Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Mật Giáo Tâm Yếu

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15676)
2. Mật Giáo Tâm Yếu


BỘ MẬT TÔNG (Bốn Tập)
Dịch Giả:Tỳ Khưu Thích Viên Đức

A. TẬP MỘT
HIỂN MẬT VIÊN THÔNG
THÀNH PHẬT TÂM YẾU

II. MẬT GIÁO TÂM YẾU 

Gồm có các bộ như: Thần Biến Sớ Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Ðà ra ni giáo là Mật Viên vậy. Hiển giáo viên tôn về phần trước, nói sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau y ngộ, tu Phổ Hiền Hạnh Hải, lìa được sanh tử, chứng được nhập thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được phương thuốc tốt, cần phải biết phân, lượng, phép tắc bào chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an. 

Nay Mật Viên Thần chú, tất cả chúng sanh cho đến nhơn vị Bồ Tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Ðược lìa sanh tử, thành tựu mười thân vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được món diệu dược. Tuy không biết phân lượng phép tắc hoà hợp; chỉ uống thuốc là tự nhiên trừ bịnh, thân an. Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Mật chú của chư Phật là phép bí mật; chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau; các vị Thánh không thể thông đạt. Chỉ tụng trì là diệt được đại lỗi, mau lên Thánh vị.” Lại nói rằng: “Thần chú là Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác không thể thông hiểu.” Hiền Thủ Bát nhã sớ nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ hiểu của nhơn vị”. Chỉ tụng trì không cần phải gượng giải thích. Còn Viễn Công Niết Bàn Sớ nói rằng: “Chơn ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Phiên dịch lại không hiểu, vì vậy nên không phiên giải!”. Trong Thiên Thai Chỉ Quán nói rằng: “ Bậc Thượng Thánh mới có thể nói cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm nhơn chỉ tuyên truyền Hiển giáo, không thể tuyên truyền về mật giáo. Các Sư từ xưa đều nói: “Ðà Ra Ni, nhơn vị Thánh Hiền, không thể hiểu giải, chỉ nên tin mà thọ trì, diệt được tội chướng, thành tựu phước đức.” 

Hỏi: Vì sao, Mật chú của chư Phật không thể giải thích cho người khác hiểu? 

Ðáp: Thần chúviên mãn giải là phiến diện. Giải làm cho chú mất; bởi vậy nên không giải thích cho người khác rõ được, mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ. Trong Pháp Hoa Sao nói rằng: “Về bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó được, cho nên nói là Mật ngôn”. Bát nhã kinh nói: “Tổng trì như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời trị lành các bịnh sai lầm, uống thì thường an vui. 

Lại trong Lý Thú kinh, đức Như Lai có nói năm tạng: 

1)Kinh Tạng: Như sữa bò. 
2)Luật Tạng: Như sữa đặc. 
3)Luận Tạng: Như sữa tươi. 
4)Bát Nhã Tạng: Như sữa chín. 
5) Ðà Ra Ni Tạng: Như đề hồ

(Ðề hồ là vị đã lọc, nó ngon nhất trong các món ăn bằng sữa; trị được các bịnh, khiến các hữu tình thân tâm an vui. Ở Tây Thiên Trúc thường dùng đề hồ để trị các bịnh.) 

Ðà Ra Ni trong các Kinh, Luật là tối thắng, đệ nhất, hay trừ các tội giúp cho các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng Niết Bàn, An-Lạc pháp thân. Lý Thú kinh sớ nói rằng: “Tánh Ðức Lực Ðại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém, giải thoát thì mau.” Các đại sư như: Hiền Thủ v.v… chỉ cho Hoa Nghiêm kinh là Viên, các giáo khác đều không phải. Nay lại cho Ðà Ra Ni là Viên giáo, vậy không trái với Hiền Thủ cùng các đại sư khác sao? 

-Ðáp: Viên tông có hai: 

1)Hiển viên. 
2)Mật viên. 

Hiền Thủ chỉ căn cứ vào Hiển giáo chánh phán Hoa Nghiêm là Viên. Nay có Thần Biến sớ sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống như các thứ Hiển viên, Mật giáo cũng là Viên tông. Hiển Mật đã khác mà các sự không trái. Y theo Mật Viên tu luyện cũng chia làm hai: 

1)Trì tụng nghi quỹ
2)Nghiệm thành hành tướng

Trước hết nói về Trì Tụng Nghi Quỹ: Chơn Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp trì tụng, trước hết phải ngồi Kim Cang chính tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên chân bên tả, hoặc tùy ý ngồi sao cũng được.) Tay kiết Ðại Tam muội ấn (Lấy hai tay ngửa ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái giáp lại nhau, để ngang dưới rún, ấn này hay diệt tất cả cuồng loạn, vọng niệm, tư duy tạp nhiễm.) Thân tam lắng tịnh, nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân trên đảnh đầu ta có một chữ Phạn LAM (Trong sách có ghi ra Phạn tự, song không thể đánh máy bằng vi tính được. Nếu hành giả nào muốn thực hành, xin tìm sách để nghiên cứu thêm) 

Chữ này biến ra ánh sáng quang minh, như ngọc Minh châu, như mặt trăng rằm tròn sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái kiết ấn: Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón tay cái để trong lòng bàn tay bấm lại đốt vô danh chỉ giáp lòng bàn tay, rồi nắm chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng nhiễm, thành tựu tất cả công đức.) Tay mặt cầm chuỗi ký số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108 biến. Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn trì Lam hay là Lãm 

Tịnh pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường khiến tam nghiệp đều được thanh tịnh; tất cả tội chướng đều được tiêu trừ. Lại hay thành tựu tất cả việc thù thắng; ở chỗ nào cũng được thanh tịnh. Y phục bất tịnh khiến thành tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là Chơn tịnh. Nếu dụng tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi là bình thanh tịnh triệt để. Như một hạt linh đơn điểm vào sắt thành vàng ròng. Chơn ngôn một chữ biến nhiễm thành tịnh. Kệ rằng: 

Ra tự sắc tiển Bạch. Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc trắng tịnh, điểm vào chỗ không để trang nghiêm nó, Phạn tự RA điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM tự. 

Như Minh châu trên nhục kế, an trí tại đỉnh đầu; Chơn ngôn đồng pháp giới; vô lượng chúng tội trừ. Tất cả xúc uế, nên gia trì chữ này. Nếu thật ngoại duyên không đầy đủ, không nước để tắm rửa, thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM tự để làm cho sạch. Nếu người có ngoại duyên đầy đủ, trước dùng nước xong mặc y mới thanh tịnh, lại dùng LAM tự tịnh nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh. (Như các chơn ngôn Nghi quỹ nói.) 

Rồi tiếp tục tụng chú: Hộ thân chơn ngôn 21 hay 108 biến. Chơn ngôn, Phạn tự ÁN XỈ LÂM. Nếu tụng chú này, hay diệt ngũ nghịch, thập ác, tất cả tội nghiệp. Có công năng trừ tất cả bịnh, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỷ thần và các việc bất tường. Thành tựu các việc thù thắng; khiến tất cả mọi sự mong cầu đều được viên mãn. Chú này là tâm của chư Phật, nếu người chuyên tâm tụng một biến hay bảo hộ được chính mình. Tụng hai biến hay bảo hộ được đồng bạn. Tụng ba biến thường bảo hộ mọi người trong nhà. Tụng bốn biến bảo hộ mọi người trong một thành. Cho đến bảy biến hay bảo hộ người trong tứ thiên hạ

Rộng như Văn Thù Căn Bản Nhứt Tự Chú kinh nói. 

Kế đến tụng 108 biến Lục Tự Ðại Minh Chơn ngôn: ÁN MA NI BÁT DI HỒNG, ÁN MA NI BÁT MINH HỒNG hay MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG. 

Nếu tụng chú này ngay chỗ có vô lượng chư Phật, Bồ Tát, Thiên Long, Bát Bộ nhóm hội, đầy đủ vô lượng tam muội pháp môn. Ai tụng trì, thì bảy đời dòng họ đều được giải thoát; các trùng ở trong bụng sẽ được Bồ Tát vị. Người đó hằng ngày được đầy đủ công 

đức sáu pháp Ba la mật. Ðược vô tận biện tài trí huệ thanh tịnh. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó nhờ sự tiếp xúc xa lìa các sân độc, sẽ được Bồ Tát vị. Giả như: Người trong bốn thiên hạ, đều đắc Thất địa Bồ Tát vị. Các Bồ Tát đó có bao nhiêu công đức, sánh với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều bình đẳng không sai khác. Chú này là Vi diệu bổn tâm của Ngài Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ Ðại Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn bốn ngàn Pháp Tạng, cũng bằng công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng báu tạo tượng Như Lai, số như vi trần, không bằng công đức việt một trong sáu chữ này. Nếu người nào đã đắc sáu chữ Ðại Minh này, thì họ không còn bị nhiễm trước tham, sân, si. Nếu đeo Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham, sân, si. Người trì tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài hữu tình mà chân, tay người đó chạm đến, mắt người đó ngó đến, đều mau đắc Bồ Tát vị, không còn thọ các khổ sanh tử nữa. Khi nói xong Lục Tự Ðại Minh này, có Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất hiệnđồng thanh nói “CHUẨN ÐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết Lục Tự Ðại Minh cùng Chuẩn Ðề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau. (Rộng như Ðại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.) Nhiên hậu kiết ấn Chuẩn Ðề tại Tim. 

Chuẩn Ðề Chơn ngôn cùng Nhứt tự luân chú, một thời đồng tụng 108 biến xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không muốn tụng Ðại Luân Chú, chỉ trì Chuẩn Ðề Chơn ngôn cũng được.) 

CHUẨN ÐỀ PHÁP ẤN 

Lấy ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn với nhau vào trong lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón tay giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa ngón tay áp út bên mặt, để ngang ngực, chí tâm tụng chú Chuẩn Ðề và Ðại Luân Nhứt Tự, nếu muốn triệu thỉnh, đưa qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi kiết ấn, tụng chú, muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm. Hoặc trên tay của tượng Chuẩn Ðề Bồ Tát, hoặc quán tâm ký số, hoặc mười niệm ký số. Hoặc kiết ấn tụng được một nghìn tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến. Hoặc chỉ tay bên tả kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu cầm chuỗi trì số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ tán trì cũng có kết quả. 

Thất Cu Chi Phật Mẫu Ðại Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni Chơn ngôn: Nam Mô Tát Ða Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Ðề Cu Chi Nẫm, Ðát Ðiệt Tha. Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha. Bộ Lâm. 

Phật dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ thập ác ngũ nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách công đức. Trì chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ tịnh người uế; chỉ chí tâm trì tụng hay khiến chúng sanh đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La tật là bệnh nan y, còn trị lành, huống chi các bịnh khác; nếu không tiêu diệtkhông có lý. Nếu có ai tụng mãn bốn mươi chín ngày, Chuẩn Ðề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường theo người đó, kẻ nào có tâm niệm thiện ác, đều mỗi mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người vô phước trúng tướng cầu quan không toại ý, nghèo cùng khốn khổ, bức bách; thường tụng chú này sẽ khiến hiện đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn, truyện Ðăng Lục có trí dẫn người xưa) : “Cu chi chỉ niệm Tam Hành Chú mà được danh tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ được đại trí tuệ; cầu nam nữ được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều được xứng lòng và toại ý, giống như ngọc Như ý; tất cả tùy tâm mình muốn. Hơn nữa, tụng chug này thường khiến cho các quốc vương, đại thần và tứ chúng đều sanh lòng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng chú này, xuống nước không chết chìm, nạn lửa không thể đốt. Ðộc dược, oan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… chỉ tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau chậm trễ. Hoặc có sai khiến gì được như ý muốn. Thần chú này có thế lực lớn đối với Nam Thiệm Bộ Châu. Dời núi Tu Di; khô nước Ðại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh hoa quả, huống chi là người năng y pháp trì tụng, có thể chuyển nhục thân, được đại Thần túc, sanh về cõi trời Ðâu Suất. Nếu cầu trường sanh và các tiên dược, chỉ y pháp tụng chú, sẽ thấy được đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Kim Cang Thủ Bồ Tát trao cho thần tiên diệu dược, lấy đó mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Ðược sống lâu ngang bằng nhật nguyệt, chứng Bồ Tát vị. Nếu y pháp tụng mãn một trăm vạn biến, liền được đi mười phương Tịnh Ðộ, hầu hạ các vị Phật, nghe khắp diệu pháp, chứng được quả Bồ đề

Nếu muốn thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các Chơn ngôn khác, cần phải rộng tu cúng dường chỗ kiến lập đạo tràng phải cuốc đất hương nê : (bột hương trộn đất nhão để thoa khắp nơi đạo tràng). Ở đây chỉ dùng một cái kính tròn rất mới, chưa dùng (làm Kính đàn) để trước tượng Phật tùy theo tháng ngày tối Rằm; mặt hướng về phương Ðông, ngồi trước Kính đàn tùy sức trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông An tức hương, nước tịnh thủy, nhiên hậu kiết ấn để tại ngang ngực. Chú trong Kính đàn 108 biến Chuẩn Ðề, xong lấy bao vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tùy thân. Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước mặt, kiết ấn tụng chú. Nếu không thể tụng niệm hằng ngày, chỉ cần những ngày thập trai, đối Kính trì tụng cũng được. 

Ngoài mười ngày trai, không trì tụng trước Kính đàn cũng được. (Trong Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, Tổng nhiếp tất cả các Ðàn pháp. Nếu không có Kính đàn, chỉ tưởng một Kính đàn trước mặt mà trì tụng. Kinh Tịnh chư ác thú, cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành Ðàn pháp, trì tụng là hơn hết. Hoặc không tưởng được Ðàn pháp chỉ nên chuyên tâm trì chú. Các ngày thập trai: 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.) Chú Chuẩn Ðề này các Phật và Bồ Tát đều đồng nói. Ðộc Bộ Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn Ðàn Pháp, Chuẩn Ðề Phạn bổn Văn thuyết có mười vạn bài kệ. Ngài Long Thọ Bồ Tát nói bài kệ tán thán rằng: 

“Chuẩn Ðề Công Ðức tụ; 
Vắng lặng tâm thường tụng. 
Tất cả các đại nạn
Không thể xâm phạm người. 
Trên trờicõi người
Thọ phước ngang bằng Phật. 
Gặp chây Như Ý này, 
Ðắc định, chứng Bồ đề

(Rộng như Chuẩn Ðề kinh và Trì Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói: Chuẩn Ðề cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là Phạn âm bất đồng mà thôi.) 

Chú Ðại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời mạt pháp. Ðối với thời mạt pháp, khi chánh pháp sắp diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế gian làm đại lợi ích, hay hộ trì Pháp Tạng của Như Lai, hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ gãy tất cả các ác chú trong thế gian. Ðây là đảnh của các Ðức Phật, là tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu trì sẽ tùy ý đắc quả, giống như ngọc Như Ý. Có công năng làm mãn nguyện tất cả. Nếu tụng chú này, nhìn thẳng bốn phương, các ác quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các ác tinh diệu và các Thiên ma không dám lại gần. Nếu trì tụng các chơn 

ngộn khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn ngôn khác đồng thời trì tụng, nhất định sẽ kết quả. Nếu không thành tựuhiệu nghiệm thì các vị thần hộ chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả. Hoặc trì riêng chú này cũng được. (Rộng như Văn Thù Nghi kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú kinh nói.) 

Từ trước đến giờ lần lượt trì tụng đến Chuẩn Ðề chú; nếu không kiết được ấn chú Chuẩn Ðề, thì lấy tay trái kiết ấn Kim Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà trì tụng. Hoặc không theo sau, trước tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn lần lượt thọ trì, chỉ trì Chuẩn Ðề Thần chú, hoặc căn độn không thể thọ trì đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án trở xuống mà trì, nên chữ Án là lời quy kính. Từ chữ Án v.v… là chánh Thần chú vậy. Mỗi khi trì tụng rồi, liền dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang, miệng tụng Hồng Hồng Chơn ngôn cho liên tiếp mà ấn vào năm chỗ: 

1-Ấn trên trán. 
2-Ấn vai phía trước. 
3-Ấn vai bên mặt. 
4-Ấn tại nơi ngực. 
5-Ấn ở yết hầu. 

Ấn xong xả ấn lên trên đỉnh đầu. 

Hay trừ các ma chướng, thành tựu tất cả thắng sự. Hoặc trước khi trì tụng, kiết ấn trước năm chỗ rồi trì tụng. Lại nữa, tùy theo chỗ trụ xứ, muốn bài trừ Thần Quỷ, kiết Kim Cang giới. Chỉ tụng Chuẩn Ðề Chơn ngôn, gia trì chú trong hương thủy (nước hương thơm) 21 biến rồi đem rải vào tám phương trên dưới liền thành tịch trừ kiết giới. Lại khi chánh trì tụng, căn cứ theo Cu Chi Ðà Ra Ni kinh, Kim Cang Ðảnh kinh, Ngũ Tự Ðà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh đó có nói, theo căn cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ. 

1)Du Dà Trì:Chỉ tưởng có chữ hiện ra trong tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng tự tâm mình như một mặt trăng tròn vắng lặng, thanh tịnh, trong ngoài phân minh. Lấy Phạn thư Án tự, an trong tâm nguyệt luân; lấy Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề Ta Bà Ha tự; theo trước xoay về phía bên hữu, lần lượt hiện khắp theo một vòng tròn (đọc cao giọng xong rồi trở lại từ đầu) 

2)Xuất nhập tức trì: Nghĩa là trong hơi thở ra vào, tưởng có Chơn ngôn Phạn tự. Hơi thở ra theo chữ ra, hơi hít vào theo chữ vào. Chữ chữ, sáng rõ như xâu chuỗi ngọc minh châu, không được gián đoạn. (Hoặc khi thở hơi ra, tưởng tượng trong tâm như mặt trăng tròn sáng: Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ trong miệng mình lưu nhập vào trong miệng đức Chuẩn Ðề Bồ Tát, xoay quanh bên hữu, an bố trong tâm nguyệt luân của Chuẩn Ðề Bồ Tát. Nếu khi hít vào tưởng chữ trong tâm nguyện luân của Ngài Chuẩn Ðề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tròn liền nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm sắc, từ miệng của Chuẩn Ðề Bồ Tát tuôn ra, lưu nhập vào trong miệng mình, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm nguyệt luân. Xong rồi trở ra từ đầu, rất là nhiệm mầu.) 

3)Kim Cang Trì: Môi, răng không động, lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong miệng. 

4)Vi Thinh Trì: Chỉ khiến cho tai mình tự nghe: không chậm, không mau, từng chữ phân minhxưng niệm

5)Cao Thinh Trì: Khiến kẻ khác nghe được diệt tội, lại có hai cách trì tụng: 

1- Vô số trì tụng: Nghĩa là không trì chuỗi định số, thường trì luôn không gián đoạn

2- Hữu số trì tụng: Nghĩa là lần chuỗi trì tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu, không được thiếu sót

Nếu lần chuỗi trì tụng, chỗ thu hoạch công đức, như các kinh rộng khen ngợi. Như kinh Số Châu Công Ðức nói: Nếu có người tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Ðà Ra Ni, người ấy cũng được phước vô lượng. Và trong kinh Kim Cang Niệm Châubài kệ rằng: “Nếu để trên đỉnh đầu tịnh tội vô gián, đeo trên cổ diệt được bốn trọng nghiệp, trì nắm tay sẽ trừ các tội giúp cho hành giả mau thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Ðảnh Luân Nghi có nói: “Nếu dùng LAM TỰ Chơn ngôn gia trì số châu bảy biến, khi hành trì một biến thành nghìn biến, nếu lần chuỗi đến hột mẫu châu, phải trở lại không được vượt qua mẫu châu). Mỗi ngày y pháp trì tụng, cần phải phân thời hạn định. Nếu như một thời, thì buổi sớm mai. Hai thời thì thêm buổi hoàng hôn. Nếu trì ba thời thì thêm buổi chánh ngọ. (Nếu công việc bận rộn, không cần phải phân thời, lúc nào trì tụng cũng được.) 

Nếu hạng thượng căn trì tụng, cần phải được Tam mật tương ưng

1) Thân mật: Kiết ấn
2) Ngữ mật: Tụng chú
3) Ý mật: Hoặc tưởng Chơn ngôn Phạn tự, hoặc duyên nghe theo tiếng trì tụng. 

Hoặc tưởng tượng đức Chuẩn Ðề Bồ Tát, hoặc tưởng trong tay của Bồ Tát cầm các vật như xử, bình, hoa, quả v.v… Cho nên Thần Biến Kinh Sớ nói: Nếu dùng Tam mật làm môn tu hành; không cần tu trải qua nhiều kiếp số, đủ tu các hạnh, chỉ nơi đời này đầy đủ các Ba la mật rồi. Lại nữa, khi đang trì tụng chưa đủ 108 biến, không được nói chuyện với ai. Còn nếu muốn nói chuyện thì phải tưởng trên lưỡi mình chữ phạm LAM, dù cho nói chuyện cũng không bị gián đoạn

Hỏi: Chỉ trì tụng nhứt đạo Chơn ngôn sẽ thành tựu hay phải rộng trì nhiều bổn Chơn ngôn mới được thành tựu công đức? 

Ðáp: Có hai môn: 

1)Tùy căn cơ ưa muốn: Căn cơ có nhiều sự ưa muốn bất đồng. Hoặc ưa trì 3, 5, 10 đạo cho đến 100 đạo v.v… Trong đó tùy căn cơ ưa muốn không đồng, đều được trì tụng. 

2)Muốn mau chóng thành tựu: Muốn cầu tất cả công đức mau thành tựu, nên chuyên trì tụng nhứt đạo Chơn ngôn cho thành, thời tất cả Chơn ngôn công đức đều thành tựu.

Cho nên kinh Văn Thù Nghi Quỹ có nói: Nếu muốn tất cả công đức thành tựu, không được dùng Chơn ngôn mà khởi tư tưởng như trên, tuy có số đạo Chơn ngôn, nhưng đó là thứ lớp trì tụng với Chuẩn Ðề Chơn ngôn

Hỏi: Ðã chuyên tụng một Thần chú mau được thành tựu, vì sao lại hay bày vẽ Chuẩn Ðề ngôn cho người trì tụng? 

Ðáp: 1- Vì Chuẩn Ðề Chơn ngôn bao gồm tất cả các Chơn ngôn, và bao hàm tất cả các Thần chú. Các chú không bao hàm được Chuẩn Ðề như biển lớn hay nhiếp trăm sông chứ trăm sông không thể thu nhiếp biển lớn (Chuẩn Ðề tổng hàm các chú sau đây sẽ rõ.) 

2- Vì Chuẩn Ðề Ðàn pháp người dễ làm thành tựu. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng dùng, ấy là Ðàn pháp . Không đồng như các chú, phải kiến lập đàn pháp , cần phải lựa chọn nơi tịnh xứ hương nê đồ địa, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ mới có thể thành tựu. (Người có tài vật, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường đầy đủ, nơi trước tượng Phật, an trí Kính đàn, đối trước trì tụng lại càng nhiệm mầu.) 

Vì Chuẩn Ðề không cần lựa tính cách nhiễm tịnh để trì tụng, chẳng luận tại gia, xuất gia, đã lỡ uống rượu, ăn thịt, có vợ con v.v… đều trì tụng được. Không giống các Thần chú khác cần yếu phải trì giới mới hay tụng tập. (Nay vì những kẻ thế tục đeo mang vợ con, uống rượu, ăn thịt, ấy là thường nghiệp của họ. Tuy gặp kẻ Tăng nhơn dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà cải đổi. Nếu không dùng Ðại bất tư nghì chú pháp này cứu thoát, thì những kẻ như vậy biết ngày nào ra khỏi sanh tử. Còn những ai, trai giới thanh tịnh y pháp trì tụng, lại là thù thắng nhiệm mầu hơn hết. Trong kinh Chuẩn Ðề nói: Huống là trai giới đầy đủ, y pháp đầy đủ để trì tụng, không chuyển, không thân vãng đến Tứ thiền, sẽ được đại Thần túc ấy.) 

Sở dĩ thế nên dạy nhiều về Chuẩn Ðề Chơn ngôn, khiến người trì tụng. Nếu muốn trì các Chơn ngôn khác, tùy tâm đều được, đừng định chấp một bên nào vậy. (Tuy chuyên tụng nhị chú, trước hết cần phải khởi tâm viên tín: Ngũ bộ Thần chú, đều là pháp môn thành Phật. Nếu thiếu tin một bộ, trở thành hủy báng Phật pháp). Lại nữa, Chơn ngôn hành giả, mỗi ngày đối trước Kính đàn, như ban đầu trì tụng; hoặc chỉ y như trước tiên, tưởng trên đầu của mình có chữ Phạn LAM tròn sáng như Minh Châu, nhiên hậu mới trì khóa. Lại căn cứ theo kinh Ðại Thừa Quán Tưởng Mạn Noa La, kinh Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Qũy cùng với kinh Tôn Thắng Phật Ðảnh Tu Du Dà pháp cùng nhiều kinh khác đến mấy chục bộ, trong đó nói: Hoặc tưởng trên đỉnh đầu của mình có chữ LAM, biến thành lửa ba góc; đốt hết thân mình từ đỉnh đầu tới chân; khắp pháp giới chỉ thấy thanh tịnh, dù có ngũ vô gián tội, dụng chữ này đốt thân, cũng đều trừ diệt không sót. Tiếp đó, nên tưởng chữ Phạn A, sanh thành tự thân. (Chữ A tức là thể; tức vô tướng pháp giới, từ vô tướng đó sanh thành thân hành giả.) Lại một chữ ÁM, mang kết trong thập tự đảnh môn (Nghĩa chữ Ám tức là thể, nước quang minh của mười phương chư Phật để rưới lên đỉnh đầu của Phật tử. Ðây là bí mật quán đảnh trong pháp môn, nhiên hậu trì tụng. Hoặc tưởng tự tâm như mặt trăng tròn sáng, thanh tịnh, mặt trăng ấy có một chữ Phạn ÁN) 

(Trong Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành Chánh giác. Chữ Án hàm đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng chữ này mà được thành Phật.) Hoặc trong tâm Nguyệt luân tưởng một chữ A, (Chữ A này là Ty Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề tâm, nếu người tưởng niệm thì pháp sinh được vô lượng công đức.) Hoặc tưởng trong tâm Nguyệt luân một chữ Hồng (chữ Hồng tổng nhiếp Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn. Là chủ thân Kim Cang bộ, cũng là ba giải thoát môn. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ tất cả tội chướng, thành tựu các công đức.) Hoặc trên lưỡi tưởng một chữ LAM, hay chữ HỒNG, tưởng xong rồi sẽ tụng trì. Hoặc tưởng trên cổ mình phát xuất hoa sen lớn, trên hoa sen xuất hiện chữ A; lại tưởng chữ A biến thành mặt trăng tròn; tưởng nơi mặt trăng đó biến thành chữ HỒNG, chữ Hồng này biến ra năm chùy Kim Cang, lại tưởng cái chày này dời lên trên cái lưỡi, gọi là lưỡi Kim Cang. Nhiên hậu trì tụng (Kế đó tay cũng tưởng chữ A, A lại biến thành Nguyệt luân, Nguyệt luân biến thành HỒNG tự, chữ Hồng biến ra sắc trắng năm chày Kim Cang mới gọi là tay Kim Cang, sau đó kiết tất cả ấn.) Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạn Chuẩn Ðề mỗi một chữ có các thứ ánh sáng An trong tự thân phần; nghĩa là tưởng chữ ÁN, an trên đỉnh đầu; chữ Chiếc, an nơi hai con mắt, chữ LỆ, an tại cổ, chữ CHỦ, an nơi tâm. Chữ Lệ, an nơi hai vai chữ CHUẨN, an nơi rún; chữ ÐỀ, an nơi hai bắp về; chữ Ta Bà, an nơi hai cổ chân và chữ HA, an tại hai bàn chân. Tưởng An bố khắp nơi rồi, nhiên hậu trì tụng.(Kinh Trì Minh Tạng Thành Tựu Nghi Quỹ nói: Nếu kẻ nào muốn thành tựu trong pháp Chuẩn Ðề Bồ Tát, trước hết quán Chuẩn Ðề Bồ Tát căn bổn vi diệu tự luân, trên thân mình mỗi một chữ ở vào một chỗ rõ rệt, thân đời trước ngươi đó có tạo tất cả tội nghiệp, thì cũng được trừ diệt. Phàm có sở cầu, quyết định thành tựu, pháp An bố cửu tự, trong Kinh tạng có nhiều chỗ nói vậy.) 

Quán tưởng chữ Phạn đã có công đức rộng như trong các kinh Ðà Ra Ni có nói: “Trên đây về quán môn Phạn tự, trong bốn oai nghi thường tư duy đến, rất là nhiệm mầu”. Phàm trong các kinh, tưởng chữ Chơn ngôn đều là chữ Phạn chứ không phải chữ của xứ ta. Cho nên Nhứt Tự Ðảnh Luân Vương Nghi Quỹ nói rằng: “Chỗ nói quán các chữ, chỉ là chữ Phạn, không phải chữ ở các địa phương mà có sức đại thần dụng.” Hoặc có người không thể tưởng được chữ Phạn, chỉ nên chuyên tâm trì tụng cũng đủ tất cả tam muội. Cho nên Ðại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Ðà Ra Ni là Thiền định tạng; trăm nghìn tam muội thường hiện tiền.” 

Nếu người khẩn thiết trì tụng, hoặc gặp các thứ ma chướng, hoặc bỗng nhiên sợ hãi, hoặc lưỡi khó trì tụng, hoặc thân không an, hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các tướng lạ, hoặc sanh nghi các Thần chú không muốn trì tụng v.v… Nếu đối trị các điều đó, nên quán tưởng Phạn tự RA, hoặc quán chữ LAM, hay quán chữ A v.v… Chỉ tùy theo đấy quán tưởng một chữ, cảnh giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm hay sanh nhiều phân biệt, nên quán Phạn tự SÁI, tức Thánh vô phân biệt. Nếu có trước tâm nhiều, nên quán tưởng HÀM tự, tức nhơn duyên pháp vốn không có vậy. (Trên đây ước nơi một mặt mà nói, nếu thật nói ra: Chỉ tùy một chữ mà tất cả đều có công dụng đó, nghĩa là một chữ thật đủ tất cả chữ, là công dụng của tất cả chư Phật, Bồ Tát vậy.) 

Hỏi: vì sao Phạn tự đều có bất tư nghì thần dụng như vậy? 

Ðáp: Nghĩa là mỗi một chữ tức thể là thân tâm của chư Phật, Bồ Tát vậy; tức là thể là ly tướng pháp giới vậy. Lại tức thể là giáo lý, hạnh và quả ấy vậy, sở dĩ thế nên có bất khả tư nghì thần dụng. (Phạn tự: ở Tây Phương vốn có sẵn trong pháp nhĩ. Khi thế giới mới thành, Phạm Vương truyền nói: Không đồng như chữ ở phương này, do Thương Hiệt sáng chế). 

Hỏi: Nếu vậy, Phạn tự ở Phương Tây, đều có bất khả tư nghì thần dụng, cớ gì riêng nói chữ trong Chơn ngôn? 

Ðáp: Nghĩa là chữ trong Chơn ngôn, là pháp nhĩ của chư Phật bất tư nghì lực gia trì vậy. Pháp tánh như vậy đó, riêng có thần dụng. Như ngôn ngữ ở đây chỉ là một. Duy chỉ những câu như “cấp cấp như luật lịnh v.v…Chú hỏa không thiêu được, chú thủy không làm chìm, cho nên làm ngữ chú riêng có công dụng, chẳng phải tất cả ngôn ngữ khác đều có công dụng như vậy. Chữ ở Tây Phương cũng thế …, chữ tuy là một mà làm chữ trong Chơn ngôn, riêng có thần dụng, chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như vậy.

Hỏi: Trên nói đối đàn, kiết ấn, tụng chú v.v… đâu không phải hữu tướng ư? 

Ðáp: Viên Tôngchướng ngại pháp giới, trên thể, vốn đủ vô tận pháp môn. Thiền tông vô tướng pháp môn chỉ là một trong vô tận môn vậy. Nay Mật tông, Ðàn pháp, thủ ấn, Chơn ngôn, tức thể lại là vô chướng ngại pháp giới vậy. (Như Hoa Nghiêm kinh Sớ Sao, trong Thập huyền môn, nương sự hiển pháp môn, nói Kim sắc thế giới, tức là bổn tánh là Bát nhã vô phân biệt trí v.v… Nay có người nói rằng: Trì chú, kiết ấn, đối đàn là trệ ngại nơi tướng, đây chỉ là trong thiền tôn mà luận. Tức là ly tướng ngoại cầu nơi vô tướng. Tổ sưngoại đạokiến giải, chứ không phải ý Phật giáo. Lại trong kinh Lăng Nghiêm sớ nói rằng: Trì tụng Thần chú hay trừ được các ác, hay nhóm tập các thiện. Kẻ ngu muội không biết ý chỉ đây; thấy người trì chú thường nổi lên lòng hủy báng, cho đó không phải là kẻ tu hành. Chưa có một Ðức Phật nào, không do nơi Thần chú mà được thành đạo để độ chúng sanh vậy, xin mời xét kỹ lại để cải cái lỗi này. 

Hỏi: Trên kia dẫn chứng các đại sư, các Ngài đều nói rằng: “Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ giải của nhơn vị, cớ gì trên kia lại giải chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, chữ Hồng là Tam giải thoát môn v.v… 

Ðáp: Cứ theo Hiền Thủ Bát nhã trong kinh sớ và Thần Biến sớ, các Mật tạng Ðà Ra Ni Kinh Ý thì có hai môn: 

1)Bát Nhã Thuyết Môn: Chú là mật pháp của chư Phật. Chư Phật truyền nhau, kẻ khác chẳng thông hiểu, chỉ nên trì tụng không cần cưỡng thích. 

2)Cưỡng Thuyết Môn: Như trong Chơn ngôn, tùy cử một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp, bao trùm cả không gianthời gian, tự tại giải thoát. Tóm lại mà nói: Vô tận pháp môn ở trong một chữ tổng giải nói hết, mới là chữ nghĩa của Ðà Ra Ni. Ðem lời nói này, giả sử mười phương các Ðức Phật trải qua hằng sa kiếp, chung nói nghĩa một chữ trong Chơn ngôn cũng không thể hết được, huống nữa người khác, nói đó còn khó, huống chi tham thọ. Sở dĩ đem một phần trong một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp mà giải nó như trước nó chữ A, là Tỳ Lô Phật thân, Hồng tự là Tam giải thoát môn v.v… Tức là cưỡng nói cái nghĩa của một phần thôi. Còn các chỗ khác có giải thích Chơn ngôn, tự nghĩa, cú nghĩa, đều là cưỡng thuyết giải một phần nhỏ nghĩa vậy. (Nếu ở trong một chữ Chơn ngôn, hoặc chia ra ba nghĩa, mười nghĩa hay một trăm nghĩa v.v… giải thích gọi là nghĩa một mặt vậy.) Trên nói: Duy Phật mới biết, chứ không thông giải cho kẻ khác. Ðó là căn cứ vào Mật giáo bổn tôn bất khả thuyết môn mà nói: (Bất khả thuyết môn này là nói đến quả ly ngôn của Hiển giáo Viên tôn, Cưỡng thuyết môn đây tức là nói đến nhân quả của Hiển giáo Viên tôn) 

Hỏi rằng: hoặc có chúng sanh muốn trừ các thứ tai, chướng, hoặc muốn tăng trưởng phước huệ, hoặc muốn cầu Thánh quả … là chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng hay là có phương pháp nào khác? 

Ðáp rằng: Chỉ y Nghi Quỹ như trước trì tụng. Phàm có sở cầu nhất định thành tựu. Hoặc có muốn tùy việc sở cầu, mỗi pháp làm riêng khác. Nay lược bày pháp thức sau đây: Theo trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu Hành Nghi Quỹ, Thất Cu Chi Ðại Minh Ðà Ra Ni kinh, Thần Biến Sớ và các Chơn ngôn Nghi Quỹ … nói: Có năm thức Ðàn pháp gọi: 

1) Tức Tai Pháp
2) Tăng Ích Pháp
3) Kính Ái Pháp
4) Hàng Phục Pháp
5) Xuất Thế Gian Pháp

1)Tức Tai Pháp: (Vì để trừ ác nghiệp, trọng tội, phiền não chướng … Các món tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị sở trước, ác tinh lăng bức …) Kẻ hành giả hướng về phương Bắc, tréo gót chân ngồi thẳng; tượng Chuẩn Ðề xoay về hướng Nam, đối trước tượng Ngài mà an trí Kính đàn. (Cái kính tròn) Lại tưởng một Ðàn tròn sắc trắng, trong cái đàn ấy tưởng khắp chữ PHẠ, hoặc chữ VÃM tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tròn; hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tròn cũng được. Quán tưởng đức Chuẩn Ðề sắc trắng, hiến cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục đều là sắc trắng, đồ hương dùng bạch đàn, thiêu hương dùng trầm thủy, thắp đèn dầu Tô du; lấy từ tâm tương ưng. Lúc đầu hôm ngày mồng một mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám là mãn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, khi đến ngày mãn hoặc đoạn thực (không ăn) hoặc ăn tam bạch thực: nghĩa là sữa, gạo gãy hay cháo. Người không đủ sức tôn tượng cúng dường đầy đủ y phục chỉ vận tâm tưởng cũng được, sau này cứ theo đây mà biết) Nếu khi tụng niệm, lần lượt trì tụng như trước, đến Chuẩn Ðề chú tụng 108 biến, rồi sau chỉ từ chữ ÁN mà tụng. Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề, gia hô tên … và trừ tai nạn TA BÀ HA. Nếu tự cầu cho mình, trên chữ TA BÀ HA xưng danh mình và sự việc cầu xin. Nếu vì người khác, cũng xưng rõ tên, họ, sự việc v.v… 

2)Tăng Ích Pháp: Vì cầu thêm sự vinh quang, tăng trưởng thọ mạng, cầu phước đức thông minh, quyến thuộc thế lực, tiền tài phongn thạnh, lúa nếp thành thục, cầu phục tang bảo châu, thuốc tiên, năm thần thông v.v… Hành giả hướng về Tây phương; trước tượng Chuẩn Ðề an trí Kính đàn (lại tưởng một hình Ðàn vuông, sắc vàng trong Ðàn ấy có khắp chữ A, hoặc tưởng chữ ÁM, Tôn tượng cúng dường đầy đủ. Tự thân của hành giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở trước tượng vẽ một hình đàn vuông cũng được). Quán tưởng đức Chuẩn Ðề sắc vàng, chỗ hiến cúng hoa quả ẩm thực và tự thân y phục … đều là sắc vàng. Ðồ hương dụng, bạch đàn gia chút uất kim, thiêu bạch đàn hương, thắp đèn ma du (dầu mè) đem tâm vui mừng được tương ưng. Theo tháng ngày mồng 9, khi mặt trời mới mọc, khởi đầu hành trì cho đến ngày rằm là mãn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm gội thay áo. Ðến ngày mãn cứ như trước đoạn thựctam bạch thực; niệm tụng như trước. 

Diệu Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề, gia hộ tên… sở cầu như ý, Ta Bà Ha. (xưng tên và sự việc như bài trước đã nói) 

3)Kính Ái Pháp: (Vì cầu tất cả Thánh Hiền gia hộ, Thiên long Bát bộ hoan hỷ, cầu thuyết pháp biện tài, ngôn âm hoà nhã, người nghe hoan hỷ và cầu tất cả mọi người ái kính, bạn hữu tri thức thân cận, oan gia hoà thuận …) Hành giả xây mặt về hướng Tây, ngồi cách thiền tọa, tượng diện hướng Ðông, trước tượng Chuẩn Ðề an trí Kính đàn. (Lại tưởng một bán nguyệt hình Ðàn sắc màu đỏ, trong bán nguyệt hình Ðàn ấy, tưởng khắp chữ Hạ hoặc chữ Hàm; tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành giả đều tưởng ở trong bán nguyệt hình đàn ấy. Hoặc trước tượng chỉ vẽ một hình đàn bán nguyệt cũng được.) Quán tưởng đức Chuẩn Ðề màu sắc đỏ, thân mặc áo sa lụa, chỗ hiến cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục, thảy đều màu đỏ. Ðồ hương dụng uất kim, thiêu hương lấy đinh hương, Tô hạp hương hòa mật để thiêu đốt. Thắp đèn dầu trái cây đem thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ ngày 16 cuối đêm (hậu dạ) là khởi đầu; đến ngày 23 là mãn, mỗi ngày tắm gội đoạn thực hiện tụng, thực hành như pháp trước. 

Diệu Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề linh nhứt thiết nhơn ái kính…tên…Ta Bà Ha. (Xưng tên họ tùy theo việc sở cầu, như trước đã bày.) 

4)Hàng phục pháp: Ðể hàng phục tất cả ác độc, quỷ thần và ác long thú tổn hoại tất cả hữu tìnhđiều phục tất cả người ác, không trung với đất nước, sanh tâm phản đạo, diệt Tam-Bảo, hủy Chơn ngôn, hoặc gây chướng ngại. Ðối với tất cả người ác như vậy, người trì chú vận đại từ bi tâm, làm được phép này.

Nếu vì ích kỷ mà cầu, hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà làm phép này, theo các kinh đã nói, quyết định phản chiêu tai họa, phản đắc suốt đời si ai, học giả nên biết! (nghĩa là mình oán ghét người nào đó, cầu cho họ bệnh chết hay tai họa, thì không thành mà trái lại mình bị mang họa. Chư Phật Bồ Tát không cho phép, nếu cưỡng làm suốt đời bị ngu si.) 

Hành giả hướng mặt về phương Nam, dùng phép ngồi tôn cư Tọa (Ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua hai bàn chân bên hữu. Mặt tượng hướng về phương Bắc. Nơi trước tượng Chuẩn Ðề, an trí Kính đàn. (lại tưởng một cái Ðàn tam giác sắc xanh ở trong tam giác Ðàn, tưởng khắp chữ Ra, hay chữ Lam, tôn tượng cúng dường đầy đủ và tự thân của hành giả điều tưởng ở trong cái Ðàn tam giác cũng được.) Chuẩn Ðể sắc xanh, hay màu đên mặc áo đen xanh tự thân y phục cũng đều sắc xanh. Hiến cúng hoa sắc xanh, hoa thối, hoa không thơm và Mạn đà la hoa v.v… ẩm thực, dùng thạch lựu làm nước nhựa nhuộm thành sắc đen hay sắc xanh, đồ hương dùng cây bá. Ứ già: dùng phân trâu (phân trâu trắng ở núi tuyết bên Ấn Ðộ nói ăn toàn cỏ thơm, nên phân nó mịn thơm chứ không phải phân trâu xứ ta). Lấy hoa sắc đen và giới tử Bá mộc làm đồ hương v.v… Mỗi thứ lấy một ít để nơi Ứ già thủy; đốt an tức hương. Thắp đèn dầu hạt cải; lấy phẫn nộ tâm tương ưng. Từ ngày 24 vào lúc giờ ngọ hoặc nửa đêm khởi đầu hành pháp cho đến ngày cuối tháng thì mãn; mỗi ngày tắm gội, đoạn thực, niệm tụng pháp, thực hành như trước. 

Diệu Chơn ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Ðề, Hồng Phấn Tra, (Phấn Tra viết chữ Phạn) 

(Nếu các người ác thân tâm không an, hoặc sắp chết, phải khuyên gấp người ấy, phát thiện tâm. Nếu người ấy biết hối lỗi, tự trách vĩnh đoạn ác tâm, thì nên vì họ làm phép Tức Tai, niệm tụng, người kia bèn khỏi tai nạn. Trên đây là bốn pháp thành tựu. Nếu muốn nhờ được thành công trong bốn pháp này; cần được dự tu trì Chuẩn Ðề Chơn ngôn trước là 50 vạn, 70 vạn, hay 100 vạn biến. Ðã thực hành rồi, mới làm bốn pháp, thành tựu được, tùy sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy trong thời nay hoặc Thích, hoặc Nho vì lợi vì danh mãn năm suốt ngày xu hướng tham lam, dụng hết thân tâm cũng chưa vừa bụng. Khi vô thường đến lại sanh vào xứ thấp hèn. Sao bằng, vâng Thánh ngôn chư Phật tụng bí mật Thần chú, trên trong các pháp Tăng Ích lần lượt thực hành, việc sở cầu quyết định toại tâm; tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt; vô thường có đến thì được sanh thắng xứ. Hiện tại, vị lai, đều được lợi lạc, há chẳng là điều tốt sao. Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy.) 

5)Xuất thế gian đàn pháp: Vì muốn mau đủ hai món tư lương: Phước đứctrí huệ. Ðốn viên mười món Ba la mật, siêu việt ba vô số kiếp khắc kỳ trong đời này Thánh quả hiện tiền. Người hành giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm thù thắng, già lam thanh tịnh. Ðem hết lòng Ðại Bi, thường ưa lợi lạc vô biên hữu tình, đồng với Chuẩn Ðề Vương Bồ Tát. Nương nhờ Ðại Bi, nguyện lực, hộ trợ các Phật, Bồ Tát. Hạn định bốn tháng bốn ngày trong một thời kỳ, dứt tuyệt không tiếp khách, dứt bặt lời nói. Tam Mật tương ưng tâm không gián đoạn; kẻ hành giả mặt hướng về phương Ðông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Ðông là tốt hơn hết; hoặc ngồi toàn già, bán già, hay tùy ý ngồi đều được.) Mặt tượng hướng về Tây, nơi trước tượng Chuẩn Ðề an trí Kính đàn. 

(Trên đảnh hành giả tưởng chữ Lam, biến thành vòng lửa đỏ đốt hết tự thân hữu lậu. Lại tưởng trên một hoa sen lớn có chữ A, sanh thành vô lậu trí thân, lại tưởng chữ Ám, quán đảnh rồi. Lại tưởng chữ LAM biến thành lửa lớn đốt cháy thế giới hữu vi này đồng như hỏa kiếp, cháy sạch không sót, chỉ có không tịch. Lại tưởng tượng lập nên Ðàn vô vi. Phí dưới hạ phương khắp tưởng chữ Khiếm: tạp sắc mà làm Không luân. Nơi trên Không luân tưởng chữ Hàm, sắc đen, biến thành Phong luân (gió). Trên Phong luân tưởng chữ Lam sắc đỏ, biến thành Hỏa luân (lửa). Trên hỏa luân tưởng khắp chữ Vãm, sắc trắng biến thành Thủy luân. Trên Thủy luân (nước) tưởng khắp chữ A, sắc vàng, biến ra Kim Cang địa. Trên Kim Cang địa khắp tưởng đại Liên hoa. Trên mỗi hoa sen đều có đức Chuẩn Ðề Bồ Tát, vô lượng Thánh chúng vi nhiễu (vây quanh) trước mỗi đức Chuẩn Ðề, đều có tự thân của hành giả (Chính mình mỗi mỗi thân có hiện ra hoa quả ẩm thực, tràng phan… đầy đủ các món cúng dường đều đối trước Kính đàn Chuẩn Ðề: Tam mật tương ưng. Nếu hành giả không có tượng Chuẩn Ðề và hoa quả ẩm thực cúng dường đầy đủ, chỉ dùng quán tưởng này cũng được thành tựu kiết tường). Nhứt tâm để tưởng đức Chuẩn Ðề Bồ Tát, đầy đủ vô tận tướng hảo quang minh, nơi trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát, tưởng có Cửu Thánh Phạn tự Ðàn (9 chữ chú Chuẩn Ðề). Hành giả tưởng trong tâm Nguyệt luân của mình cũng có chín chữ Phạn Ðàn, còn ở tại thân mình, tưởng khắp 9 chữ Thánh Phạn (Tâm Nguyệt luân và tự thân phần tưởng đủ các chữ, như trước đã nói). Các thứ hiến cúng hoa quả, ẩm thực, hương, đèn, đuốc, nến, …Nơi trong ba pháp: dứt tai ương, tăng ích, kính ái đã nói rõ sắc vật đều dùng được. Y phục của hành giả phải được mới, trong sạch mới được vào Ðàn pháp (tu). Tóm lại thì loại áo vàng là tốt nhất. Hành giả không cần phải lao hình, khổ nhọc sợ tâm thần tán loạn; đối với bốn oai nghi: đi đứng nằm ngồi đều được Tam mật tu tập. 1)Thân kiết ấn. 2)Miệng đọc chú. 3)Tâm duyên Phạn tự. Chỗ thấy, nghe hay biết chỉ quán chữ A: Nơi nhứt chơn thanh tịnh pháp giới, thường tu quán hạnh này. Lần lượt nghi quỹ trì tụng như đã nói ở trên, đến Chuẩn Ðề Chơn ngôn. Từ đầu vô số, vô ký chuyên tinh niệm tụng. Cần sách thân tâm chớ nên biếng nhác. Lúc sắp thành tựu, ắt có khởi lên các thứ chướng ngại, nên làm phép: Tức tai, hàng phụcTùy theo căn tánh sai khác của hành giả, khoảng thời gian này quyết chứng được Tam muội hiện tiền. Tức ở trong định thấy có vô số Phật hội, nghe được pháp âm vi diệu, chứng được Thập Ðịa Bồ Tát vị. (Một là pháp này, chỉ cầu xuất thế gian, nếu muốn thành tựu trong pháp này, trước hết cần phải trì tụng Chuẩn Ðề Chơn ngôn được 500 vạn, 700 vạn, hoặc 1000 vạn biến rồi mới làm pháp này, quyết địnhlinh nghiệm.) 

 

CÁC HÀNH TƯỚNG 
THÀNH TỰU LINH NGHIỆM 

Chuẩn Ðề Ðà Ra Ni kinh, Kim Cang Ðảnh kinh, Tô Tất Ðịa … Cộng lại hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn, người hành giả dụng công trì tụng. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại; hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, bay lên lầu các, hoặc lên cây cao thọ, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi sư tử, ngựa, voi trắng, hoặc thấy hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy mặc áo vàng, áo trắng Sa Môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả vật đen. Hoặc ngậm nuốt, mặt trời, mặt trăng … tức là cái tướng trạng tiêu diệt tội vô thỉ. 

Hoặc chính đương lúc trì tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc thấy khắp chỗ trong hư không có các hoa kỳ lạ, đặc biệt. Hoặc thấy các Phật, Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên Tiên … Hoặc thấy chư Phật Tịnh độ, hoặc thấy tự mình dạo qua các Phật quốccúng dường. Hoặc tạm thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn sáng cao 1 thước, 2 thước cho đến 1 trượng. Hoặc trong lư không có lửa mà tự nhiên có khói. Hoặc thấy Phật tượng, phan cái tự động; hoặc nghe các món mỹ thinh của chư Phật, Bồ Tát

Hoặc tự biết thân mình nguy nga, vòi vọi cao lớn. Hay răng rụng lại mọc, tóc trắng lại đen; hoặc thân thể trắng nhuận, không sanh rận rệp, hoặc tham sân si tự nhiên tiêu diệt. Hoặc tổng trì bất vong, một chữ năng diễn nhiều nghĩa. Hoặc trí tuệ đốn sanh, tự nhiên thông hiểu tất cả kinh luật luận. Hoặc tất cả tam muội pháp môn tự nhiên hiện tiền. Hoặc phước đức đốn cao, tứ chúng thảy đều quy ngưỡng …(Kinh văn trên đây đã nói: Nay có kẻ Tăng, Nho sĩ sơ lược tham học thiền lý, vừa thấy các tướng ấy cho là yêu dị. Ðây chẳng những là hủy báng tối thượng thừa giáo, mà cũng là đắc tội tà kiến, xả tướng, thủ tánh; lại không biết tướng kia, bản lai là tánh vậy. 

Nếu gặp các việc như trên, chỉ là phước huệ tăng trưởng, tướng trạng gần thành tựu; chớ sanh lòng nghi hoặc, chớ khởi niệm thủ xả. 

Nên quán những cảnh giới đã gặp đó, đều là A tự, hoặc Lam tự, hoặc tưởng đều nh mộng huyễn hay đều là pháp giới nhứt tâm, nếu được ứng nghiệm như vậy cần phải phát tu, sách tất tam nghiệp, gia công trì tụng, không được tuyên nói những cảnh trong Thần chú để lòe gạt người. Chỉ có người đồng đạo, không vì danh lợi kính khen, thì mới được nói sự đó. 

Sự thành tựu có 9 phẩm: 

1)Hạ phẩm có ba: 

a)Nếu hạ phẩm thành tựu, năng nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu, cử ý tùng tâm, tất cả thiên long thường đến thăm hỏi; lại hay hàng phục tất cả trùng thú và quỷ mị … 

b)Trung phẩm thành tựu: Có công năng sai sử tất cả thiên long, bát bộ hay khai mở tất cả những bảo tàng giấu kín, hoặc cần vào tu la cung, long cung liền được vào đó, đi, ở tùy tâm

c)Thượng phẩm thành tựu: Liền được tiên đạo, thừa nương hư không bay đi qua lại. Trên trời dưới đất đều được tự tại. Thế gian xuất thế gian chẳng việc gì mà không đạt đến

2)Trung phẩm có ba: 

a)Hạ phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các tiên chú, trụ thọ vô số tuổi, phước đức trí huệ ba cõi không thể so kịp. 

b)Trung phẩm thành tựu: Liền được thần thông qua lại các thế giới, làm Chuyển luân vương, trụ thọ một kiếp. 

c)Thượng phẩm thành tựu: Hiện chứng từ Sơ địa Bồ Tát trở lên. 

3)Thượng phẩm có ba: Nếu hạ phẩm thành tựu: Ðược đến đệ Ngũ địa Bồ Tát trở lên. 

b)Trung phẩm thành tựu: Ðược đến đệ Bát địa Bồ Tát trở lên. 

c)Thượng phẩm thành tựu: Tam mật biến thành Tam thân. Chỉ trong đời này được chứng quả Vô thượng Bồ đề. Ðây là 9 phẩm thành tựu của người trì chú. Nếu cầu thẳng đến thành Phật chẳng cân cầu thành tựu ba hạ phẩm. Còn căn cứ theo Thần Biến Sớ có năm phẩm thành tựu

1) Hiện đến tín vị

2) Ðến sơ Ðịa. 

3) Ðến tứ Ðịa. 

4) Ðến bát Ðịa. 

5) Ðến thành Phật

Ðó là thuộc về kinh này. Nay thông y theo các kinh cho nên nói chín phẩm, nghĩa là Chuẩn Ðề Chơn ngôn, bao gồm tất cả các bộ Thần chú

Hỏi: Vì sao biết được Chuẩn Ðề gồm các bộ Thần chú? 

Ðáp: Nghĩa là trong một tạng kinh, Thần chú không ngoài 25 bộ. 

1) Phật bộ: Là các chú của Phật. 
2) Liên Hoa bộ: Là các chú của Bồ Tát
3) Kim Cang bộ: là các chú của Kim Cang thần
4) Bảo bộ: Là các chủ của chư Thiên
5) Yết ma bộ: Là chú của các vị quỷ thần

Năm bộ này mỗi bộ gồm có 5 bộ nhỏ thành 25 bộ. Nay Chuẩn Ðề tổng nhiếp 25 bộ cho nên Chuẩn Ðề kinh nói: Chỉ có 1 bộ mà nhiếp 25 bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn triệu thỉnh 25 bộ thiên ma … chuyên tụng chú này, tùy thỉnh quyết đến. Lại nói rằng: Ngũ bộ Kim Cang Tứ Thiên Vương, đồng kết Tổng trì tam muội giới. Kinh đại Giáo vương có nói: Thất Cu Chi Như Lai, ba thân khen nói: Chuẩn Ðề Bồ Tát Chơn ngôn năng độ tất cả hiền Thánh. Nếu người trì tụng, tất cả sở cầu thảy được thành tựu; không bao lâu chứng được Chuẩn Ðề đại quả, vì thế nên biết Chuẩn Ðề Chơn ngôn đứng hàng đầu trong Mật tạng, là mẹ của Chơn ngôn, là vua của các Thần chú

Chuẩn Ðề Chơn ngôn tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn, hoặc dùng hình tượng ấn pháp Phạn tự … mỗi mỗi không đồng. Nay Chuẩn Ðề Kính đàn tổng nhiếp tất cả các đàn pháp này vậy. Cho nên Chuẩn Ðề kinh nói rằng tổng nhiếp 25 bộ. Ðại Mạn Trà La: Phạn ngữ Mạn Trà La nghĩa là Ðàn. Cho nên biết Kính đàn rất là tối tôn tối thượng hay diệt tất cả ma chướng, năng sanh tất cả công đức; mắt thấy, thân đeo mang đều được lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng: Ðàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội. Như ngọc Phương Châu hứng ánh mặt trăng, liền có nước phát ra, đem kính (hội tụ) hứng ánh mặt trời, liền phát sanh ra lửa. Ðá từ thạch dẫn hút kim loại. Hổ phách lượm hạt cải. Cái công dụng thật khó so lường; huống chi là Ðàn pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nay có kẻ ít nghe thấy, mê mờ không hiểu mật giáo, thấy dùng Kính đàn lại sanh hủy báng. Song ba đời các đức Như Lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Ðàn phát mà thành Phật đạo, để hóa độ chúng sanh vậy. Mong những ai nghe thấy rộng rãi, hãy mau sửa đổi sự sai lầm đó. 

Mật giáo Tâm yếu đến đây là hết.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10117)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10373)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9652)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23566)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11810)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10702)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10046)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28634)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21546)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29359)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11370)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12351)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26267)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30972)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25281)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22767)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13026)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21876)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12198)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14097)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12387)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11210)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10671)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 37996)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13652)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13431)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12319)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12561)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12030)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10708)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11182)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23330)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33138)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12765)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7374)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12159)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12564)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11980)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12821)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11911)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10645)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11325)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11615)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10825)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10762)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10339)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10434)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10675)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10603)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11879)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10660)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12716)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10783)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11360)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11070)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11600)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10487)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11228)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12272)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11111)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12468)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11402)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11489)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11270)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11562)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12967)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14140)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10979)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11835)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13131)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11520)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11387)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10900)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11255)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10790)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11030)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10856)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10223)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17079)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10982)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10849)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10388)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10727)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11356)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11037)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10537)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11339)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10317)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10614)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12727)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19211)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19630)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21217)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20259)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19703)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18987)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20409)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21028)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17887)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21762)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant