Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh A Di Đà dịch nghĩa

22 Tháng Mười 201000:00(Xem: 46358)
Kinh A Di Đà dịch nghĩa


Kinh A Di Đà dịch nghĩa

KỆ TÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loài.
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.


QUÁN TƯỞNG

Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới Đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện.
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

 

LỄ PHẬT

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà giáo chủ Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sinh Di Lặc tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp chư tôn Bồ tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ tát.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.

 

TÁN LƯ HƯƠNG

Lò hương vừa bén chiên đàn,
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương 
Hiện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thiềng
Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)

 

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại bi Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị đa, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô yết đế, thất Phật ra lăng đà bàNam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

 KỆ KHAI KINH

Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu.
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu.
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng.
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát (3 lần)

KINH A DI ĐÀ

Phật nói Kinh A Di Đà,
Chính tôi nghe đúng thực là không sai.
Thường theo Phật ngàn hai trăm rưỡi,
Toàn những là bậc đại Tỳ kheo,
Chứng A la hán đã lâu,
Chúng đều quen biết không đâu không tường.
Có một thời ở vườn Trưởng giả
Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà,
Nước là Xá Vệ không xa.
Bấy giờ Phật tự nói ra kinh này,
Bậc tuổi cao đã dầy công đức,
Xá Lợi cùng ngài Mục Kiền Liên,
Ngài Ca Diếp, ngài Chiên Diên,
Ngài Câu Ly cũng cùng liền Bà Đa,
Châu Lợi với Nan Đà các vị
Át Nan và con quý Như Lai,
Kiều Bà Đề cũng ở đây,
Tân Đầu Lư với lại ngài Ca Lưu,
Kiếp Tân Na, Bạc Câu La cũng,
Đâu Lâu Đà là những bậc trên.
Cùng chư Bồ tát, Thánh Hiền,
Văn Thù Sư Lợi đứng trên mọi người,
Con vua Pháp chính ngài hơn hết.
A Dật Đa Bồ tát cũng đây,
Bồ tát Càn Đa Ha Đề,
Ngài Thường Tinh Tấn cũng về rất đông.
Các bậc lớn thật không còn thiếu,
Vua Thích Đề cũng chịu khó theo,
Chư Thiên chẳng biết bao nhiêu,
Tất cả đại chúng cũng đều ở đây.
Bấy giờ, Phật gọi thầy Xá Lợi,
Bảo cho rằng từ cõi Ta đây,
Đi sang thẳng phía phương Tây,
Qua mười muôn ức cõi thời tới nơi.
thế giới tuyệt vời sung sướng,
Có Phật là Vô Lượng Thọ Quang,
Hiện đương thuyết pháp rõ ràng.
Vậy thầy có biết vì cơn cớ gì,
Sao lại gọi nước kia cực sướng ?
Chúng sinh trong đều hưởng thuần vui,
Khổ đau tuyệt tích tăm hơi,
Cho nên mới gọi cõi đời rất vui.
Xá Lợi Phất ! Lại coi xem đã,
Cõi nước kia khắp cả trong ngoài,
Đường đi có bảy hàng cây,
Bảy lần lưới phủ, bảy lần bao lơn,
Toàn là chất bạc vàng châu báu,
Tất cả đều vây nhiễu chung quanh.
Nước kia vì đấy thành danh,
Gọi là Cực lạc sạch sanh vui vầy.
Xá Lợi Phất ! Lại đây mới lạ,
Cõi nước kia có cả hồ ao,
Toàn là thất bảo quý sao.
Nước tám công đức dồi dào ở trong,
Đáy ao cũng tuyệt không chút đất,
Cát dưới đều toàn chất vàng thôi,
Bốn bên đường bậc hẳn hoi,
Pha lê, vàng, bạc cùng loài lưu ly,
Hợp lại coi cực kỳ đẹp mắt.
Trên lại còn lầu các nguy nga,
Cũng đem vàng, bạc, xa cừ,
Xích châu, mã não, lưu ly mọi loài.
Tô điểm hết trong ngoài như một,
Sen trong ao hoa tốt lạ thường,
Bánh xe cũng chỉ ngang ngang,
Mùi hương mầu nhiệm sạch thơm khác thường,
Đủ bốn sắc : Xanh, vàng, đỏ, trắng,
Đều theo màu ánh sáng hiện ra.
Thầy Xá Lợi ! Có đó mà,
Nước trang nghiêm thế đúng là trang nghiêm,
Nhờ công đức gây nên được thế.
Lại còn đây, thầy sẽ xem xem,
Tiếng thiên nhạc vẫn vang rền,
Đất là vàng tốt ngày đêm sáu thời.
Hoa mạn đà trên trời mưa xuống,
Chúng sinh trong ra hứng đem về,
Túi này đựng lấy hoa kia,
Hằng ngày sáng sớm đem đi cúng dường.
Dâng khắp cả mười muôn ức Phật,
Bao nơi mà giây phút về ngay,
Cơm xong dạo gót thảnh thơi.
Thầy Xá Lợi Phất ! Thử coi xem nào,
Cõi Cực lạc xiết bao công đức,
Đấy mới là đúng thực trang nghiêm.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Nước kia có đủ thứ chim dị kỳ,
Hình dung đẹp thiếu chi màu sắc.
Bạch hạc cùng Khổng tước rất xinh,
Anh vũ, Xá lợi cùng mình,
Ca lăng tần cũng cùng sinh một thời.
Các chim ấy đêm ngày kêu hót,
Ra toàn là tiếng ngọt như ru,
Diễn thành đủ các phép tu,
Ngũ căn, ngũ lực, bảy Bồ đề chi,
Tám đường chính như chia thật rõ.
Chúng sinh trong cõi đó nghe rồi,
Đều là niệm Phật tức thời,
Pháp, Tăng cũng niệm không ai chịu ngừng.
Xá Lợi Phất ! Thầy đừng có bảo,
Chim ấy là tội báo sinh ra,
Bởi vì cõi Đức Di Đà,
Địa ngục, ma đói, cùng là súc sinh,
Ba thứ ấy sạch sanh chẳng có.
Xá Lợi thầy ! Nên rõ cõi kia,
Cái tên xấu đã không thì,
Làm gì có thực chim kia bao giờ,
Các chim ấy chẳng qua là Phật,
Muốn làm cho tiếng pháp chan hòa,
Nên Ngài mới biến hóa ra.
Thầy Xá Lợi Phất ! Xem qua đây này,
Cõi Phật kia so đây xa khác,
Gió hiu hiu thổi các hàng cây,
Cùng là lưới phủ trên cây,
Phát ra những tiếng êm tai lạ thường,
Thật không khác trăm ngàn âm nhạc,
Cùng một thời khua tất cả lên.
Ai nghe thấy bỗng tự nhiên,
Lòng nhớ Phật Pháp Tăng liền có ngay.
Xá Lợi Phất ! Xem đây càng rõ,
Cõi Phật kia còn có đâu hơn,
Gây nên rực rỡ muôn phần,
Đều do phúc đức công huân của Ngài.
Xá Lợi Phất ! Lòng thầy có hiểu,
A Di Đà là hiệu làm sao,
Hào quang Phật sáng xiết bao,
Soi mười phương chẳng nước nào là không.
Đến đâu tựa trăng trong nước biếc,
A Di Đà mới thiệt xưng tên.
Thầy Xá Lợi ! Lại coi xem,
Đức Di Đà thọ vô biên vô lượng,
Cả nhân dân sống ngang như Phật,
Kể kiếp đời tính thật khó ra,
Thế nên tên gọi Di Đà,
Này thầy Xá Lợi ! Nghe mà nghĩ coi,
Đức Di Đà lên ngôi thành Phật,
Đến nay là mười kiếp chu viên.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Phật kia còn có vô biên vô lượng,
Các đệ tử Thanh văn, La hán,
Không thể nào tính toán mà hay.
Các Bồ tát cũng nhường này,
Thầy Xá Lợi Phất ! Xem đây thế nào,
Cõi Phật kia xiết bao công đức,
Gây nên thành đúng thực trang nghiêm.
Lại còn đây nữa thầy xem,
Cõi nước Cực lạc ai lên đấy rồi,
Hết thảy đều lên ngôi bất thoái.
Phật sắp thành cũng lại rất đông,
Chỉ một kiếp nữa là cùng.
Đọc các số ấy khó lòng tính ra,
Tạm lấy số hằng sa mà kể,
Gọi rất nhiều cho dễ hiểu thôi.
Xá Lợi Phất ! Ai nghe rồi,
Cố nên phát nguyện tới nơi kẻo hoài.
Vì ở với thuần người thật tốt,
Vui cùng nhau mãi suốt đời đời,
Xá Lợi Phất ! Phải những người,
Nhân duyên phúc đức rất dày thiện căn,
Thì mới được sinh sang nước ấy.
Xá Lợi ! Thầy xem đấy quý không,
Nếu như ai có thực lòng,
Trai lành gái tốt đều không phân bì,
Được nghe nói A Di Đà Phật,
Là tên Ngài liền chấp trì ngay,
Một ngày luôn đến bảy ngày,
Một lòng chẳng rối tức thời thành công.
Người ấy lúc mình cùng số tận,
Các Thánh cùng Ngài hiện tới ngay,
Hiện ra trước mắt cho coi,
Lòng người ấy lúc tắt hơi êm đềm,
Tức khắc được sinh lên cõi Phật,
Đấy chính là cõi nước Như Lai.
Ta xem thấy sự lợi này,
Nói cho thầy biết để thầy xét suy.
Nếu có ai được nghe đây nói,
Nên cố cầu sinh cõi Phật kia,
Này thầy Xá Lợi lặng nghe !
Nay ta khen ngợi Đức Di Đà rồi,
Công đức Phật muôn đời khôn kể.
Phương Đông ngài A Bế Như Lai,
Tu Di Tướng, Đại Tu Di,
Tu Di Quang Phật cùng ngài Diệu Âm.
Phật như thế kể bàn sao xiết,
Cát sông Hằng tỷ thiệt đúng thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở phương Nam,
Đức Phật Nhật Nguyệt Quang,
Danh Văn Quang, Đại Diệm Kiên hai Ngài,
Tu Di Đăng Như Lai tinh tiến,
Đức của Ngài khôn đếm kể sao.
Phật như thế số rất nhiều,
Cát sông Hằng mấy bấy nhiêu các Ngài.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở phương Tây,
Vô Lượng Thọ Như Lai,
Phật Vô Lượng Tướng cùng ngài Đại Quang,
Bảo Tướng, Vô Lượng Tràng hai vị,
Tĩnh Quang cùng xiết kể Như Lai.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở Bắc phương,
Diệm Kiên, Nan Trở hiện đương,
Tối Thắng Âm Phật cũng thường ở đây.
Nhật Sinh, Võng Minh đầy đủ cả,
Hằng hà sa khó tả được thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Này còn ở Hạ phương,
Có Ngài Sư Tử Danh Văn,
Danh Quang, Đạt Mạ, Pháp Tràng Như Lai,
Trì Pháp Phật, các Ngài như thế,
Cát sông Hằng sánh tỷ nhiều thay.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi thầy ! Còn ở Thượng phương,
Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương,
Phật Hương Thượng với Hương Quang hai Ngài,
Đại Diệm Kiên cùng ngài Tạp Sắc
Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật Như Lai,
Sa La Thọ Vương Như Lai,
Kiến Nhất Thiết Nghĩa cùng ngài Bảo Hoa,
Tu Di Sơn Phật đà như thế,
Cát sông Hằng sánh tỷ không sai.
Các Ngài ở nước các Ngài,
Hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ che,
Ba nghìn cõi không hề chút thiếu.
Nói đúng lời khuyên bảo chúng sinh,
Khuyên nên một dạ tin kinh.
Xiết bao công đức gây thành cõi kia,
Chư Phật đều hộ trì tưởng nhớ.
Xá Lợi ! Lòng thầy có nghĩ ra,
Sao kinh này lại gọi là,
Hết thảy chư Phật giữ mà nhớ không.
Xá Lợi Phất ! Là chung hết thảy,
Gái, trai lành nghe thấy là may,
Người nghe chịu tin kinh này,
Cùng tên chư Phật đêm ngày tụng luôn.
Những người ấy chẳng còn sợ sệt,
Chư Phật đều giúp sức hết cho,
Còn ngôi thứ cũng chẳng lo,
Tới nơi thành Phật dễ hồ ai hơn.
Xá Lợi Phất ! Chớ còn lưỡng lự,
Đều nên tin lời của Ta đây,
Với lời chư Phật cho hay,
Thầy xem như đã có ai phát nguyền,
Giờ hay sau nguyện lên cõi ấy,
Những người này đều tới không lui,
Ngôi thành Phật chứng hẳn hoi.
Nước kia người đã sang rồi rất đông,
Nay về sau cũng không phải thiếu,
Thế nên Ta khuyên bảo cho hay,
Trai lành gái tốt những ai,
Nếu tin nên phát nguyện ngay đợi gì,
Nguyện sinh sang nước kia cực sướng.
Xá Lợi ! Thầy nên tưởng đó coi,
Nay Ta khen các Phật rồi,
Rất nhiều công đức khó hay nghĩ bàn.
Chư Phật lại khen Ta có hẳn,
Công đức này thật khó nghĩ bàn,
Nói rằng việc rất khó làm,
Thích Ca Phật thật không ngần ngại chi.
Ở cõi nước cực kỳ khổ sở,
Đời bẩn nhơ xấu đủ cả năm,
Kiếp cùng ý kiến dục lầm, 
Chúng sinh, phiền não, mạng thuần bẩn nhơ.
Ở cõi này tu mà thành Phật,
Thương chúng sinh nói pháp nhiệm mầu.
Thế gian đều có tin sâu,
Xá Lợi nên biết ! Ta đâu ngại gì.
Ở đời xấu ngàu ngàu năm thứ,
Làm việc này thực khó lắm thay,
Đạo Bồ đề được chứng ngay.
Lại vì khắp cả trong ngoài thế gian,
Nói pháp này người tin thật khó,
Là một điều hiếm có xưa nay.
Kinh này Phật nói xong rồi,
Xá Lợi Phất với các thầy Tỳ kheo,
Tất cả có bao nhiêu thính giả,
Trời, người cùng cả thảy Tu la,
Được nghe lời Phật nói ra,
Vui mừng tin giữ lễ mà bước đi.

 

MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

Đức Bồ tát hiệu Quan Tự Tại,
Dầy công tu huệ mới mở mang !
Chân như một áng linh quang,
Chiếu soi năm uẩn đều không có gì.
Bát nhã huệ soi đi khắp chốn,
Dứt mọi đường khổ khốn tai nàn !
Xá lợi, tâm chớ nghi nan,
Sắc kia nào khác cái không đâu mà !
Cái không nọ, nào xa cái sắc,
Sắc là không, không sắc như nhau.
Thọ, tưởng, hành, thức, khác đâu,
Chân không xét cũng một mầu thế thôi !
Này Xá lợi, nghĩ coi có phải ?
Những pháp không xét lại thực là :
Chẳng sinh, chẳng dứt đó mà,
Sạch dơ, thêm bớt, cũng là chân không.
Ấy vậy phải xét thông mọi lẽ,
Như hư không, sắc vẻ gì đâu ?
Thọ, tưởng, hành, thức, sạch làu,
Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, còn đâu nương nhờ ?
Thân, ý cũng hững hờ như thế,
Lục trần kia, cũng kể là không.
Đã không nhãn giới suốt thông
Đến ý thức giới cũng không thấy gì.
vô minh, nương chi mà có ?
Bổn tánh không soi nó phải tiêu !
Đã không lão tử hiểm nghèo,
Còn đâu già chết, hòng theo quấy rầy ?
Khổ, tập, diệt, đạo không thay !
Trí còn không có, đắc này được đâu ?
Vô sở đắc là câu tuyệt diệu !
Bồ tát xưa khéo liệu đường tu.
Chân không bổn tánh như như,
Nhờ huệ Bát nhã, thiệt hư soi làu !
Không ngăn ngại, còn đâu lo sợ !
Mộng tưởng không, tâm chẳng đảo điên !
Chân như bổn tánh thiên nhiên,
Niết bàn cõi ấy, chứng nên đạo mầu !
Tam thế Phật, ngôi cao chứng quả,
Thảy đều nhờ Bát nhã tu nên.
Bát nhã này rất thiêng liêng !
Ấy đại thần chú giúp nên đạo thiền.
Ấy thần chú đại minh sáng chói !
Chú vô thượng vòi vọi cao xa !
Vô đẳng đẳng chú ấy mà,
Gồm đủ thần lực, thiệt là tối linh !
Những khổ não thênh thênh trừ hết,
Lời nói này, chân thiệt chẳng ngoa.
Vậy nên Bát nhã thuyết qua,
Này câu thần chú niệm ra như vầy :
Yết đế, yết đế, ba la yết đế,
Ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

 

VÃNG SINH THẦN CHÚ

Nam mô a di đa bà dạ. Đa tha dà đa dạ. Đa diệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đa, tất đam bà tỳ. A di rị đa, tỳ ca lan đế. A di rị đa, tỳ ca lan đa. Dà di nị, dà dà na. Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)

 

 TÁN PHẬT

Di Đà thân Phật sắc vàng tươi,
Tướng tốt quang minh vẹn đủ mười.
Ánh sáng tỏa hình năm núi lớn,
Mắt trong tợ nước bốn nguồn khơi.
Hào quang hóa Phật bao nhiêu ức,
Bồ tát hiện thân gấp mấy mươi.
Bốn tám lời nguyền mong độ chúng,
Hoa sen chín phẩm rước lên ngôi

Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát.
Nam Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.

 

SÁM NHẤT TÂM

Một lòng mỏi mệt không nài,
Cầu về Cực lạc ngồi đài Liên hoa.
Cha lành vốn thiệt Di Đà,
Soi hào quang tịnh chói lòa thân con.
Thẳm sâu ơn Phật hằng còn,
Con nay chánh niệm lòng son một bề.
Nguyện làm nên đạo Bồ đề,
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây phương.
Phật xưa lời thệ tỏ tường,
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng sinh.
Thệ rằng : Ai phát lòng thành,
Nước ta báu vật để dành các ngươi
Thiện nam, tín nữ mỗi người,
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra.
Ta không rước ở nước ta,
Thệ không thành Phật chắc là không sai.
Bởi vì tin tưởng Như Lai,
duyên tưởng Phật sống dai vô cùng.
Lời thề biển rộng mênh mông,
Nhờ ơn Đức Phật thoát vòng trần lao.
Tội mòn như đá mài dao,
Phước lành thêm lớn, càng cao càng dầy.
Cầu cho con thác biết ngày,
Biết giờ, biết khắc, biết rày tánh linh.
Cầu con tội khổ khỏi mình,
Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian.
Cầu con thần thức nhẹ nhàng,
In như thiền định họ Bàng thuở xưa.
Đài vàng tay Phật bưng chờ,
Các ông Bồ tát bây giờ đứng trông.
Rước con thiệt đã nên đông,
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
Xem trong cõi Phật tốt thay,
Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần.
Hội này thấy Phật chân thân,
Đặng nghe pháp nhiệm tâm thần sáng trưng.
Quyết tu độ chúng phàm dân,
Đủ lời thệ nguyện Phật ân rộng dầy.
Phật thệ chắc thiệt không sai,
Cầu về Tịnh độ, ai ai tin lòng.
Cầu về Tịnh độ một nhà,
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình.
Hoa nở rồi biết tánh linh,
Các ông Bồ tát bạn lành với ta.

PHỤ LỤC: SÁM HỒNG TRẦN

Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán,
Kiếp phù sinh tụ tán mấy hồi.
Người đời có biết chăng ôi !
Thân người tuy có, có rồi hườn không.
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng,
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi.
Làm cho buồn bã thế ni,
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi.
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi,
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.
Khi nào du lịch giang hồ,
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài,
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang.
Khi nào trau ngọc chuốt vàng,
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.
Khi nào mắt đẹp mày thanh.
Bây giờ thấy dạng, thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu,
Bây giờ một nấm cỏ sầu xanh xanh.
Khi nào liệt liệt oanh oanh,
Bây giờ một trận tan tành gió mưa.
Khi nào ngựa lọc xe lừa,
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng.
Khi nào ra trướng vào màn,
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha,
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng.
Khi nào vợ vợ chồng chồng,
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn.
Khi nào cháu cháu con con,
Bây giờ hai ngã nước non xa vời.
Khi nào cốt nhục vẹn mười,
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì.
Khi nào bạn hữu sum vầy,
Bây giờ chén rượu, cuộc kỳ vắng thiu,
Cái thân như tấc bóng chiều,
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi.
Xưa ông Bành Tổ sống đời,
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu.
Sang mà đến bực công hầu,
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch Sùng.
Nghèo mà đói khát lạnh lùng,
Khổ mà tóc cháy, da phồng trần ai.
Phù du sớm tối một mai,
Giàu sang cũng thác, xạc xài cũng vong.
Thông minh tài trí anh hùng,
Si mê dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go,
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê.
Sự đời nên chán nên chê,
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi, hỡi vong hồn,
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa ?
Tỉnh rồi một giấc say sưa.
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về.
Hồn về Cực lạc nước kia,
Cho xa hang quỷ mà lìa kiếp ma.
Nhờ ơn Đức Phật Di Đà,
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang.
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng.
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhân.
Quan Âm Bồ tát vui mừng,
Tay cầm nhành liễu tay bưng kim đài.
Với cùng Thế Chí các Ngài,
Cũng đều khuyên thỉnh lên ngay sen vàng
bảo cái, có tràng phan,
Có mùi hương lạ, có đàn ngọc xây.
Có trời các cõi truy tùy,
Có đờn, có trống, rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tây phương,
Có ao thất bảo, có hương ngũ phần.
Lưu ly có đất sáng ngần,
Ma ni có nước trong ngần chảy quanh.
Thất trân có bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu.
Có ngân các, có kim lâu,
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền.
Đã sinh về chín phẩm sen,
Mấy tai cũng sẩy, mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con,
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi.
Lầu vàng đài báu thiếu gì,
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu.
Không ơn, không oán, không sầu,
Không già, không chết, có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi,
Gương xưa nay đã lau chùi trần ô.

Tu hành phải đời kiếp mô,
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ.
Lựa là phải ngộ thiền cơ,
Mà đèn trí huệ để mờ đi đâu ?
Mấy lời thệ nguyện trước sau,
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà.
Phân thân ra khỏi Ta bà,
Từ bi tiếp độ những là chúng sinh.

 

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức vô biên
Xin đem hồi hướng mọi miền gần xa
Chúng sinh pháp giới bao la
Đều về Cực lạc Di Đà Tây thiên
Nguyện tiêu ba chướng não phiền
Nguyện khai trí tuệ vô biên sáng ngời
Nguyện trừ tội chướng bao đời
Hành theo Bồ tát đời đời vị tha
Nguyện sinh Tịnh độ Di Đà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa khai ngộ pháp vô sinh
Cùng chư Bồ tát bạn lành với ta
Nguyện đem công đức tạo ra
Hướng về khắp cả gần xa hưởng nhờ
Con cùng muôn loại thân sơ
Đều thành Phật đạo, đến bờ an vui.

 

 TỰ QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, tất cả không ngại.

 

Source: tangthuphathoc.com


Ý kiến bạn đọc
26 Tháng Mười Một 201507:57
Khách
Xin cho con hỏi là có video đọc kinh này không ạ?
28 Tháng Mười 201207:00
Khách
hay qua, dich rat chinh xac
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15582)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14057)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12980)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55117)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9176)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14448)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14167)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14209)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36325)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18177)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19162)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20292)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17641)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31538)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14695)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46178)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35945)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21612)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23406)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34385)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19492)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22943)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20195)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18374)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19846)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19536)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33424)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34491)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54528)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37734)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21139)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17890)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49666)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27455)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20279)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23040)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16328)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17925)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17371)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14476)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16868)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21986)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14376)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15404)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14999)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12701)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27399)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12517)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13198)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14490)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15425)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12871)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12206)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21656)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11285)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22735)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15087)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14952)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46194)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22462)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14588)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12623)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18909)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14743)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43869)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56977)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13844)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47506)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13661)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29016)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33324)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38391)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15407)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12533)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40396)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43425)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant