Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận suy về bông hồng cài áo

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8993)
Luận suy về bông hồng cài áo

LUẬN SUY VỀ BÔNG HỒNG CÀI ÁO 

Thích Thiện Chí

Văn bút "Bông hồng cài áo" của thượng tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãiViệt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 20 năm, chưa có một bản văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được. Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ

Sở dĩ, được mến mộ, vì bản văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai cũng muốn trả ơn cha mẹ. Thượng tọa đã đáp ứng nguyện vọng thiết tha ấy và khơi đúng nguồn cảm xúc sâu xa tận đáy lòng mọi người. Bằng cách diễn đạt cảm xúc tận đáy lòng của chính mình. Chắc có lẽ, ai có mẹ, cũng thương mẹ, cũng nhớ mẹ và nghĩ về mẹ như thế. Rồi cũng có điều, làm mọi người xốn xan. là mình đã lơ là, thiếu bổn phận, khi cha mẹ còn sanh tiền. Nay nhận thức được, biết mình đã đánh mất đi cái gì thiêng liêng, vô giá

Cho nên, đối với mọi người - còn mẹ hay mất mẹ, "Bông hồng cài áo" làm cho chúng ta cay xé cõi lòng và từ đó, hiểu mình phải làm gì, để tỏ lòng, để đền đáp công sanh thành của mẹ cha. Cho nên bấy lâu nay, mỗi độ thu sang, Rằm tháng Bảy, đồng bào Việt Nam, cũng như tính đồ Phật giáo đều đi chùa, tụng kinh, cúng dường, bố thí, tạo mọi công đức lành, cầu nguyện cho mẹ cha, người hiện tiền được sống lâu trăm tuổi, người đã qua đời, siêu sinh thác hóa. 

Sau khi hành lễ và nguyện cầu. Từ sân chùa, tỏa đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở nụ cười tươi, vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu phiền

Dù chưa đáp đền hết ân trọng, nhưng ít ra, cũng thể hiện cái gì đó, đối với mẹ cha. Bên cạnh niềm hân hoan đó, mọi người như đẹp ra. Bởi vì hôm nay, ngoài chiếc nón "Bài thơ", với tà áo dài phất phơ tung gió. Trước ngực mọi người, ai ai cũng có chiếc bông hồng xinh xắn, mang đầy ý nghĩa thân thương. Có những người mang trên ngực chiếc bông hồng trắng, mắt còn đỏ hoe, sưng ướt. Họ đã khóc, cho thân phận mồ côi của mình, cho cái tình cảm dạt dào của tình mẹ đối với con. Mắt em càng đỏ, càng đẹp. Bởi vì trong em chang chứa tình người mà ai đã khóc cho mẹ, biết bùi ngùi về công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thì người đó, đẹp nết lẫn đẹp lòng

Cho nên, hòa cùng với gió thu nhè nhẹ, mưa ngâu lất phất: mùa Vu Lan Rằm tháng Bảy, đất nước Việt Nam sống trong cảnh thanh bình. Con người trở thành hiền diệu, bởi vì ai cũng hành trai, giữ giới hồi hướng cho mẹ cha. Như vậy, chiếc bông hồng, điểm tô thêm cái đạo đức của con người. Biểu tượng "Bông hồng cài áo" đã được Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, chủ trương thực hiện tại Việt Nam, sau khi Thượng Tọa đi du hóa tại Nhật, có ngày lễ của mẹ. Ngày ấy, mọi người cài cho nhau đóa hoa hồng. Thấy việc làm đó hay hay, nên khi về Việt Nam, Thượng Tọa đã viết bài "Hoa Hồng cài áo" và phát động "cài Hoa hồng" vào dịp Vu Lan. 

Hồi xưa, tôi cứ thắc mắc. Tại sao Thượng Tọa không cho cài hoa khác. Chẳng hạn: hoa vạn thọ, nó vừa sặc sỡ, thơm tho, bền bỉ và như thế có nghĩa là mênh mông muốn cho mẹ cha được trường thọ. Hoặc tình mẹ con bất diệt. Chớ hoa hồng - mau tàn. Hơn nữa, hoa hồng xưa nay mang tiếng là hoa đẹp, có gai. Như vậy, chứng tỏ mình còn trách móc mẹ. Chính vì suy nghĩ như vậy, tôi thường ngắm nghía hoa hồng. Để tìm xem chiếc hoa hồng chức đựng ý nghĩa như thế nào. Hay đúng hơn, tôi sẽ nói gì, để biện minh cho biểu tượng "Bông hồng cài áo". 

Nếu chúng ta quan sát. Chúng ta thấy cây hoa hồng có hai loại lá. Những lá gần gốc, gần nhánh, thường mang năm lá nhỏ. Lá gần nụ hoa, chỉ còn ba lá nhỏ mà thôi. Năm chiếc lá nhỏ, tượng trưng cho ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tính). Ba chiếc lá kia tượng trưng cho tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Đó là nếp sống đạo đức của người phụ nữ Á Đông, và phụ nữ toàn thế giới, nói chung. 

Trước hết bàn về ngũ thường. Một người con gái, người phụ nữ, người mẹ - xứng đáng, là người giử trọn nhân cách của mình. Người con gái, người mẹ nào cũng dạt dào tình thương. Chính vì vậy, người con gái rất sợ đau thương, chia lìa, chết chóc. Cho nên, con gái thường thương yêu súc vật, sợ giết muôn loài. Đến khi thành mẹ, thì hết lòng thương con. Hễ nghe con khóc, dù bận rộn chuyện gì, cũng tất bật ôm con vào lòng cho bú mớm với lời ru con ngủ. Dẫu biết rằng, sữa là máu huyết, nhựa sống của bản thân mình, nhưng vì con, mẹ cho tất cả. Miễn sao con được no lòng. Tình thương của mẹ thật dạt dào nên, trong 

Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có đoạn: "Mẹ thời, ăn đắng nuốt cay, đễ dành bùi ngọt đủ đầy cho con... lại còn khi ngủ, ướt mẹ nằm. khô ráo phần con... Miễn con sung sướng dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam. Tính sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi bị giam cầm... ". Chính cái lòng "nhân" đó, chính sự thương yêu đó, người phụ nữ, mềm mỏng, nhiều cảm tình và đã hy sinh, chịu đựng cho người khác; cho con cái của mình. 

tình thương có dạt dào, dù sự luyến ái có cùng tột. Người con gái, người mẹ, được mọi người quý kính vì mẹ đã sống với một tư cách tốt lành. Tư cách này, được hấp thụ bởi sự truyền thừa của tổ tiên. Khi còn nhỏ, người con gái đã biết trau dồi "công, dung, ngôn, hạnh". Nghĩa là tự sửa đổi và sống mực thước. Đi, đứng, nói năng, hành động đoan trang, thùy mị, khéo léo. Lớn lên một chút đã biết giữ mình "tiết sạch giá trong". 

Cho nên "khuê môn bất xuất", giữ đạo làm con, học hạnh làm người. Khi về nhà chồng thì "thủ phận dâu con" kính trên nhường dưới. Chính cái nề nếp gia phong, lễ nghi phép tắt được huấn dục từ nhỏ. Người con gái Việt Nam, khi làm Mẹ đã truyền thụ cho con mình đạo đức và sự cảm phục. Đó là cái lễ của người Á Đông. Nếu chỉ giữ kẻ cho mình, để rồi dương tự đắt. Người con gái đã đánh mất đi cái thùy mị và công dung ngôn hạnh của mình. Cho nên, đối với cha mẹ, thì hiếu thảo. Đối với anh chị em thì thuận hòa. Đối với xã hội thì kính trên nhường dưới. Đối với thầy bạn thì một mực kính yêu, vâng lời. Làm vợ thì trung nghĩa

Người ta thường nói "Trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Xét ra thì quá khắt khe với phụ nữ, người mẹ được mọi người sủng ái, con cái yêu vì, bởi đức tánh thủy chung, tiết hạnh. Sống có "Nghĩa" như vậy, mới chứng tỏ thương chồng vì con. Việt Nam ta có "Hòn Vọng Phu". Người đàn bà ôm con đợi chồng ngoài chiến trận. Chờ đợi mỏi mòn rồi hóa đá, sự hóa đá đó, nói lên sự sắc son, nghĩa khí của người vợ, người mẹ. Cái "Nghĩa" đó là bài học giáo dục, là tình thương to lớn của người phụ nữ đối với chồng và con. Thường thì người mẹ nào thủ tiết thờ chồng, con cái trong gia đình nên danh nên phận. Người ta thường đánh giá con qua tư cách của mẹ. Tục ngữ Việt Nam có câu "Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng". Cho nên sự trung nghĩa của mẹ là gia tài vô giá của con. 

Nhưng không phải vì cái nhân, cái lễ, cái nghĩa mà người đàn bà ù lì, thiếu trí. Ngoài cái tình cảm dạt dào, cái khuôn phép, nề nếp gia phong, cái trung kiên sắt đá. Người phụ nữ còn biết lo toan cho sự nghiệp ngày mai bằng thêu thùa, may vá, hoặc tần tảo nuôi chồng, nuôi con. Danh từ "Nội tướng" vì thế được dành cho người vợ, người mẹ. Nghĩa là mẹ cũng là người đảm đang khéo léo, lo toan, vén khéo từ chuyện trong nhà, đến việc giao tế cư xử ngoài xã hội. Khổng Tử nên người, phải chăng do trí của bà mẹ? 

Nếu mẹ Khổng Tử cứ để cho con sống gần lò sát sinh, thì chắc sau này Khổng Tử đã làm nghề đồ tể. Mà người con ngay từ thuở lọt lòng đến khi khôn lớn, đều chịu ảnh hưởng phần lớn giáo dục của mẹ. Với điệu ru con ngủ, tư cách đoan trang, lời nói nhẹ nhàn, giáo dục khôn khéo v.v... đã in đậm vào tâm trí của con. Cho nên, con thành người, hiển đạt là do sự giáo dục của mẹ. Đó cái "Trí" của mẹ vậy. 

Cuối cùng là chữ "Tín". Rất quan trọng đối với phụ nữ. Người mẹ được con yêu vì cũng vì chữ tín. Nghĩa là, tư cách, đạo đức của mẹ được con và mọi người tín nhiệm. Muốn thực hiện được chữ tín ấy, người phụ nữ phải thực hiện trọn vẹn bốn đức tính trên (nhân, lễ, nghĩa, trí). Ngoài ra, lời nóiviệc làm phải là một. Nói năng phải giữ hòa khí, kính nhường. Hành động phải rõ ràng, trong sáng. Tín được đánh giá qua sinh hoạtđời sống đạo đức của con người. Xưa kia, Khổng Tử thấy người ta giết lợn. 

Về nhà hỏi mẹ, mẹ Khổng Tử đáp: "Người ta giết lợn để lấy thịt cho con ăn". Đã lỡ lời, dù nhà nghèo mẹ Khổng Tử phải bằng mọi cách mua cho Khổng Tử thịt lợn để ăn. Ngày nay, Khổng Tử được làm thầy thiên hạ, không phải tự nhiên mà được. Mà là do hấp thụ các nhân cách, đạo đức của mẹ. Vì vậy, ngủ thường là đức tính cao quý mà tất cả phụ nữ phải rèn luyện, khắc kỷ - để sau này truyền thụ lại cho con. Năm lá hoa hồng tượng trưng cho đức tính cao đẹp ấy. 

Khi hoa hồng có nụ. Năm chiếc lá giảm xuống còn có ba. Tượng trưng cho tam tòng. Nghĩa là, muốn cho tình thương trọn vẹn, đạo đức mình tốt đẹp, người phụ nữ phải có ba đức tánh thuần phục. Khi còn nhỏ, phải hiếu thuận với cha mẹ. Lớn lên, có chồng, phải một dạ thủy chung. Khi chồng qua đời, thì ở vậy nuôi con. Thường người ta nói: "giọt nước trước, chảy làm sao, giọt nước sau chảy như vậy". 

Cho nên, người mẹ muốn con mình hiếu thuận, trước hết phải làm con hiếu thuận. Muốn con mình quý kính, dạy dỗ được nó, thì phải là người đàn bà chung thủy, ngay thật. Ai trên đời, không muốn tự do và hưởng thụ. Nhưng vì con, từ nhỏ cho đến khi lìa đời, người đàn bà đã hy sinh, đánh mất đi sự tự do của bản thân mình. Chịu nép mình, khắc kỷ theo nề nếp đạo đức gia phong. Đến khi có chồng có con thì hết lòng vì chồng con. Chồng chết, thủ tiết thờ chồng nuôi con. Cho nên Tam Tòng là kết tinh cái giá trị cao quý của người đàn bà. Nó là giá trị chung cuộc của người phụ nữ từ khi sanh ra đến khi lìa đời. Chính giá trị đó, kết tinh thành nhựa sống, sự yêu thương cho đàn con. Vì vậy, sau ba chiếc lá đó, hoa hồng đã nẩy nở, lung linh trước gió và khởi sắc trước ánh mặt trời

Hoa hồng, ngoài cái sặc sỡ của màu sắc; còn chứa đựng mùi hương nhẹ nhàng thanh khiết. Đó là kết tinh của ngày sinh trưởng chồi non, đâm tược nẩy cành. Rồi từ năm lá, còn ba lá, để sau cùng, nở ra một đóa hoa hồng thắm. Chiếc hoa hồng đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, phấn đấu trước phong ba bão táp, để rồi góp phần làm đẹp cuộc đời. Cũng vậy cái cao quý, cái tình thương của người mẹ là kết tinh đạo đức của tổ tiên, của sự khôn khéo trong đời sống; để rồi chịu đựng, hy sinh, nhẫn nại, truyền thụ cho con. Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình. Cho nên, màu hồng tượng trưng cho sự sống của người mẹ. Sự sống ấy, sức sống ấy, mẹ để lại cho con, cho cuộc đời. Nếu mất mẹ, con đã mất đi sức sống ấy, tình thương ấy. Cho nên, ai mất mẹ, như hoa hồng không còn màu sắc. 

Bởi trải qua quá trình hy sinh, gian khổ. Cho nên, người mẹ dễ dàng kiệt lực. Hình ảnh chiếc hoa hồng sớm tàn phai phải chăng nói lên sự tàn phai, kiệt lực của người mẹ. Vì ai? Phải chăngchúng ta, những người con của mẹ. 

Muốn chiếc hoa hồng đừng vội khô héo, úa tàn. Chỉ cần ngâm cành hoa vào ly nước lạnh. Nước lạnh thì có chất bổ dưỡng gì. Nhưng có nó, chiếc hoa hồng thêm sức sống. Cũng vậy, tình con đối với mẹ lợt lạt, lơ là. Nhưng mẹ thiếu tình con, mẹ cũng chóng úa tàn, ủ dột. Vì vậy, rất diễm phúc cho người mẹ nào có con hiếu thảo. Người mẹ ấy sẽ sống lâu, thanh thản vui tươi một đời. Cho nên, hiếu thảo với cha mẹ là thêm sức sống cho cha mẹ. Thiếu tình thương với cha mẹ, hoặc sống không đạo đức, để cha mẹ lo âu, phiền muộn là bức tử cha mẹ - như hoa hồng thiếu nước vậy. 

Tuy nhiên, dù con có đối xử thế nào đi nữa, thì cha mẹ vẫn cưu mang. ưu hoài lo lắng về con. Suốt cuộc đời, nào phải dưỡng nuôi, tần tảo, rồi giáo dục, dựng vợ gả chồng. Đến khi gần chết, còn lo cho con, cho cháu đói no, thiếu kém. Nên cuối cùng còn để cho con di sản, gia tài. Tục ngữ Việt Nam có câu "Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Nghĩa là công ơn của cha mẹ cao lớn, bất tận. Cũng như vậy, hoa hồng dù chóng tàn phai, nhưng đài hoa luôn luôn xanh tươi rắn chắc. 

Cái khó chịu nhất của biểu tượng hoa hồng cài áo là những chiếc gai của nó. Bởi vì, nói mẹ là tình thương, là đạo đức, là... nhưng cuối cùng, những chiếc gai đó, như phá tan, làm đổ nát cái cao quý thiêng liêng về mẹ. Nhưng suy đi nghĩ lại. Chính những cái gai đó mới lột tả hết cái tình thương cao quý của mẹ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, có những bà mẹ, vì quyền lợi, địa vị, danh vọng của con đã bằng tất cả mưu trí, kể cả tính độc ác để soán ngôi, tráo chúa. Vì con, mẹ cũng dám xé xác tình địch để dành chồng dành cha. Vì con, mẹ dám giết gà mổ heo để cho con được bổ dưỡng.

Cho nên Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có dạy : "Vì con miễn sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi giam cầm". Tất cả tính ích kỷ, nhỏ nhoi, độc ác, tị hiềm, thủ lợi v.v... của mẹ - là vì con. Con chó, con gà khi có con thì trở thành hung hăng. Loài súc sanh còn thế, huống chi con người. Cho nên, thật là hay, nếu chiếc hoa hồng thiếu gai, nhưng hoa hồng sẽ khó giữ được cái tươi đẹp, cái trọn vẹn của hoa hồng. Người con gái không có cứng rắn thì khó giữ được sự tinh nguyên của người con gái. 

Người mẹ thiếu đi tính ích kỷ, độc ác thì làm sao bảo vệ, nuôi dưỡng đàn con. Do đó, cái cay cú, độc hiểm mới thể hiện đức tính cao quý của mẹ, một cách trọn vẹn. Như vậy, biểu tượng "Hoa Hồng cài áo" là một biểu tượng diễn đạt hết tâm tình của người mẹ đối với con. Cho nên cứ mỗi độ Vu Lan Rằm tháng Bảy, tất cả những người con sung sướng được gắn chiếc bông hồng lên áo. Nơi đó, tim ta đang thổn thức, làm chiếc bông hồng thêm sinh động. và tình mẹ con thêm dạt dào nhớ thương. Nhưng cài hoa hồng lên áo, không có nghĩa là chỉ ca ngợi về mẹ, mà còn nhắc nhở chúng ta có hiếu với cha mẹ. Chúng ta có bổn phận phải đền đáp lại ân đức hy sinh của cha mẹ; đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục

Nhưng đền đáp bằng cách nào - chẳng thấm tháp vào đâu! Giống như hạt muối bỏ vào biển. Như hạt cát thêm vào sa mạc. Nhưng dầu sao, có làm, có thể hiện thì cũng hơn không. May mắn cho chúng ta. Chúng tagiáo lý của Đức Phật. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường cao thượng và phương pháp trả hiếu trọn vẹn. Ngày lễ Vu Lan, cung thỉnh thập phương Tăng, thiết trai cúng dường - với thức ăn trăm món, trái cây trăm màu v.v... chỉ là thử thách lòng nhiệt thành của chúng tatháo gỡ, cứ thoát tâm bỏn sẻn, ích kỷ của cha mẹ khi còn sinh tiền. Cái quan trọng là chúng ta ý thức được sự hiếu đạo và thực hiện trong cuộc đời. Thông thường khi chúng ta thọ ân ai muốn đền đáp lại, ai cũng muốn trả ơn cái mình đã thọ. Nếu khôngđạo Phật thì chúng ta khó thể hiện được điều nầy. Bởi vì, công ơn cha mẹ cao như trời biển. Nhưng để đối lại cái đạo đức, cái khắc kỷ "ngũ thường" của cha mẹ, chúng ta giữ "ngũ giới" của Phật giáo

Cha mẹ mong cho chúng ta nên người, thành người đạo đức cho nên suốt cuộc đời người đã nhẫn chịu khuôn phép đạo đức; của tổ tông, trui luyện đúng nhân phẩm. Nay chúng ta cũng phải suốt đời giữ tròn năm giới. Sở dĩ năm giới của Phật Giáo có thể đối đãi với công ơn cha mẹ, vì năm giới của Phật Giáo xuất thế - vượt trên cái đạo đức của con người. Giữ tròn năm giới không những chúng tađạo đức của một con người, mà chúng ta còn có tình thương bao la với người, với vật mà còn thoát khỏi cái nghiệp báo luân hồi. Một khi chúng ta thoát được nghiệp quả luân hồi thì chúng ta còn cứu thoát quả khổ của cha mẹ - như gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên

Cho nên, muốn cha mẹ yên lòng không gì hơn là chúng tatình thương với muôn loài. Lục đạo chúng sanh cũng là cha mẹ trong nhiều đời, nhiều kiếp. Muốn cứu rỗi cha mẹ, không gì hơn là thoát khỏi luân hồi. Người xưa có dạy :"Nhứt nhơn thành đạo, cữu huyền thăng". Cho nên giữ tròn năm giớiđáp lại năm đức của cha mẹ. Đồng thời cứu thoát cha mẹ khỏi trầm luân. Nhưng muốn hiểu và thực hành đúng năm giới đó, chúng ta phải quy y Tam Bảo. Bởi vì chỉ có Đức Phật, lời dạy của Phật, và sự hướng dẫn của chư Tăng là chơn chánh. Mẹ chúng tachúng ta mà giữ tam tòng, để tròn đức hạnh của một người mẹ. 

Chúng ta muốn tròn đức hạnh và xứng đáng là người con - không gì quý hơn là phải sống chơn chánh - bằng cách quy thuận và thực hành theo giáo huấn của Tam Bảo. Phần tự tu tự độ cho chúng ta, nhờ thế được trọn vẹn. Nhưng điều đó chỉ đáp lại công hy sinh sức nhẫn nại của cha mẹ đối với chúng ta. Chúng ta phải phát tâm thêm nữa, thương người mến vật. 

Tình thương bao la rộng lớn ấy, mới đáp lại phần nào, tình thương của cha mẹ đối với chúng ta. Cho nên hạnh lợi tha (làm lợi ích cho người khác) là công đức trọn đầy để hồi hướng cho tình thương của cha mẹ. Cha mẹ sanh tiền thương ta, muốn chúng ta sống an nhàn đạo đức, nếu chúng ta giữ tròn tam quy, ngũ giới thì đã làm cho cha mẹ vui lòng. Cha mẹ chết đi, để lại cho chúng ta gia tài sự sản. Đáp lại, làm con, chúng ta phải tìm cách siêu độ vong linh về thế giới an lành. Muốn vậy, chúng ta phải ăn chay, niệm Phật, tụng kinh v.v... mong sao cha mẹ mình về nơi an vui vĩnh viễn. Có như vậy, chúng ta mới cởi bỏ tất cả nghiệp chướngcha mẹ chúng ta đã vì chúng ta mà gây tạo. 

Tóm lại, đáp lại đức hạnh của mẹ, chúng ta phải thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Đáp lại tình thương của mẹ, chúng ta phải phát tâm tu tập

Đáp lại công ơn sanh thành và dưỡng dụclo lắng của cha mẹ, chúng ta phải cầu nguyệnhồi hướng công đức cho cha mẹ sớm về cõi Cực Lạc và để cởi bỏ nghiệp chướngcha mẹchúng ta phải đeo mang, bằng sự tu tập chứng đắcthanh tịnh của chính mình. 

Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng bổn phận làm con và Bông Hồng cài áo trọn đầy ý nghĩa.

Thích Thiện Chí

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11705)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11197)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11928)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10241)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29235)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11953)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11937)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10948)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19617)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7330)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11357)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35302)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12859)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12208)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17335)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11470)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22100)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11820)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15916)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12122)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14102)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12603)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13216)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13649)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19987)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14409)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13536)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12341)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11898)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34723)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13403)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13726)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31964)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13208)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13066)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13422)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13306)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18045)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14925)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15724)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14865)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15847)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20771)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21297)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35117)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27524)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43920)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37887)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15135)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15060)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12965)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12638)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15610)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27694)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14957)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11405)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53172)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16519)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13160)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12606)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15578)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15490)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14755)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15603)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13032)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11760)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12290)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12575)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13474)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12462)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24972)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11965)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12735)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11613)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13731)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14096)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12902)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12736)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13005)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13908)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13609)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12442)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14430)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13286)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13754)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14624)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11855)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12723)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28281)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11780)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12640)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15054)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11998)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11759)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12853)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11969)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11518)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10276)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant