Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luận suy về bông hồng cài áo

04 Tháng Tám 201100:00(Xem: 8992)
Luận suy về bông hồng cài áo

LUẬN SUY VỀ BÔNG HỒNG CÀI ÁO 

Thích Thiện Chí

Văn bút "Bông hồng cài áo" của thượng tọa Thích Nhất Hạnh, trở thành một kiệt tác và được truyền thừa rộng rãiViệt Nam. Cho tới ngày nay, đã hơn 20 năm, chưa có một bản văn nào nói về mẹ được mọi giới ưa chuộng, hoặc thay thế được. Lời lẽ trong bài "Bông hồng cài áo", không phải súc tích ở lời văn chải chuốt, triết lý cầu kỳ

Sở dĩ, được mến mộ, vì bản văn vừa khế lý lẫn khế cơ. Đạo hiếu là đạo của con người và ai cũng muốn trả ơn cha mẹ. Thượng tọa đã đáp ứng nguyện vọng thiết tha ấy và khơi đúng nguồn cảm xúc sâu xa tận đáy lòng mọi người. Bằng cách diễn đạt cảm xúc tận đáy lòng của chính mình. Chắc có lẽ, ai có mẹ, cũng thương mẹ, cũng nhớ mẹ và nghĩ về mẹ như thế. Rồi cũng có điều, làm mọi người xốn xan. là mình đã lơ là, thiếu bổn phận, khi cha mẹ còn sanh tiền. Nay nhận thức được, biết mình đã đánh mất đi cái gì thiêng liêng, vô giá

Cho nên, đối với mọi người - còn mẹ hay mất mẹ, "Bông hồng cài áo" làm cho chúng ta cay xé cõi lòng và từ đó, hiểu mình phải làm gì, để tỏ lòng, để đền đáp công sanh thành của mẹ cha. Cho nên bấy lâu nay, mỗi độ thu sang, Rằm tháng Bảy, đồng bào Việt Nam, cũng như tính đồ Phật giáo đều đi chùa, tụng kinh, cúng dường, bố thí, tạo mọi công đức lành, cầu nguyện cho mẹ cha, người hiện tiền được sống lâu trăm tuổi, người đã qua đời, siêu sinh thác hóa. 

Sau khi hành lễ và nguyện cầu. Từ sân chùa, tỏa đi khắp nẻo đường đất nước, các người con hiếu đạo, miệng nở nụ cười tươi, vì cảm thấy lòng mình thanh thản, bớt mọi ưu phiền

Dù chưa đáp đền hết ân trọng, nhưng ít ra, cũng thể hiện cái gì đó, đối với mẹ cha. Bên cạnh niềm hân hoan đó, mọi người như đẹp ra. Bởi vì hôm nay, ngoài chiếc nón "Bài thơ", với tà áo dài phất phơ tung gió. Trước ngực mọi người, ai ai cũng có chiếc bông hồng xinh xắn, mang đầy ý nghĩa thân thương. Có những người mang trên ngực chiếc bông hồng trắng, mắt còn đỏ hoe, sưng ướt. Họ đã khóc, cho thân phận mồ côi của mình, cho cái tình cảm dạt dào của tình mẹ đối với con. Mắt em càng đỏ, càng đẹp. Bởi vì trong em chang chứa tình người mà ai đã khóc cho mẹ, biết bùi ngùi về công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, thì người đó, đẹp nết lẫn đẹp lòng

Cho nên, hòa cùng với gió thu nhè nhẹ, mưa ngâu lất phất: mùa Vu Lan Rằm tháng Bảy, đất nước Việt Nam sống trong cảnh thanh bình. Con người trở thành hiền diệu, bởi vì ai cũng hành trai, giữ giới hồi hướng cho mẹ cha. Như vậy, chiếc bông hồng, điểm tô thêm cái đạo đức của con người. Biểu tượng "Bông hồng cài áo" đã được Thượng Tọa Thích Nhất Hạnh, chủ trương thực hiện tại Việt Nam, sau khi Thượng Tọa đi du hóa tại Nhật, có ngày lễ của mẹ. Ngày ấy, mọi người cài cho nhau đóa hoa hồng. Thấy việc làm đó hay hay, nên khi về Việt Nam, Thượng Tọa đã viết bài "Hoa Hồng cài áo" và phát động "cài Hoa hồng" vào dịp Vu Lan. 

Hồi xưa, tôi cứ thắc mắc. Tại sao Thượng Tọa không cho cài hoa khác. Chẳng hạn: hoa vạn thọ, nó vừa sặc sỡ, thơm tho, bền bỉ và như thế có nghĩa là mênh mông muốn cho mẹ cha được trường thọ. Hoặc tình mẹ con bất diệt. Chớ hoa hồng - mau tàn. Hơn nữa, hoa hồng xưa nay mang tiếng là hoa đẹp, có gai. Như vậy, chứng tỏ mình còn trách móc mẹ. Chính vì suy nghĩ như vậy, tôi thường ngắm nghía hoa hồng. Để tìm xem chiếc hoa hồng chức đựng ý nghĩa như thế nào. Hay đúng hơn, tôi sẽ nói gì, để biện minh cho biểu tượng "Bông hồng cài áo". 

Nếu chúng ta quan sát. Chúng ta thấy cây hoa hồng có hai loại lá. Những lá gần gốc, gần nhánh, thường mang năm lá nhỏ. Lá gần nụ hoa, chỉ còn ba lá nhỏ mà thôi. Năm chiếc lá nhỏ, tượng trưng cho ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tính). Ba chiếc lá kia tượng trưng cho tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Đó là nếp sống đạo đức của người phụ nữ Á Đông, và phụ nữ toàn thế giới, nói chung. 

Trước hết bàn về ngũ thường. Một người con gái, người phụ nữ, người mẹ - xứng đáng, là người giử trọn nhân cách của mình. Người con gái, người mẹ nào cũng dạt dào tình thương. Chính vì vậy, người con gái rất sợ đau thương, chia lìa, chết chóc. Cho nên, con gái thường thương yêu súc vật, sợ giết muôn loài. Đến khi thành mẹ, thì hết lòng thương con. Hễ nghe con khóc, dù bận rộn chuyện gì, cũng tất bật ôm con vào lòng cho bú mớm với lời ru con ngủ. Dẫu biết rằng, sữa là máu huyết, nhựa sống của bản thân mình, nhưng vì con, mẹ cho tất cả. Miễn sao con được no lòng. Tình thương của mẹ thật dạt dào nên, trong 

Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có đoạn: "Mẹ thời, ăn đắng nuốt cay, đễ dành bùi ngọt đủ đầy cho con... lại còn khi ngủ, ướt mẹ nằm. khô ráo phần con... Miễn con sung sướng dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam. Tính sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi bị giam cầm... ". Chính cái lòng "nhân" đó, chính sự thương yêu đó, người phụ nữ, mềm mỏng, nhiều cảm tình và đã hy sinh, chịu đựng cho người khác; cho con cái của mình. 

tình thương có dạt dào, dù sự luyến ái có cùng tột. Người con gái, người mẹ, được mọi người quý kính vì mẹ đã sống với một tư cách tốt lành. Tư cách này, được hấp thụ bởi sự truyền thừa của tổ tiên. Khi còn nhỏ, người con gái đã biết trau dồi "công, dung, ngôn, hạnh". Nghĩa là tự sửa đổi và sống mực thước. Đi, đứng, nói năng, hành động đoan trang, thùy mị, khéo léo. Lớn lên một chút đã biết giữ mình "tiết sạch giá trong". 

Cho nên "khuê môn bất xuất", giữ đạo làm con, học hạnh làm người. Khi về nhà chồng thì "thủ phận dâu con" kính trên nhường dưới. Chính cái nề nếp gia phong, lễ nghi phép tắt được huấn dục từ nhỏ. Người con gái Việt Nam, khi làm Mẹ đã truyền thụ cho con mình đạo đức và sự cảm phục. Đó là cái lễ của người Á Đông. Nếu chỉ giữ kẻ cho mình, để rồi dương tự đắt. Người con gái đã đánh mất đi cái thùy mị và công dung ngôn hạnh của mình. Cho nên, đối với cha mẹ, thì hiếu thảo. Đối với anh chị em thì thuận hòa. Đối với xã hội thì kính trên nhường dưới. Đối với thầy bạn thì một mực kính yêu, vâng lời. Làm vợ thì trung nghĩa

Người ta thường nói "Trai năm thê, bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng". Xét ra thì quá khắt khe với phụ nữ, người mẹ được mọi người sủng ái, con cái yêu vì, bởi đức tánh thủy chung, tiết hạnh. Sống có "Nghĩa" như vậy, mới chứng tỏ thương chồng vì con. Việt Nam ta có "Hòn Vọng Phu". Người đàn bà ôm con đợi chồng ngoài chiến trận. Chờ đợi mỏi mòn rồi hóa đá, sự hóa đá đó, nói lên sự sắc son, nghĩa khí của người vợ, người mẹ. Cái "Nghĩa" đó là bài học giáo dục, là tình thương to lớn của người phụ nữ đối với chồng và con. Thường thì người mẹ nào thủ tiết thờ chồng, con cái trong gia đình nên danh nên phận. Người ta thường đánh giá con qua tư cách của mẹ. Tục ngữ Việt Nam có câu "Mua heo chọn nái, mua gái chọn dòng". Cho nên sự trung nghĩa của mẹ là gia tài vô giá của con. 

Nhưng không phải vì cái nhân, cái lễ, cái nghĩa mà người đàn bà ù lì, thiếu trí. Ngoài cái tình cảm dạt dào, cái khuôn phép, nề nếp gia phong, cái trung kiên sắt đá. Người phụ nữ còn biết lo toan cho sự nghiệp ngày mai bằng thêu thùa, may vá, hoặc tần tảo nuôi chồng, nuôi con. Danh từ "Nội tướng" vì thế được dành cho người vợ, người mẹ. Nghĩa là mẹ cũng là người đảm đang khéo léo, lo toan, vén khéo từ chuyện trong nhà, đến việc giao tế cư xử ngoài xã hội. Khổng Tử nên người, phải chăng do trí của bà mẹ? 

Nếu mẹ Khổng Tử cứ để cho con sống gần lò sát sinh, thì chắc sau này Khổng Tử đã làm nghề đồ tể. Mà người con ngay từ thuở lọt lòng đến khi khôn lớn, đều chịu ảnh hưởng phần lớn giáo dục của mẹ. Với điệu ru con ngủ, tư cách đoan trang, lời nói nhẹ nhàn, giáo dục khôn khéo v.v... đã in đậm vào tâm trí của con. Cho nên, con thành người, hiển đạt là do sự giáo dục của mẹ. Đó cái "Trí" của mẹ vậy. 

Cuối cùng là chữ "Tín". Rất quan trọng đối với phụ nữ. Người mẹ được con yêu vì cũng vì chữ tín. Nghĩa là, tư cách, đạo đức của mẹ được con và mọi người tín nhiệm. Muốn thực hiện được chữ tín ấy, người phụ nữ phải thực hiện trọn vẹn bốn đức tính trên (nhân, lễ, nghĩa, trí). Ngoài ra, lời nóiviệc làm phải là một. Nói năng phải giữ hòa khí, kính nhường. Hành động phải rõ ràng, trong sáng. Tín được đánh giá qua sinh hoạtđời sống đạo đức của con người. Xưa kia, Khổng Tử thấy người ta giết lợn. 

Về nhà hỏi mẹ, mẹ Khổng Tử đáp: "Người ta giết lợn để lấy thịt cho con ăn". Đã lỡ lời, dù nhà nghèo mẹ Khổng Tử phải bằng mọi cách mua cho Khổng Tử thịt lợn để ăn. Ngày nay, Khổng Tử được làm thầy thiên hạ, không phải tự nhiên mà được. Mà là do hấp thụ các nhân cách, đạo đức của mẹ. Vì vậy, ngủ thường là đức tính cao quý mà tất cả phụ nữ phải rèn luyện, khắc kỷ - để sau này truyền thụ lại cho con. Năm lá hoa hồng tượng trưng cho đức tính cao đẹp ấy. 

Khi hoa hồng có nụ. Năm chiếc lá giảm xuống còn có ba. Tượng trưng cho tam tòng. Nghĩa là, muốn cho tình thương trọn vẹn, đạo đức mình tốt đẹp, người phụ nữ phải có ba đức tánh thuần phục. Khi còn nhỏ, phải hiếu thuận với cha mẹ. Lớn lên, có chồng, phải một dạ thủy chung. Khi chồng qua đời, thì ở vậy nuôi con. Thường người ta nói: "giọt nước trước, chảy làm sao, giọt nước sau chảy như vậy". 

Cho nên, người mẹ muốn con mình hiếu thuận, trước hết phải làm con hiếu thuận. Muốn con mình quý kính, dạy dỗ được nó, thì phải là người đàn bà chung thủy, ngay thật. Ai trên đời, không muốn tự do và hưởng thụ. Nhưng vì con, từ nhỏ cho đến khi lìa đời, người đàn bà đã hy sinh, đánh mất đi sự tự do của bản thân mình. Chịu nép mình, khắc kỷ theo nề nếp đạo đức gia phong. Đến khi có chồng có con thì hết lòng vì chồng con. Chồng chết, thủ tiết thờ chồng nuôi con. Cho nên Tam Tòng là kết tinh cái giá trị cao quý của người đàn bà. Nó là giá trị chung cuộc của người phụ nữ từ khi sanh ra đến khi lìa đời. Chính giá trị đó, kết tinh thành nhựa sống, sự yêu thương cho đàn con. Vì vậy, sau ba chiếc lá đó, hoa hồng đã nẩy nở, lung linh trước gió và khởi sắc trước ánh mặt trời

Hoa hồng, ngoài cái sặc sỡ của màu sắc; còn chứa đựng mùi hương nhẹ nhàng thanh khiết. Đó là kết tinh của ngày sinh trưởng chồi non, đâm tược nẩy cành. Rồi từ năm lá, còn ba lá, để sau cùng, nở ra một đóa hoa hồng thắm. Chiếc hoa hồng đã hấp thụ tinh hoa của trời đất, phấn đấu trước phong ba bão táp, để rồi góp phần làm đẹp cuộc đời. Cũng vậy cái cao quý, cái tình thương của người mẹ là kết tinh đạo đức của tổ tiên, của sự khôn khéo trong đời sống; để rồi chịu đựng, hy sinh, nhẫn nại, truyền thụ cho con. Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình. Cho nên, màu hồng tượng trưng cho sự sống của người mẹ. Sự sống ấy, sức sống ấy, mẹ để lại cho con, cho cuộc đời. Nếu mất mẹ, con đã mất đi sức sống ấy, tình thương ấy. Cho nên, ai mất mẹ, như hoa hồng không còn màu sắc. 

Bởi trải qua quá trình hy sinh, gian khổ. Cho nên, người mẹ dễ dàng kiệt lực. Hình ảnh chiếc hoa hồng sớm tàn phai phải chăng nói lên sự tàn phai, kiệt lực của người mẹ. Vì ai? Phải chăngchúng ta, những người con của mẹ. 

Muốn chiếc hoa hồng đừng vội khô héo, úa tàn. Chỉ cần ngâm cành hoa vào ly nước lạnh. Nước lạnh thì có chất bổ dưỡng gì. Nhưng có nó, chiếc hoa hồng thêm sức sống. Cũng vậy, tình con đối với mẹ lợt lạt, lơ là. Nhưng mẹ thiếu tình con, mẹ cũng chóng úa tàn, ủ dột. Vì vậy, rất diễm phúc cho người mẹ nào có con hiếu thảo. Người mẹ ấy sẽ sống lâu, thanh thản vui tươi một đời. Cho nên, hiếu thảo với cha mẹ là thêm sức sống cho cha mẹ. Thiếu tình thương với cha mẹ, hoặc sống không đạo đức, để cha mẹ lo âu, phiền muộn là bức tử cha mẹ - như hoa hồng thiếu nước vậy. 

Tuy nhiên, dù con có đối xử thế nào đi nữa, thì cha mẹ vẫn cưu mang. ưu hoài lo lắng về con. Suốt cuộc đời, nào phải dưỡng nuôi, tần tảo, rồi giáo dục, dựng vợ gả chồng. Đến khi gần chết, còn lo cho con, cho cháu đói no, thiếu kém. Nên cuối cùng còn để cho con di sản, gia tài. Tục ngữ Việt Nam có câu "Công Cha như núi Thái Sơn, nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Nghĩa là công ơn của cha mẹ cao lớn, bất tận. Cũng như vậy, hoa hồng dù chóng tàn phai, nhưng đài hoa luôn luôn xanh tươi rắn chắc. 

Cái khó chịu nhất của biểu tượng hoa hồng cài áo là những chiếc gai của nó. Bởi vì, nói mẹ là tình thương, là đạo đức, là... nhưng cuối cùng, những chiếc gai đó, như phá tan, làm đổ nát cái cao quý thiêng liêng về mẹ. Nhưng suy đi nghĩ lại. Chính những cái gai đó mới lột tả hết cái tình thương cao quý của mẹ. Lịch sử nhân loại đã chứng minh, có những bà mẹ, vì quyền lợi, địa vị, danh vọng của con đã bằng tất cả mưu trí, kể cả tính độc ác để soán ngôi, tráo chúa. Vì con, mẹ cũng dám xé xác tình địch để dành chồng dành cha. Vì con, mẹ dám giết gà mổ heo để cho con được bổ dưỡng.

Cho nên Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Ân có dạy : "Vì con miễn sao có lợi thì làm. Chẳng màng tội lỗi giam cầm". Tất cả tính ích kỷ, nhỏ nhoi, độc ác, tị hiềm, thủ lợi v.v... của mẹ - là vì con. Con chó, con gà khi có con thì trở thành hung hăng. Loài súc sanh còn thế, huống chi con người. Cho nên, thật là hay, nếu chiếc hoa hồng thiếu gai, nhưng hoa hồng sẽ khó giữ được cái tươi đẹp, cái trọn vẹn của hoa hồng. Người con gái không có cứng rắn thì khó giữ được sự tinh nguyên của người con gái. 

Người mẹ thiếu đi tính ích kỷ, độc ác thì làm sao bảo vệ, nuôi dưỡng đàn con. Do đó, cái cay cú, độc hiểm mới thể hiện đức tính cao quý của mẹ, một cách trọn vẹn. Như vậy, biểu tượng "Hoa Hồng cài áo" là một biểu tượng diễn đạt hết tâm tình của người mẹ đối với con. Cho nên cứ mỗi độ Vu Lan Rằm tháng Bảy, tất cả những người con sung sướng được gắn chiếc bông hồng lên áo. Nơi đó, tim ta đang thổn thức, làm chiếc bông hồng thêm sinh động. và tình mẹ con thêm dạt dào nhớ thương. Nhưng cài hoa hồng lên áo, không có nghĩa là chỉ ca ngợi về mẹ, mà còn nhắc nhở chúng ta có hiếu với cha mẹ. Chúng ta có bổn phận phải đền đáp lại ân đức hy sinh của cha mẹ; đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục

Nhưng đền đáp bằng cách nào - chẳng thấm tháp vào đâu! Giống như hạt muối bỏ vào biển. Như hạt cát thêm vào sa mạc. Nhưng dầu sao, có làm, có thể hiện thì cũng hơn không. May mắn cho chúng ta. Chúng tagiáo lý của Đức Phật. Ngài đã chỉ cho chúng ta con đường cao thượng và phương pháp trả hiếu trọn vẹn. Ngày lễ Vu Lan, cung thỉnh thập phương Tăng, thiết trai cúng dường - với thức ăn trăm món, trái cây trăm màu v.v... chỉ là thử thách lòng nhiệt thành của chúng tatháo gỡ, cứ thoát tâm bỏn sẻn, ích kỷ của cha mẹ khi còn sinh tiền. Cái quan trọng là chúng ta ý thức được sự hiếu đạo và thực hiện trong cuộc đời. Thông thường khi chúng ta thọ ân ai muốn đền đáp lại, ai cũng muốn trả ơn cái mình đã thọ. Nếu khôngđạo Phật thì chúng ta khó thể hiện được điều nầy. Bởi vì, công ơn cha mẹ cao như trời biển. Nhưng để đối lại cái đạo đức, cái khắc kỷ "ngũ thường" của cha mẹ, chúng ta giữ "ngũ giới" của Phật giáo

Cha mẹ mong cho chúng ta nên người, thành người đạo đức cho nên suốt cuộc đời người đã nhẫn chịu khuôn phép đạo đức; của tổ tông, trui luyện đúng nhân phẩm. Nay chúng ta cũng phải suốt đời giữ tròn năm giới. Sở dĩ năm giới của Phật Giáo có thể đối đãi với công ơn cha mẹ, vì năm giới của Phật Giáo xuất thế - vượt trên cái đạo đức của con người. Giữ tròn năm giới không những chúng tađạo đức của một con người, mà chúng ta còn có tình thương bao la với người, với vật mà còn thoát khỏi cái nghiệp báo luân hồi. Một khi chúng ta thoát được nghiệp quả luân hồi thì chúng ta còn cứu thoát quả khổ của cha mẹ - như gương hiếu hạnh của Ngài Mục Kiền Liên

Cho nên, muốn cha mẹ yên lòng không gì hơn là chúng tatình thương với muôn loài. Lục đạo chúng sanh cũng là cha mẹ trong nhiều đời, nhiều kiếp. Muốn cứu rỗi cha mẹ, không gì hơn là thoát khỏi luân hồi. Người xưa có dạy :"Nhứt nhơn thành đạo, cữu huyền thăng". Cho nên giữ tròn năm giớiđáp lại năm đức của cha mẹ. Đồng thời cứu thoát cha mẹ khỏi trầm luân. Nhưng muốn hiểu và thực hành đúng năm giới đó, chúng ta phải quy y Tam Bảo. Bởi vì chỉ có Đức Phật, lời dạy của Phật, và sự hướng dẫn của chư Tăng là chơn chánh. Mẹ chúng tachúng ta mà giữ tam tòng, để tròn đức hạnh của một người mẹ. 

Chúng ta muốn tròn đức hạnh và xứng đáng là người con - không gì quý hơn là phải sống chơn chánh - bằng cách quy thuận và thực hành theo giáo huấn của Tam Bảo. Phần tự tu tự độ cho chúng ta, nhờ thế được trọn vẹn. Nhưng điều đó chỉ đáp lại công hy sinh sức nhẫn nại của cha mẹ đối với chúng ta. Chúng ta phải phát tâm thêm nữa, thương người mến vật. 

Tình thương bao la rộng lớn ấy, mới đáp lại phần nào, tình thương của cha mẹ đối với chúng ta. Cho nên hạnh lợi tha (làm lợi ích cho người khác) là công đức trọn đầy để hồi hướng cho tình thương của cha mẹ. Cha mẹ sanh tiền thương ta, muốn chúng ta sống an nhàn đạo đức, nếu chúng ta giữ tròn tam quy, ngũ giới thì đã làm cho cha mẹ vui lòng. Cha mẹ chết đi, để lại cho chúng ta gia tài sự sản. Đáp lại, làm con, chúng ta phải tìm cách siêu độ vong linh về thế giới an lành. Muốn vậy, chúng ta phải ăn chay, niệm Phật, tụng kinh v.v... mong sao cha mẹ mình về nơi an vui vĩnh viễn. Có như vậy, chúng ta mới cởi bỏ tất cả nghiệp chướngcha mẹ chúng ta đã vì chúng ta mà gây tạo. 

Tóm lại, đáp lại đức hạnh của mẹ, chúng ta phải thọ Tam Quy, Ngũ Giới. Đáp lại tình thương của mẹ, chúng ta phải phát tâm tu tập

Đáp lại công ơn sanh thành và dưỡng dụclo lắng của cha mẹ, chúng ta phải cầu nguyệnhồi hướng công đức cho cha mẹ sớm về cõi Cực Lạc và để cởi bỏ nghiệp chướngcha mẹchúng ta phải đeo mang, bằng sự tu tập chứng đắcthanh tịnh của chính mình. 

Được như vậy, chúng ta mới xứng đáng bổn phận làm con và Bông Hồng cài áo trọn đầy ý nghĩa.

Thích Thiện Chí

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11544)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13532)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14121)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10298)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10766)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11268)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11420)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10160)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9957)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10689)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42184)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10474)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11846)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10006)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11314)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11315)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10620)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11013)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10606)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12306)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11156)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11834)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9206)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10532)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10222)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10574)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10904)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10798)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27374)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11852)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12277)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10437)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10771)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28054)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10141)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10272)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10636)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11463)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18241)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10514)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12838)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11748)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29166)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13313)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22764)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11559)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13800)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25694)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26055)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22292)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12058)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11790)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33162)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12014)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22469)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14213)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12057)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10390)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13290)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34505)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12608)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12218)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12617)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12961)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16288)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27375)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28420)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13394)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant