Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thông điệp sự ra đời của Phật

16 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10437)
Thông điệp sự ra đời của Phật

THÔNG ĐIỆP SỰ RA ĐỜI CỦA PHẬT

Thích Thông Huệ

blankVào ngày trăng tròn cách đây trên 25 thế kỷ, có một bậc vĩ nhân xuất hiện ở đời. Đó là Thái Tử Sĩ Đạt Ta, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni

Ngài sinh vào cung vua Tịnh Phạn, năm 563 trước Tây Lịch. Cuộc đời Ngài từ lúc sinh cho tới lúc nhập diệt là một cuộc đời hết sức đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Ngài đã đi vào quá khứ, nhưng đức tính và trí tuệ của Ngài vẫn còn mãi với con ngườicuộc đời. Hôm nay là ngày Phật đản chúng ta cần ôn lại một đôi điều trong các kinh điển Phật giáo để hiểu được ý nghĩa sự ra đời của Đức Từ Phụ, nguyện noi gương Ngài luôn tinh tấn trên bước đường tự lợi tự tha. Theo truyền thuyết khi sinh ra đi được bảy bước, mỗi bước có hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, Ngài đọc bài kệ như sau:

Thiên thượng thiên hạ
Duy ngã độc tôn
Nhất thiết thế gian
Sinh lão bệnh tử

Tạm dịch :

Trên trời và dưới trời
Chỉ có Ta trên hết
Tất cả trong thế gian
Đều sinh lão bệnh tử

Những hình ảnh trên đây mang nhiều ý nghĩa rất thâm sâu. Vì sao Thái Tử Sĩ Đạt Ta đi bảy bước mà không nhiều hoặc ít hơn? Con số bảy nói lên điều gì? Về mặt thời gian, người ta thường cho là có ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Về không gian thì có bốn phương chính Đông, Tây, Nam, Bắc. Những quan niệm về thời giankhông gian, thật ra chỉ là con đẻ của vọng tưởng, không phải lẽ thật. Cho nên hình ảnh Thái tử đi bảy bước tượng trưng Ngài đã siêu vượt được thời giankhông gian, không còn bị ràng buộc trong những qui ước tương đối của con người.

Về hoa sen, tất cả Phật tử đều biết một đặc điểm rất tuyệt vời của nó, là mọc từ bùn nhơ mà vươn lên rồi tỏa hương thơm ngát. Hoa sen ở trong bùn mà không bị lấm bùn, không bị bùn nhơ làm ô nhiễm.

"Giữa đống rác nhơ bẩn
Nơi ấy hoa sen nở
Làm đẹp ý mọi người…"

Thái tử cũng thế, sinh vào chốn trần lao để làm lợi ích cho chúng sanh nhưng không bị vướng mắc, nhiễm nhơ bởi bùn lầy ngũ dục . Bài kệ bốn câu Ngài đọc đã làm một số người hiểu lầm. Đạo Phật là đạo vô ngã, tại sao vị giaó chủ lại đề cao cái "ta" của mình quá đáng như thế? Nếu đọc kỹ hai câu sau, chúng ta mới thấy cái ý nghĩa uyên áo trong đó. Tất cả chúng sinh không ai thoát được bốn điều khổ não là sinh, già, bệnh, chết, dù ở cõi chư Thiên (trên trời) hay cõi người (dưới trời). Chỉ riêng "ta" là trên hết, vì "ta" đã thoát được sự ràng buộc này. Thử hỏi tất cả những hình tướng của thế gian, cái gì không chịu sự chi phối của lý vô thường? Có sanh thì có diệt, có hình tướng thì phải có huỷ hoại, dù là thân hình có 38 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Thái Tử. Vì thế cái "ta" ở đây dứt khoát không phải là cái ngã hữu hình hữu hoại của Ngài, mà chính là cái "Chơn ngã". Đó là chơn tâm, Phật tánh, là bản tâm thanh tịnh, là Phật tri kiến, là tâm viên giác, là bản lai diện mục… Nó còn vô số tên vì bản chất nó không có tên. Nó không có hình tướng nên không thể bị hủy diệt. Nó trùm khắp vạn hữu nên siêu việt cả không gianthời gian. Tất cả mọi hàm linh đều có cái ngã này, không ai hơn không ai kém, Phật đã nhận ra và sống viên mãn với nó nên Ngài thành Phật, còn chúng ta vì quên nó nên cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.

Hiểu được những điều này, chúng ta thấy mình được đôi phần an ủi. Nếu chúng ta ngồi trong tư thế thiền toạ, tâm an định không bị vọng tưởng lôi dẫn thì rõ ràng ngay lúc ấy chúng ta cũng ngồi trên toà sen. Nếu chúng ta đi từng bước thiền hành, tâm an trú trong giờ phút hiện tại mà không duyên theo các pháp, thì mỗi bước đi của chúng ta cũng có hoa sen nâng chân. Và nếu chúng ta luôn luôn tinh tấn, gội rửa dần từng lớp bụi ngũ dục, ở trong cuộc đời mà không bị nhiễm ô theo trần cảnh, thì một lúc nào đó, ánh trực giác đột nhiên bừng lên, bóng tối vô minh từ bao đời kiếp sẽ bị xua tan không còn dấu tích.

Trong kinh A Hàm có câu:

"Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường đã xuất hiện trên thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi íchhạnh phúc cho chư Thiên và loài Người". Vì sao Đức Phật gọi là "một chúng sinh"? Ở đây ta phải hiểu chữ "chúng sinh" theo nghĩa, các hình tướng do nhiều pháp hợp lại mà thành. Như vậy, thân tướng của Đức Phật, dù vẻ đẹp và tướng tốt, cũng là do tứ đại giả hợp mà thành, cũng bất tịnhvô thường như mọi người. Do đó Ngài cũng là con người, là chúng sinh; nhưng khác với chúng ta ở chỗ, Ngài là một con người phi thường, một chúng sinh duy nhất. Bởi vì Ngài là một chúng sinh duy nhất không còn tham sân si, không còn lậu hoặc phiền não. Bởi vì Ngài là một con người tuy sinh ra nơi chốn trần lao, nhưng tự tại với tất cả mọi cám dỗ của ngũ dục lục trần. Sự xuất hiện của Đức Phật nhằm mục đích cao cả, là vì lợi íchhạnh phúc của chư Thiênloài Người. Cuộc đời Ngài là tấm gương sáng chói về sự quên mình, để đem lại an lạc và chỉ bày chân lý tối thượng cho chúng sinh.

Kinh Pháp Cú –193, Phật dạy :"Khó gắp được Như Lai, không phải đâu cũng có. Chỗ nào Phật đản sinh nơi đó tất an lạc". Nếu cho rằng Như LaiĐức Phật có 32 tướng tốt, gọi là Như Lai xuất thế, thì quả thật rất khó gặp. Đức Phật Tích Ca ở Ấn Độ đã nhập diệt trên 2500 năm, đến nay chúng ta vẫn chưa thấy có một vị Phật nào khác ra đời. Nhưng nếu hiểu theo tinh thần kinh Kim Cang, Như Lai tức không từ đâu đến cũng không đi về đâu, nghĩa là phi sắc phi tướng, vô hình vô vật, thì khi chúng ta toạ thiền, tâm lặng lẽ mà hằng tri, thì ấy Như Lai đã hiện tiền. Một niệm tỉnh giác thì Đức Phật ra đời, vì Phật là Giác. Một niệm điên đảo chạy theo trần cảnh thì Đức Phật nhập diệt. Khi Như Lai tự tâm đản sinh, nghĩa là lúc tâm an định sáng suốt, thì rõ ràng nơi ấy tức khắc được an lạc.

Trong kinh Pháp Cú – 182: "Được sinh ra làm người đã là khó. Được sống lại càng khó hơn. Được nghe chánh pháp là khó. Được gặp Đức Phật ra đời là rất khó." Quả thật ,được làm thân người là khó, vì thế giới loài người gồm 4 châu nhân gian, còn các cõi khác như địa ngục, ngạ quỷ,… Nhưng cái khó ở đây là khó phát tâm tu hành, vì thường thì ở những nơi quá sung sướng (như cõi trời) hoặc quá khổ sở (như địa ngục), chúng sinh ít có điều kiện được nhắc nhở để tiến tu. Còn cõi người thì không quá sung sướng mà cũng không quá khổ cực, nhiều khi gặp những thăng trầm trong cuộc sống hay đau khổ mất mát, đó là những cơ hội để con người thấy rõ lý vô thường hay lý nhân quả, từ đó nguyện đi theo con đường Đức Phật dạy.

Trong bốn cái khó ở trên, được gặp Phật ra đời là khó nhất. Trong một thế giới không bao giờ có hai vị Phật xuất hiện đồng thời. Chỉ khi nào giáo pháp của vị Phật trước đã hết lưu truyền, thì vị Phật sau mới ra đời. Hiện nay, dù trong thời mạt pháp, chúng ta không tận mắt thấy được ứng hóa thân của Phật, nhưng chúng ta vẫn còn nghe chánh pháp, vẫn còn chiêm ngưỡng được dung nhan của Ngài qua hình tượng. Cho nên, nếu có ai tự xưng là Phật, giảng pháp cho người người khác, hoặc phao tin sắp có hội Long Hoa, Phật Di Lặc ra đời… thì đó là những lời dối trá, mê hoặc người đời, nhằm phục vụ cho một ý đồ đen tối nào đó. Sự thị hiện của ứng hóa thân Phật trên cõi đời là một sự kiện hiếm gặp, là điều vị tằng hữu (chưa từng có). Nhưng chúng ta có khi nào tự hỏi, Ngài xuất hiện trên đời để làm gì? Trong kinh pháp hoa, Phật dạy: "Chư Phật xuất hiện ở đời chỉ vì một đai sự nhân duyên: Khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến". Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác. Từ đó sẽ nhận ra và hằng sống được với Phật tánh của chính mình một cách viên mãn.

Kinh Phạm Võng Trường Bộ tập 1, Phật dạy rằng: "Này các Tỳ kheo! Thân của Như Lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác thường đã bị chặt đứt. Khi thân của Như Lai còn tồn tại, thì chư Thiênloài Người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung, thì chư Thiênloài người không thể thấy được". Khi Đức Phật còn tại thế, thân 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Ngài là một điều kiện tốt để dễ gần và dễ giáo hoá những chúng sinh căn cơ thấp kém. Vì chìu uốn theo tánh dục của chúng sinh nên Ngài phải thị hiện sắc thân như thế. Nhưng dù thân ấy còn tồn tại, mà cái nghiệp lực thúc đẩy thọ lãnh thân sau đã không còn. Chính lòng ái dục đã tạo dòng nghiệp lực khiến đưa đến một đời sống khác, với chánh báoy báo tương ưng. Ứng hoá thân của Phật, vì có hình tướng nên chư Thiênloài Người có thể thấy được. Khi thân ấy đã hoại, Đức Phật trở về với pháp thân vô tướng nên không ai có thể thấy được Ngài. Tất cả chúng ta đều có pháp thân vô tướng như thế, vấn đề ở chỗ chúng tanhận ra không và tu hành cách nào để có thể sống được với nó, niêm mật từng phút giây.

Chúng ta đã xét qua ý nghĩa về sự đản sinh của Đức Phật, để thấy rõ rằng sự xuất hiện của Thế Tôn, vị giáo chủ của chúng ta, là một việc hy hữu ở đời. Cứ mỗi lần mùa Khánh đản đến, người Phật tử về chùa, nghe quý thầy nhắc lại về cuộc đời và những đức tính cao đẹp của Ngài, chúng ta mới biết rằng Ngài đã trải qua vô lưọng kiếp tu hành, cuối cùng mới thị hiệnThái tử Sĩ Đạt Ta ở Ấn Độ, sau thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một bậc vĩ nhân, đã để lại một hình ảnh không bao giờ phai mờ trong lòng những người con Phật khắp năm châu bốn biển. Vì cuộc đời Ngài quá vĩ đại và đẹp đẽ, nên từ xưa đến nay, biết bao người đã dùng mọi hình thức văn hoá để ca tụng cái toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của Ngài. Biết bao người đã nguyện noi gương Ngài, quên mình để phụng sự chúng sinh, hy sinh hạnh phúc riêng tư để lo cho hạnh phúc của nhiều người. Những sứ giả của Như Lai đã mang thông điệp của Đức Phật đi vào cuộc đời, làm cho con người hiểu được bản chất của kiếp sống là vô thường, là đau khổ, từ đó thúc giục con người sớm theo lời dạy của Ngài tu hành để được giác ngộgiải thoát.

Hôm nay, một lần nữa kỷ niệm ngày Phật Đản, chúng ta đem hết tâm thành quy ngưỡngđảnh lễ Ngài. Chúng ta thấy mình rất có phước duyên nên mới được làm người, được thấm nhuần dòng sữa pháp, được chư Tăng Ni hướng dẫn tu hành, được làm bạn đạo cùng những người hiền thiện. Chúng ta nguyện nhớ mãi hình ảnh Ngài bước trên hoa sen khi mới ra đời, để noi gương Ngài cũng bước từng bước an lạc thảnh thơi trên những bất ổn của cuộc sống. Thân ngũ uẩn của chúng ta tuy ở trần thế, nhưng phải biết vươn lên không để bùn nhơ của ngũ dục làm ô nhiễm. Từ đó chúng ta sẽ góp phần thổi một luồng sinh khí mới vào cuộc đời, khiến mọi người cũng được an lạchạnh phúc. Đây là cách duy nhất để đền đáp ơn khó của Đức Bổnvô cùng quý kính của chúng ta.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15582)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23033)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14060)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12984)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55117)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9176)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14448)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14167)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14209)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36327)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19891)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18178)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19162)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20292)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17641)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31538)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15944)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15025)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14695)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46179)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35946)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21614)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23407)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34388)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19492)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22943)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20197)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18375)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19846)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19537)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33430)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34491)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54528)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37735)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21139)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17891)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17392)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49666)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27458)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20279)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23042)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16328)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17925)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17371)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14477)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16868)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21986)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13508)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14376)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15404)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15000)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12702)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27399)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12517)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13198)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12412)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15425)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12871)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12206)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21657)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11285)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22735)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15087)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14953)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46195)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22464)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14588)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12624)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18909)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14743)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43870)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56978)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13847)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47506)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13661)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29017)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33324)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38391)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15408)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31237)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12533)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40396)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43425)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46669)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant