bảy điều kiện để làm hưng thịnh cho tăng đoàn

Tại Pàtaligàma, Ðức Phật đã thuyết giảng cho các cư sĩ, tức những đệ tử tu tại gia của Ngài thấy năm sự nguy hiểm đối với những ai phạm giới cấm, nghĩa là sống trái với giới luật. Và ngược lại có năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống đúng theo giới luật

Trong năm điều lợi ích đó, có hai điều đặc biệt cần nói ở đây: 

Ðiều 1 Ðức Phật bảo:”Này các gia chủ, người giữ giới sống theo giới luật, thì sẽ có tiền của dồi dào, vì sống không phóng dật...”. 

Và điều thứ 3:”Lại nữa này các gia chủ, người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào đồ chúng nào, hoặc Sát Ðế Lị, hoặc Bà La Môn, hoặc gia chủ, Sa Môn, người ấy đi vào với tâm không sợ hãi, bối rối”. 

Giữ giới như vậy không còn bị giới hạn trong phạm vi gọi là “tội phước” như cách hiểu thông thường của mọi người. Vì không phóng dật có nghĩa là chúng ta không còn bỏ tiền của một cách vô ích vào những “cuộc vui suốt tháng, trận cười suốt đêm” nữa. Chẳng phải đã có biết bao gia đình đổ vỡ và ly tán chỉ vì đời sống buông thả đó sao? 

Nhưng quan trọng hơn nữa là, khi tâm hồn chúng ta trong sạch, thì chúng ta sẽ không run sợ hoặc bối rối trước bất cứ ai, dù đó là những kẻ có địa vị cao hơn ta (Bà La Môn, Sát Ðế Lị... của Ấn Ðộ thời đó), còn ngày nay thì chúng ta thường gọi là những kẻ có chức có quyền, lúc nào cũng sẵn sàng “dương oai diệu võ” để chứng tỏ uy quyền trước những người thấp cổ bé miệng. 

Như vậy, giữ giới theo Ðạo Phật cũng có nghĩa là chúng ta tự khẳng định nhân cách của chúng ta giữa xã hội mà ta đang sống vậy. 

Với Ðạo Phật, tất cả phải bắt đầu ngay từ mặt đất tăm tối và đầy khổ đau này, nghĩa là Tùng địa dũng xuất như kinh Pháp Hoa của Ðại Thừa đã công bố như vậy. Vì chỉ trong bóng tối con người mới khao khát ánh sáng và cũng chỉ trong bùn lầy thì con người mới mơ ước ngước nhìn bầu trời cao rộng kia. 

Cũng trong cuộc hành trình cuối cùng ấy, khi Ðức Phật dừng chân bên bờ sông Hằng (Gangà) thì Ngài thấy “Sông Hằng tràn ngập nước đến bờ đến nỗi con quạ cũng có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang tìm phao, có người cột bè để qua bờ bên kia. Ðức Thế Tôn, mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay được duỗi ra, biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia với chúng tỳ kheo

Ðức Thế Tôn thấy những người kia, người đang đi tìm thuyền, người đang đi tìm phao, người đang đi cột bè để qua bờ bên kia. Ðức Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này. Lúc ấy Ngài bèn ứng khẩu cảm khái: 

“Những ai làm cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sũng đầm ao, trong khi người phàm phu đang cột bè, những người ấy thật là những vị được giải thoát bởi trí tuệ”. 

Dù đó là lời cảm khái của Ðấng Giác Ngộ, một bậc thánh, nhưng đọc lên ta cảm thấy gần gũi với chúng ta làm sao! Ta có cảm tưởng Ngài không còn ngồi trên toà sen để thuyết pháp cho chúng ta nữa, mà Ngài là một thi nhân đang bước đi giữa cuộc đời khổ đau này để hát lên bài ca hy vọng. Hy vọng vào một ngày mai con người sẽ vươn lên được khỏi mặt đất tối tăm này. 

Ðiều ấy cũng chẳng có gì lạ, vì trước khi giác ngộ, Ngài cũng là một con người như chúng ta, nghĩa là Ngài cũng đã từng trải qua biết bao thống khổ như chúng ta. Nhưng bằng sự nỗ lực phi thường của chính bản thân, để rồi cuối cùng Ngài đã đến được đỉnh núi cao nhất của Tuệ Giác Vô Thượng

Nhưng đoạn văn trên đã làm một sử gia Tây Phương vốn cảm tình với Phật Giáo phải thất vọng. Will Durant viết: 

“Bây giờ chúng ta phải từ ngọn núi triết lý đó tụt xuống mà nghe những chuyện hoang đường ngây thơ lưu truyền về cuối đời cùng lúc tịch của Phật. Mặc dù Ngài kinh thường các phép mầuđệ tử của Ngài cũng thêu dệt cả ngàn truyện về những việc thần kỳ Ngài đã thực hiện được. Chỉ trong nháy mắt Ngài bay qua bờ bên kia con sông Hằng”[16]. 

Tất nhiên, với tư cách một sử gia Will Durant có lý do chính đáng để bày tỏ nỗi thất vọng của mình như vậy.

Nhưng vấn đề thần thông hay phép lạ mặc dù không đóng vai trò gì trong sinh hoạt thực tế của con người, nhưng dường như từ bao đời nay con người vẫn luôn luôn ám ảnh và thắc mắc. Vậy nhân đây ta có thể xem thử thần thông hay phép lạ có thực hay không? Và quan điểm của Ðức Phật về thần thôngphép lạ như thế nào? 

Thực ra, từ những thập niên đầu của thế kỷ 20, thần thông hay phép mầu là có thực, bà Alexandre David Neel trong tác phẩm Mysties and Magicians Tibet, đã cho biết chính mắt bà đã thấy người Tây Tạng đi thoăn thoắt trên hư không? Ðiều đó được giải thích như thế nào? Ðây là lời giải thích của giám mục Charles W.Leadbeater (1847 - 1934) người Anh, sau nhiều năm học đạo với các Ðạo sĩ trên Tuyết Sơn

“... Thí dụ con người không thể nhấc tảng đá nặng 1 tấn lên được, dù là lực sĩ có lập luyện vì bắp thịt con người vốn giới hạn và 1 tấn là một trọng lượng quá lớn so với sức mạnh bắp thịt của con người. Trái lại, với sự luyện tập ý chí để sử dụng những luồng thần lực trong thiên nhiên, con người có thể nhấc tảng đá nặng hàng tấn lên một cách dễ dàng. Ðiều này xét ra có vẻ khó tin và phản khoa học, nhưng khoa học thực nghiệm đặt căn bản trên những định luật vật chất vốn giới hạn, không thể giải thích những hiện tượng siêu nhiên vượt khỏi áp lực vật chất được. Trong thời gian tu tập trên Tuyết Sơn, tôi đã chứng kiến nhiều đạo sĩ gầy gò, mình hạc xương mai nhấc bổng những tảng đá khổng lồ, nặng cả tấn, để lấp cửa hang, vì không muốn ai làm rộn đến sự tĩnh tu của họ. Hiển nhiên họ không dùng sức mạnh của bắp thịt mà sử dụng một thứ sức mạnh siêu nhiên và không làm để biểu diễn mà coi đó là một việc bình thương như trăm ngàn những việc “bình thường” vẫn xảy ra trên rặng núi nằm ở phía Bắc xứ Ấn này”[17]. 

Nhưng việc các Thiền Sư Tây Tạng sử dụng thần thông như vậy có trái với giáo lý của Ðức Phật không? Theo La Ma Govinda thì:”Tôi được các vị Lạt Ma cao cấp giải thích rằng Phật Giáo Tây Tạng không bao giờ đề cập đến việc tu luyện thần thông như một mục đích. Thần thông chỉ là một kết quả tự nhiên (by-product) của việc tu cầu giải thoát. Khi chứng đắc quả vị thì dĩ nhiên người tu sẽ có được thần thông. Tuy nhiên, vì nằm trên một vị trí đặc biệt, một vài phương tiện vẫn được cho phép truyền dạy trong các tu viện”[18]. 

Trong kinh Kiên Cố (Kevaddha) có ghi lại khi Ðức Phật ở tại Nalanda, có cư sĩ trẻ tuổi tên là Kevaddha thỉnh cầu Ðức Phật hãy chỉ dạy cho các Tỳ Kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa để chinh phục dân Nalanda, xứ sở mà trong kinh nói là rất phồn thịnh và dân cư đông đúc. Kevaddha thỉnh Phật đến lần thứ ba như thế này: 

“Bạch Thế Tôn, con không muốn phiền nhiễu Thế Tôn. Con chỉ nói: Bạch Thế Tôn, Nalanda này có uy tínphồn thịnh, nhân dân đông đúc và tín kính Thế Tôn. Bạch Thế Tôn, lành thay nếu Thế Tôn chỉ giáo cho một Tỳ Kheo hiện thượng nhân pháp, thần thông biến hóa. Nhờ vậy Nalanda này sẽ được nhiều người kính tín Thế Tôn hơn nữa”. 

Và Ðức Phật đã nói rõ cho Kevaddha biết rằng: 

“Này Kevaddha, có ba pháp thần thông này ta đã tự chứngtuyên thuyết. Thế nào là ba? Tức là biến hoá thần thông: một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không, độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già trên hư không như con chim (...). Tha tâm thần thông: nói lên tâm, nói lên tâm sở, nói lên sự suy tầm, nói lên sự suy tư của các loài hữu tình khác, của các người khác:”Như vậy là ý của Người, thế này là ý của Người, như vậy là tâm của Người”. 

Nhưng Ðức Phật bảo cho thanh niên trẻ tuổi Kevaddha biết rằng Ngài từ chối hai loại thần thông trên, vì theo Ðức Phật, “ta thấy sự nguy hiểm trong sự biến hóa thần thông (cũng như Tha Tâm Thông) mà ta nhàm chán, hổ thẹnghê sợ...”. 

Và Ðức Phật chỉ chấp nhận giáo hóa thần thông. Và Ðức Phật đã giảng cho thanh niên Kevaddha biết giáo hóa thần thông là như thế này: ”Hãy suy tư như thế này, chớ suy tư như thế kia; hãy tác ý như thế này, chớ tác ý như thế kia; hãy trừ bỏ điều này, hãy chứng đạt và an trú điều kia” [19]

Dường như hầu hết những tôn giáo chính của nhân loại hiện nay đều truyền đạo theo quan điểm của người thanh niên trẻ tuổi Kevaddha này, nghĩa là dùng thần thông hay phép lạ để chinh phục con người trở về với tôn giáo của mình. 

Ðọc Cựu Ước cũng như Tân Ước, ta thấy Ðức Chúa Cha Yavê cũng như Ðức Chúa Con Jesus thi đua nhau làm phép lạ. Nhưng phép lạ không phải để cứu vớt mọi người một cách bình đẳng, mà làm phép lạ bằng cái tâm phân biệt, cái tâm tính toán hơn thiệt hẳn hoi

“Các Người không đi theo thần khác, thần của các dân ở xung quanh các Người, vì Yavê Thiên Chúa của Người, ở giữa Người là Thiên Chúa ghen tuông, khí nộ của Yavê Thiên Chúa của Người sẽ bừng lên phạt Người và Người sẽ bị tru diệt Người khỏi mặt đất”[20].

Dù sao thì việc Ðức Chúa Trời tạo dựng trời đất và loài người đến nay vẫn còn là một huyền thoại, thì chuyện khí nộ và ghen tuông của Ngài đối với những người không chịu đi theo tín ngưỡng của Ngài tất nhiên cũng chỉ là chuyện hoang đường thôi. Vậy mà chuyện hoang đường ấy lại bị những người phàm mắt thịt nhân danh sự ghen tuông của Ngài để xô đẩy một phần nhân loại (Âu Châu thời Trung Cổ) vào con đường tăm tối.

Ðến nay nhân loại như vẫn còn nhắc nhở bởi cái chết đau lòng của triết gia Brunô, Brunô bị thiêu sống vào năm 1592, và sau đó năm 1633 nhà thiên văn học lỗi lạc Galilê bị đưa đến Rome để hạ nhục. Nhưng buồn cười là, ta không thấy Ðức Chúa Cha Yavê dùng phép lạ để thiêu sống Brunô hay bắt cóc Galilê đưa đến Rome đâu hết, mà chỉ thấy những con người trần tục nhân danh Thiên Chúa để lập nên cái gọi là pháp đình tôn giáo (inquisition) để thỏa mãn lòng ganh tỵ nhỏ nhen của chính họ mà thôi. 

Có lẽ chính vì vậy mà ta mới thấm thía lời dạy của Ðức Phật: 

“Ta thấy sự nguy hiểm trong sự biến hoá thần thông mà ta nhàm chán, hổ thẹn và ghê sợ”. 

Người Ðông Phương chúng ta nói chung và Trung Quốc nói riêng vốn rát say mê thần thông biến hoá, Tây Du Ký là một trường hợp điển hình. Ðiều đó cũng dễ hiểu vì thân xác của ta vốn nặng nề và thô kệch quá, nên ai cũng mơ ước một ngày nào đó sẽ cất cánh bay lên khỏi mặt đất xám xịt này. Nhưng có lẽ cũng còn có một lý do nữa, đó là vì truyền thống đạo lý Ðông Phương đều dạy con người phải chống lại cái ác, nhưng khi thấy cái ác vẫn tiếp tục tồn tại và gần như tung hoành khắp nơi, nhưng bất lực, vì sức người có hạn. Có lẽ đó là lý do vì sao tất cả đều say mê nhân vật hư cấu Tôn Ngộ Không, vì Tôn Ngộ Không dùng thần thông để tiêu diệt bọn yêu ma quỷ quái, biểu tượng cho cái ác. Ngược lại, tất cả những con quỷ mà dùng thần thông để hãm hại người lành, biểu tượng cho cái thiện, thì tất cả đều căm giận và cầu mong bọn ma quỷ sớm bị Tôn Ngộ Không dùng thần thông để tiêu diệt

Dù sao đó cũng chỉ là những ước mơtính cách đời thường mỗi khi ta cảm thấy bất lực trước những bất công phi lý của cuộc đời mà thôi. Nhưng đã là đệ tử của Ðấng Giác Ngộ thì chúng ta phải ý thức một cách triệt để rằng, muốn bay vĩnh viễn ra khỏi mặt đất đau khổ này thì phải bằng ý chínghị lực chứ không phải bằng thần thông hay phép lạ, như Ðức Phật đã từng tuyên thuyết

“Con thiên nga chỉ bay được giữa hư không, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất. Duy chỉ có Bậc Ðại Trí, trừ diệt ma quân mới bay được khỏi trần gian này”. (Pháp Cú – HT Trí Ðức dịch) 

Và rồi trên đường đi, Ðức Phật không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào dù nhỏ nhặt đến đâu đi nữa Ngài cũng đều thể hiện tình thương bao la của Ngài, dù biết rằng tình thương đó sẽ đem nguy hiểm đến cho bản thân vốn đã suy yếu vì tuổi tác già nua của Ngài. 

Khi Ðức Phật đi đến Pàvà thì Ngài trú tại vườn Xoài của người thợ sắt có tên là Cunda. Nhân cơ hội này, Cunda đã thỉnh Phật và chúng Tỳ Kheo đến nhà ngày hôm sau để thọ trai. Ngày hôm sau, Ðức Phật và chúng Tỳ Kheo đến, như thường lệ, Ðức Phật liền ngồi vào chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi xuống, Ðức Phật đã nói với người thợ sắt Cunda rằng: ”Này Cunda, loại mộc nhĩ đã dọn sẵn này chỉ dọn cho ta ăn thôi. Còn các món ăn khác thì hãy dọn cho chúng Tỳ Kheo”. 

Rồi sau đó Ðức Phật đã giải thích lý do vì sao Ngài không cho chúng Tỳ Kheo ăn món ăn thượng hảo hạng này: ”Này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại, Người hãy đem chôn đi. Ta không hề thấy một ai, ở cõi trời và người, ở Ma Giới hoặc Phạm Thiên, không một người nào trong chúng Sa MônBà La Môn mà ăn món mộc nhĩ này có thể tiêu hóa được”. 

“Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Ðức Phật bị nhiễm bệnh nặng, đau đớn gần như đến chết. Rồi Ðức Phật đã chánh niệm tĩnh giác, nhẫn nại chịu đựng cơn bệnh”. 

Trong những giây phút cuối cùng ở Kusinara, dù đang trong cơn đau đớn Ngài vẫn lo lắng sau này Cunda sẽ bị người đời ngộ nhận về bữa ăn cuối cùng này, nên Ngài đã nói với Ananda: 

“Này Ananda, rất có thể có người sẽ làm cho thợ sắt Cunda hối hận, bằng những lời như thế này: ”Này hiền giả Cunda, thật không lợi ích gì cho Ngươi, thật là tai hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Người cúng dường mà phải nhập Niết Bàn”. 

Và Ðức Phật đã căn dặn Ngài Ananda có bổn phận phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của người thợ sắt Cunda. 

Nếu khi Ðức Phật ngồi trên pháp toà để công bố thế giới khổ đau và con đường đưa đến chấm dứt khổ đau được xem như là một tình thương vĩ đại đối với loài người, thì việc Ðức Phật dừng lại bên đường xỏ kim chỉ hộ cho một bà Lão, hay đến phút cuối cùngđau đớn mệt mỏi vẫn lo lắng nghĩ đến lòng hối hận của thợ sắt Cunda phải được xem là một tình thương vĩ đại hơn nữa. Vì nếu Ngài không rời pháp tòa để đến với những kẻ cùng khổ nhất thì tình thương của Ngài chỉ được xem là một thứ tình thương "ân huệ” từ trên cao ban xuống mà thôi. 

Cũng tại Pàvà, quê của người thợ sắt Cunda, Ðức Phật đã kể lại một kinh nghiệm quan trọng từ sự chứng nghiệm của chính bản thân Ngài. Ta có thể xem đây như là sự khởi đầu trong cuộc hành trình để tiến đến chấm dứt đau khổ

Lúc bấy giờ có Pukkusa, học trò của đạo sĩ lừng danh Alàra Kalàma đang đi trên đường từ Kusinàrà đến Pàvà thì thấy Ðức Phật đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây, Pukkusa đảnh lễ và ngồi xuống một bên bạch với Phật rằng: 

“Bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn, thật là hy hữu, trạng thái trầm tĩnh của một bậc xuất gia”. 

Rồi Pukkusa kể rằng, thầy của mình là Alàra Kalàma lúc ấy đang ngồi nghĩ trưa dưới một gốc cây không xa con đường chính là bao, thì có khoảng 500 cỗ xe đi ngang qua gần chỗ ngồi, nhưng Alàra Kalàma vẫn ngồi bất động, có một người đi cùng đoàn xe thấy vậy liền đến hỏi: 

“Tôn giả có thấy khoảng 500 cỗ xe vừa đi qua không?”. 

Alàra Kalàma trả lời không. 

Như vậy Tôn giả đang ngủ? 

- Ta không ngủ. 

Vậy thì Tôn giả đang thức. 

Alàra Kalàma xác nhận là mình đang thức. 

Ðể đáp lại lời đệ tử của Alàra Kalàma, Ðức Phật hỏi Pukkusa như thế này: 

“Này Pukkusa, nhà ngươi nghĩ thế nào? Cái gì khó làm hơn, cái gì khó thực hiện hơn? Một người trong khi giác tĩnh, còn thức mà không thấy 500 cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không nghe tiếng. Hay một người đang giác tĩnh, còn thức không khi trời đang mưa, mưa tầm tã, ào ào, trong khi điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy, cũng không nghe tiếng?”. 

- Bạch Thế Tôn, nói gì đến 500 cỗ xe này, cho đến hoặc 600, hoặc 700, hoặc 800, cũng không thể so sánh được. Thật khó làm hơn, khó thực hiện hơn, một người đang giác tĩnh, còn thức, trong khi điện quang chớp loà, sấm sét vang động mà không thấy cũng không nghe tiếng?” 

- Này Pukkusa, một thời Ta ở Atumà, tại nhà đập lúa. Lúc bấy giờ trời mưa, mưa tầm tã, ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động. Có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Này Pukkusa, một số đông người từ Atumà đi ra đến tại chỗ hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết. 

- Này Pukkusa, lúc bấy giờ Ta từ nhà đập lúa đi ra và đi qua lại ngoài trời, trước cửa nhà đập lúa. Này Pukkusa, có một người từ nơi đám đông ấy đi ra, đến chỗ Ta, đảnh lễ và đứng một bên. Và Ta đã nói với người đang đứng một bên ấy: 

- Này hiền giả, vì sao có số đông người tụ tập như vậy? 

- Bạch Thế Tôn, vừa rồi trời đang mưa, mưa tầm tã, ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Do vậy mà có số đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc ấy Ngài ở tại chỗ nào? 

- Này hiền giả, lúc ấy ta ở tại đây. 

- Bạch Thế Tôn, Ngài không thấy gì cả sao? 

- Này hiền giả, Ta không thấy gì. 

- Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao? 

- Này hiền giả, ta không nghe tiếng gì. 

- Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang ngủ, phải không? 

- Này hiền giả, không phải ta đang ngủ. 

- Bạch Thế Tôn, có phải Ngài đang tỉnh thức phải không? 

- Này hiền giả, phải.

- Bạch Thế Tôn, Ngài đang tỉnh thức, nhưng trong khi mưa, mưa tầm tã, ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy cũng như không nghe gì? 

- Này hiền giả, phải như vậy. 

- Này Pukkusa, người ấy liền tự nghĩ: ”Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu, sự trầm lặng của vị xuất gia, khi thức tỉnh, dù có mưa tầm tã, ào ào, điện quang chói lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết mà không thấy gì, không nghe gì hết”. Sau khi nói lên lòng tin tưởng ở nơi Ta, người ấy đảnh lễ, thân phía hữu hướng về Ta và từ biệt. 

Khi được nói như vậy, Pukkusa, dòng họ Malla bạch Ðức Thế Tôn

“Bạch Ðức Thế Tôn, sự tin tưởng của con đối với Alàra Kalàma, nay con đem rải rắc trước luồng gió lớn, nay con đem thả trôi vào dòng nước cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc”[21]. 

Kinh Potthapada (Bố thác bà lậu), cũng cho biết rằng, du sĩ ngoại đạo Potthapada tại một hội trường ở nước Xá Vệ, có tên là Ekasàlaka, hội trường dùng để bàn luận về chánh kiếntà kiến, du sĩ ngoại đạo Potthapada cũng đã lưu ý với các môn đệ của mình rằng “Sa Môn Gotama ưa mến sự trầm lặng”: 

Lúc bấy giờ du sĩ ngoại đạo Potthapada ngồi với đại chúng du sĩ ngoại đạo, đang ồn ào, la lối, lớn tiếng bàn luận về những vấn đề phù phiếm như câu chuyện về vua chúa, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về binh lính, câu chuyện về hãi hùng, câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về đồ mặc, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương liệu, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng xóm, câu chuyện về thị tứ, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về đàn ông, câu chuyện về vị anh hùng, câu chuyện về bên lề đường, câu chuyện về tại chỗ lấy nước, câu chuyện về người đã chết, các câu chuyện tạp thoại, các câu chuyện về hiện trạng thế giới, hiện trạng đại dương, câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu”. 

Du sĩ ngoại đạo Potthapada thấy Ðức Phật từ xa đến, liền khuyến cáo đồ chúng của mình:”Các tôn giả hãy nhỏ tiếng, các tôn giả hãy đừng làm ồn. Nay Sa Môn Gotama đang đến, Ngài ưa mến sự trầm lặng, vị Sa Môn này tán thán sự trầm lặng. Nếu biết chúng ta yên tĩnh, Ngài có thể ghé đến đây” [22]. 

Vậy là từ những vấn đề thấp hèn nhất như:”Câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về giường nằm, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về bên lề đường...” đến những vấn đề cao siêu của các triết gia, đạo sĩ như:”Câu chuyện về hiện trạng thế giới, về sự hiện hữu và sự không hiện hữu” đều được ghi lại đầy đủ ở đây. 

Không còn hồ nghi gì nữa, từ hơn mấy mươi thế kỷ nay con người trên mặt đất này chỉ bàn lui bàn tới chừng ấy chuyện mà thôi. 

Vì thấy rõ sự phù phiếm, vô ích như vậy, nên Ðức Phật đã cảnh cáo những kẻ suốt đời cứ sa đà trong những tranh luận hay cãi cọ: 

“Người kia không hiểu rằng: ”Chúng ta sắp bị huỷ diệt” (mới phí sức tranh luận hơn thua). Nếu họ hiểu rõ điều đó thì chẳng còn tranh luận nữa” (HT Trí Ðức dịch). 

Nếu Phật Giáo cũng được xem là tôn giáo như Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo... thì lời khuyên của Ðức Phật thật là độc đáo. Vì tôn giáo thường đi đôi với sự răn đe, thưởng phạt (thiên đường, địa ngục,...) nhưng Ðức Phật thì ngược lại, Ngài chỉ trình bày một sự thật hiển nhiên, đó là cuộc đời quá ngắn ngủi đối với mỗi người trong chúng ta, nên chúng ta đừng phí thời gian vào những tranh cãi vô tích sự như vậy nữa. 

Vậy Ðức Phật đã khuyên chúng ta phải làm gì để tránh cái họa sắp bị huỷ diệt đó?

Ðương học nhập không

Tinh cư chỉ ý

Lạc độc bình xứ

Nhất tâm quán pháp

 

Ði vào nhà trống

Tâm ý thanh tịnh

Hưởng một niềm vui khác thường hơn

Khi thầy Tỳ Kheo một lòng

Tinh tấn nhất tâm quán pháp (Pháp cú – Trúc Thiên dịch)

Kinh Pháp Cú còn cho biết, chỉ những ai thích sống một mình ở nơi u tịch thì người ấy mới có thể nếm được mùi pháp vị, mới có thể xa lìa được mọi sự sợ hãiác nghiệp

“Ai đã từng nếm mùi vị độc cư, ai đã từng nếm mùi tịch tịnh, người ấy còn ưa nếm mùi Pháp vị, để xa lìa mọi tội ác, sợ hãi”. (HT Trí Ðức dịch) 

Và cái tâm của người thích độc cư ấy được ví như hồ nước sâu, vắng lặngtrong sạch

“Như hồ nước sâu, yên lặng và trong sạch. Những người có trí sau khi nghe Pháp tâm họ cũng thanh tịnh và yên lặng như vậy” (HT Trí Ðức dịch). 

Ðọc lịch sử Ðức Phật, chúng ta còn nhớ, sau khi đã trải qua 6 năm đi tìm kiếm chân lý, đã từng khổ hạnh, đã từng ép xác đến nỗi chỉ còn da bọc xương, đã từng học đạo dưới sự hướng dẫn của những triết gia lỗi lạc nhất của Ấn Ðộ thời bấy giờ như Alàrama Kalama hay Uddaka Ràmaputta, và đã được những triết gia này xác nhậntrình độ cũng như tu chứng vượt hẳn họ. Nhưng Ðức Phật đã không thoả mãn với những điều đã đạt được này, vì cái mà Ngài đi tìm kiếmchấm dứt mọi đau khổ của kiếp người vẫn chưa được giải đáp thỏa đáng

Giữa lúc tưởng chừng như bế tắc ấy thì Ngài chợt nhớ lại lúc còn thơ ấu trong một buổi sáng theo vua cha đi dự lễ hạ điền. Trong khi vua cha cùng với triều đình và thần dân đang vui chơi lễ hội, thì một mình Ngài lặng lẽ đến ngồi dưới một bóng cây râm mát, và sau khi đã nhập Thiền, Ngài đã chứng được sơ Thiền. Khi nhớ lại giây phút tuyệt vời ấy, Ngài đã quyết định rời bỏ những người bạn đồng tu, dùng lại vài vật thực thô sơ nhưng cần thiết cho việc phục hồi sức khoẻ. Dưới gốc cây Bồ Ðề, Ngài đã dễ dàng nhập sơ Thiền (Jhàna) từng Thiền mà Ngài đã đạt được thuở buổi ấu thời. Và cứ như vậy, cuối cùng Ngài đã hoàn thành tuệ giác vô thượng (chánh đẳng chánh giác) chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau, và Ðức Phật đã tự khẳng định:”Tái sanh đã chấm dứt, đời sống phạm hạnh đã được viên mãn, đã làm xong những việc phải làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”. 

Rồi Ðức Phật rời gốc cây Bồ Ðề bên dòng sông Ni Liên Thuyền u tịch trở lại với trần gian đau khổ với sứ mạng: ”Dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người lạc hướng, đem đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc”. 

Và mặc dù Ngài được xem là vị giáo chủ hoạt động tích cực và nhiệt thành nhất trong lịch sử tôn giáo của nhân loại. Vậy mà Ngài vẫn không bỏ phí chút thời gian nào, theo lời Sandha, đệ tử của Ngài thì mỗi khi có dịp: ”Ðức Thế Tôn lại tìm đến những khu vườn hoang vu, thâm u tĩnh mịch, không một tiếng động, nơi gió rì rào thổi qua cánh đồng cỏ ẩn kín không ai hay, nơi thuận tiện cho việc trầm tư quán tưởng”. (Kinh thoại ứng). 

Ngày nay hàng ngàn đô thị giàu sang và lộng lẫy đang thi đua nhau mọc lên trên khắp thế giới. Văn minh đô thị tràn đến đâu thì tất nhiên đời sống nặng về hưởng thụ sẽ đi đến đó. Bởi vậy, những dòng sông, rặng núi hay những thôn làng xa xôi vắng vẻ “nơi gió rì rào thổi qua cánh đồng cỏ ẩn kín không ai hay” nay không còn là nơi để con người thảnh thơi đứng nhìn những buổi chiều tà, để con người còn có dịp cúi xuống nhìn lại thân phận phù du của chính mình nữa, mà là những nơi đó nay chỉ còn có những kẻ trọc phú hay quyền cao chức trọng thì mới có đủ điều kiện để đến. Tất nhiên họ đến không phải để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên mà đến để tận hưởng những thú vui vật dục mà nền văn minh đô thị đã cung cấp cho họ: 

“Làm sao ta có thể vui được, làm sao ta ta có thể đắm chìm trong lạc thú được? Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu, bóng tối đang vây phủ. Ta không muốn tìm ánh sáng sao?”

(Pháp cú – Phạm Công Thiện dịch) 

Câu trên Ðức Phật đã tuyên thuyết cách đây trên 20 thế kỷ, vậy mà bây giờ mới thực sự tác động một cách mãnh liệt đến ta? 

Chẳng phải vì hiện nay chúng ta đang từng ngày, từng giờ chết ngợp trong những thành phố đầy ám phủ đó sao?

Thi sĩ Hàn Mặc Tử, được xem như là nhà thơ theo Thiên Chúa Giáo thuần thànhngoan đạo nhất. Nhưng thật là bất ngờ Hàn Mặc Tử lại có lần đã phải dẫn đến tư tưởng Phật Giáo để giải thích cõi thơ siêu hình của mình: 

“Và tôi sẽ thuyết minh một cách rất nhà Phật là Sắc cũng như Không, Chết cũng như Sống, Gần cũng như Xa và Hư cũng như Thực... Những điều phải trái ấy dầu thế nào đi nữa, cũng có liên lạc mật thiếtthông cảm với nhau”[23]. 

Và điều quan trọng nhất theo tôi vẫn là, Hàn Mặc Tử là nhà thơ của Việt Nam đầu những thập niên của thế kỷ 20 có nhiều bài thơ khuyên bảo con người nên bỏ bớt ba hoa ồn ào lải nhải đi. Vì theo Hàn Mặc Tử chỉ trong im lặng thì trái tim của con người mới biết rung động đến tình yêu lớn lao hơn: 

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều

Ðể nghe dưới đáy nước hồ reo

Ðể nghe tơ liễu rung trong gió

Và để xem trời giải nghĩa yêu... 

Nhưng đôi khi thi nhân lại cảm thấy choáng ngợp trước cái tình yêu quá bao la và quá vĩ đại đó: 

Ðang khi mầu nhiệm phủ ban đêm

Có thứ gì rơi giữa khoảng im

Rơi tự thượng tầng không khí xuống

Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim 

Nhưng cũng có lúc tình yêu đó dù mơ hồ nhưng ta có cảm tưởng rất gần đâu đây, nghĩa là chỉ xung quanh ta đây thôi: 

Trong làng nắng ửng khói mơ tan

Ðôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lý – bóng xuân sang 

Có thể đó là một mùa xuân êm đềm trong một xóm quê có nắng mai rất đẹp của tuổi thơ đã xa? Hay cũng có thể là một mùa xuân hoang sơ thuở đất trời còn hoang sơ thuần phát? Mà trong những đêm khuya khoắt hay trong những giờ phút tịch liêu nhất ai trong mỗi người chúng ta ít nhất cũng có một lần cảm nhận được? 

Nhưng theo quan điểm của Phật Giáo hễ khi nào con người còn khao khát ham muốn, dù là ham muốn về cái đẹp có tính cách tâm linh đi nữa, thì con người vẫn còn đau khổ về cái mà mình đang khát khao đạt cho được ấy. Như Hàn Mặc Tử đã xác nhận

Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Hoặc: 

Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng

Một vũng cô liêu cũ vạn đời.

Không hiểu sao cứ mỗi lần đọc Hàn Mặc Tử của Việt Nam tôi lại liên tưởng đến Tô Ðông Pha của Trung Quốc

Hàn Mặc Tử của Việt Nam chỉ nói lên sự đau khổ, sự cô đơn tột cùng của một kẻ đang đi tìm kiếm cái đẹp, nhưng Tô Ðông Pha thi hào bên đời Tống của Trung Quốc mới bộc lộ một cách chân thành (tất nhiên là đầy kiêu hãnh) về sự thất bại bi tráng của mình trong việc đi tìm kiếm cái đẹp của vô hạn qua con đường của thi ca

Sư dĩ vong ngôn chân hữu đạo

Ngã trừ sưu cú bách vô công

Minh niên thái dược Thiên Thai thứ

Cánh dục đề thi mãn Triết Ðông

 

Sư đã quên lời, quả tình là Sư đã có Ðạo

Tôi thì ngoài việc tìm câu nối chữ, hoàn toàn vô tích sự

Sang năm sẽ vào núi Thiên Thai hái thuốc để cầu Ðạo

Nhưng vẫn còn muốn đề thơ đầy cả miền Triết Ðông[24]

Bốn câu thơ trên được trích từ một bài thơ mà Tô Ðông Pha đã làm để tặng cho người bạn thân thiết của mình là Văn Trưởng Lão Phương Trượng

Tô Ðông Pha và Hàn Mặc Tử dù cách xa nhiều thế kỷ, thế giới thơ cũng rất khác nhau. Cả hai cùng đau khổ nhưng sự đau khổ của mỗi người cũng khác nhau. Tô Ðông Pha đau khổsuốt đời cứ bị đày ải và lao tù, có lần còn suýt bị hành hình nữa. Còn Hàn Mặc Tử thì đau khổtuyệt vọng trước căn bệnh hiểm nghèo

Nhưng có một điều mà Tô Ðông Pha và Hàn Mặc Tử giống nhau, đó là cả hai, nói theo cách nói trong bài thơ của Tô Ðông Pha, thì cả hai đều bị đọa đày bởi những chân trời viễn mộng (Lao viễn mộng, mà Tuệ Sỹ đã dịch là đọa đày viễn mộng). 

Vậy ta thử xem Tô Ðông Pha định vứt bỏ thi ca, vứt bỏ chân trời viễn mộng đó vào núi để tìm kiếm cái gì? 

Ngày nọ có một người khách lạ đến hỏi Ðức Phật: 

“Những người thường lai vãng chốn rừng sâu. Những bậc thánh nhân cả đời sống trong đạo hạnh. Mỗi ngày chỉ ăn có một lần.

Tại sao các vị ấy trông có vẻ tự tại? Xin Ngài chỉ cho?

Ðức Phật đáp:

Những vị ấy không than van sầu muộn những chuyện đã qua, không nóng nảy khát khao những gì chưa đến, mà chỉ tập trung tâm trí vào hiện tại. Do đó các vị ấy được tự tại”.

Tô Ðông Pha và Hàn Mặc Tử chưa bắt được cái giây phút hiện tại vĩnh cửu ấy, cho nên vẫn còn đau khổ chăng?

Chắc chắn phải trải qua nhiều cuộc chiến đấu phi thường với chính bản thân mình, phải vượt qua nhiều cám dỗ rất vi tế, vi tế đến nỗi mà tâm thức cứ tưởng đó là chân thật. Nhưng thật ra đó chỉ là hoa đơm đớm giữa hư không, là ảo ảnh (trong đó có ảo ảnh về cái đẹp (Lao viễn mộng) của các thi nhân) nên Ðức Phật mới sử dụng được một thứ ngôn ngữ vô cùng giản dị để khẳng định giây phút an lạc của hiện tại vĩnh cữu của chính mình một cách đầy uy lực như vậy.

Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai, nếu hiện tại của ngày hôm nay con người không chịu nỗ lực để loại bỏ những điều xấu xathấp hèn ở trong chính bản thân mình.

Bởi thế cho nên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi cái an lạc của hiện tại vĩnh cữu mà bậc Trí giả trầm lặng của dòng Thích Ca đã công bố cách đây trên 20 thế kỷ vẫn là “điểm hẹn” không chỉ trong thế kỷ 21 này mà chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong những thế kỷ sau nữa. Vì chẳng phải Albert Einstein nhà Vật lý học lỗi lạc của Mỹ, người đã đoạt giải Nobel về Vật lý năm 1921 đã tiên đoán rằng:”Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ” (The religion of the future will be a cosmic religion) và Albert Einstein đã tự trả lời Tôn giáo ấy chính là Phật Giáo:”Nếu có một Tôn giáo nào thích hợp được với những nhu cầu của nền khoa học hiện đại thì tôn giáo đó chính là Phật Giáo” (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism)[25] đó sao?

Mùa Sen nở 2548

 

Chú thích: 

[1] Lịch sử triết học Phương Ðông, tập 3 của Nguyễn Ðăng Thục, lời tựa. NXB. Tp.HCM, năm 2000.

[2] Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây Phương, của Lê Tôn Nghiêm, tr.16. NXB. Lá Bối, Sài Gòn năm 1969.

[3] Chép theo trí nhớ 

[4] Tuấn Huy trong đặc san tưởng niệm Bùi Giáng lần thứ 4 (2002), tr. 54, nhiều tác giả

[5] Nt. Tr. 50

[6] Nguyễn Hiến Lê dịch 

[7] Nguyễn Hiến Lê dịch

[8]Lịch sử văn minh Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê dịch, tr. 83-84. NXB. Trung tâm thông tin Ðại học Sư phạm, Tp. HCM năm 1999. 

[9] Ðức Phật và Phật Pháp của Narada Thera, Phạm Kinh Khánh dịch, tr.382. NXB. Tp. HCM.

[10] Nt. Tr.96

[11] Ðức Phật đã dạy những gì của WalPola Rahula, Thích nữ Trí Hải dịch tr.196-198. NXB Tôn giáo, Hà Nội năm 2000. 

[12] Ðức Phật đã dạy những gì của WalPola Rahula, Thích nữ Trí Hải dịch tr.196-198. NXB Tôn giáo, Hà Nội năm 2000.

[13] Câu chuyện Triết học của Will Durant, Trí Hải dịch tr.39 và tr. 41, NXB. Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1971.

[14]Câu chuyện Triết học của Will Durant, Trí Hải dịch tr.39 và tr. 41, NXB. Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1971. 

[15] Ðức Phật giữa chúng ta của Trần Ngọc Ninh tr.69 NXB Lá Bối, Sài Gòn 1972. 

[16] Lịch sử văn minh Ấn Ðộ Nguyễn Hiến Lê dịch, tr.103, NXB Văn hoá Thông tin Tp. HCM năm 2003. 

[17] Trở về từ xứ Tuyết Nguyên Phong dịch, tr.109-110. 

[18] Ðường mây qua xứ tuyết, Nguyên Phong dịch, tr.62 

[19] Trường bộ Kinh, tập 2, HT Minh Châu dịch, NXB Tu thư Ðại học Vạn Hạnh, Sài Gòn 1967. 

[20] Kinh Thánh, chương thư luật trong Cựu Ước, Linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch. NXB. Dòng Chúa cứu thế, Tp. HCM 1976. 

[21] Những ngày và những lời dạy cuối cùng của Ðức Phật, HT Minh Châu dịch. NXB Ban tu thư Ðại học Vạn Hạnh năm 1967. 

[22] Trường bộ Kinh, Kinh Potthapada, HT Minh Châu dịch, NXB Tu thư Ðại học Vạn Hạnh 1967. 

[23] Một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử của Phạm Công Thiện, tr.28. NXB. Viên Thông, Hoa Kỳ năm 2000. 

[24] Tô Ðông Pha, những phương trời viễn mộng của Tuệ Sỹ, tr.144. NXB. Ca dao Sài Gòn năm 1973. 

[25] Chép theo trí nhớ trong tác phẩm Phật Giáo dưới mắt các nhà trí thức của Thích Tâm Quang dịch.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9958)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20509)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10343)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9924)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34408)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9634)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8711)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9797)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20449)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8755)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8863)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12109)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8997)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9260)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9895)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10620)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12475)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9335)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9193)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9318)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10457)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21998)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16604)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9536)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10191)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8388)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8832)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8626)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9132)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9606)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8614)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9448)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8357)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8469)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10186)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23629)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9574)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9003)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8339)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8530)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7972)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8801)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10061)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8643)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8625)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30058)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24170)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9270)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9633)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9502)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9069)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28205)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8885)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9657)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9343)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9643)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30896)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27122)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32712)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34004)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12467)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58679)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10655)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13940)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14209)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10763)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28151)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23277)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant