Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Phật dạy báo ân

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10982)
07. Phật dạy báo ân

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

Phật dạy báo ân [03]

Lúc ấy trong đại thành Vương Xá, có năm trăm trưởng giả. Tên họ là Diệu Đức, Dũng Mãnh v.v... Các đại phú trưởng giả này đều đã thành tựu chánh kiến, cúng dường Như Lai và các thánh chúng. Trưởng giả là những vị giàu cóphúc đức vào thời đức Phật, nên gọi là ĐẠI PHÚ TRƯỞNG GIẢ. Các vị này đã thọ tam qui ngũ giới, đã biết qui hướng Tam bảo. Tam bảo là Phật, Pháp và Tăng bảo. Như ngày nay mình đến chùa qui y thọ giới, có pháp danh, cúng dường Tam bảo để Tam bảo được trường tồnthế gian. Đều là một trong những biểu hiện của người có chánh kiến

CHÁNH KIẾN là cái thấy chân chánh. Từ cái thấy này, mình sẽ có những hành vi tương ưng, mà cái quả của nó là hạnh phúcan lạc. Vận mệnh mình không do một đấng thượng đế nào định đoạn mà do chính suy nghĩhành vi của mình. Có cái nhìn như thế gọi là chánh kiến. Tương tự, những cái thấy như : Bố thí thì có cái quả phú quí. Thâm lạm của người thì bị quả báo tàn mạt. Ở hiền gặp lành v.v… đều là những dạng gọi là chánh kiến

Các trưởng giả này nghe Thế Tôn ca ngợi pháp môn tâm địa Đại thừa, mới nghĩ rằng “Ta thấy Như Lai phóng kim sắc quang, biểu hiện khổ hạnh khó hành của Bồ tát. Ta không thích tâm hành khổ hạnh. Ai có thể vĩnh kiếp trụ ở sanh tửø vì chúng sanh thọ các khổ não?”.

Pháp tu nào giúp mình nhận ra mình có trí tuệlòng từ như Phật, chỉ vì một chút không tỉnh, chạy theo những suy nghĩ tham ái sân giận mà gây tạo những nghiệp nhân không tốt, khiến thế giới Phật của mình trở thành thế giới nạn tai đau khổ, pháp môn đó gọi là PHÁP MÔN TÂM ĐỊA

Không nương vào những nghi thức cầu cúng bên ngoài, chỉ ngay nơi tâm mà tu, niệm sân khởi lên biết đó là niệm sân, dừng lại. Niệm tham nổi lên BIẾT đó là niệm tham, dừng lại. Bất cứ niệm nào hiện lên trong tâm mình đều BIẾT. BIẾT đến khi nhận được bản chất thực của nó, cũng như bản chất thực của vạn phápthế gian. Đó là lúc ta nhận được tâm chân thật của chính mình, tu vậy là mình đang áp dụng PHÁP MÔN TÂM ĐỊA.

KIM SẮC QUANG, chỉ cho quang minh sắc vàng tỏa ra từ người Phật. Quang minh đó là kết quả có được từ quá trình hành Bồ tát đạo, trải dài sanh tử làm lợi ích cho những người hữu duyên, cũng là quá trình thanh lọc những nhiễm ô vi tế trong tàng thức. Vì thế nói “Ta thấy Như Lai phóng kim sắc quang, biểu hiện khổ hạnh khó hành của Bồ tát”.

Phật nói “Giàu sang mà chịu học đạo là khó”. [04] Giàu sang mà chịu bỏ thì giờ đến chùa, chỉ để cúng dường xây chùa độ tăng, là đã thấy khó, huống là chịu đọc học kinh sách rồi ứng dụng nó vào cuộc sống thường nhật của mình. Phật nói khó, vậy mà các trưởng giả nói đây đều làm được, thì biết chủng nhân Phật pháp các vị từng gieo trong quá khứ rất thâm sâu. Chính vì chủng Phật pháp đã thâm sâu, Phật mới giảng pháp Đại thừaNhất thừa cho chư vị nghe. Có điều, do phước báu đời nay lớn quá, đời sống vật chất lẫn tinh thần quá sung túc, nên hạt giống Phật pháp trong các vị … bị che lấp. Nghe hành Bồ tát đạo, trải dài sanh tử học đạo, cứu giúp muôn người, người đói cơm cho cơm, người đói pháp cho pháp v.v… Các vị sinh tâm e ngại. Đây là chuyện thường tình ở thế gian. Bồ tát ra đời cách ấm còn mê. Gốc là Bồ tát, nhưng cứ một lần mất thân trước có thân sau, mình lại quên cái gốc của mình. Phải gặp thiện tri thức, nghe pháp v.v… mình mới dần dần nhớ lại và thực hiện tiếp hạnh nguyện mình đã làm trong quá khứ

Nghĩ vậy rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, quì xuống trước Phật, chấp tay cung kính cùng bạch Phật rằng : Bạch Thế Tôn! Chúng con không thích Bồ tát hạnh của Đại thừa, cũng không hoan hỉ khi nghe hai từ khổ hạnh. Vì sao? Vì hạnh nguyện tu hành của Bồ tát không phải là biết ân và báo ân. Vì sao? Vì xa lìa phụ mẫu hướng về xuất gia. Vì theo ý muốn của người mà đem cho vợ con. Lại theo chỗ ưa cầu của người mà bố thí đầu mắt tủy nảo của mình, chịu các khổ não. Phải đến ba a tăng kỳ kiếp tu đủ các độ và tám vạn bốn ngàn hạnh ba-la-mật, vượt giòng sanh tử mới được cái lạc của đại bồ đề. Chẳng bằng thú hướng đạo quả Nhị thừa, ba đời trăm kiếp tu tập tư lương, [05]đoạn nhân sanh tử, chứng quả niết bàn, chóng được an lạc, mới gọi báo ân.

Các vị trưởng giả nêu lý do vì sao các vị không thích tu Bồ tát hạnh. Có hai lý do:

1. Với những việc mà Phật đã làm, thì hành Bồ tát đạo là quá khổ và quá khó. 

2. Vì các hạnh mà một vị Bồ tát làm không phải là biết ân và báo ân

Vì khổ hoặc cảm thấy bất an trong cuộc sống, mình mới tìm đến đạo. Đến với đạo là để có một cuộc sống hạnh phúc từ vật chất đến tinh thần. Giờ tu hành rồi, tu một thời gian đầy đủ phước báu rồi, lại nghe Phật dạy phải hành Bồ tát đạo, phải trải dài từ đời này sang đời khác làm lợi lạc cho chúng hữu tình. Tu vậy thì tu chi cho cực? Chính vì vậy các vị phản đối.

Phật nói ân nghĩa trên đời không gì sánh được với công cha nghĩa mẹ. Giờ muốn làm Bồ tát thì phải xuất gia học đạo mới có thể làm Bồ tát (như đức Phật vượt thành, bỏ cha tha phương tìm đạo rồi hành đạo). Nhưng làm vậy thì thứ nhất, cha mẹ để nhà không ai cung phụng nuôi dưỡng sớm hôm. Thứ hai, làm vậy cha mẹ sẽ buồn lòng. Vì ngoại trừ những vị thâm hiểu Phật pháp, còn lại không bậc cha mẹ nào đẻ con ra, nuôi con khôn lớn, mà muốn nó bỏ mình cạo đầu vô chùa ăn chay nằm phản, hạn chế mọi thú vui ở đời. Do đó các vị nói hành Bồ tát đạo là không biết ân và báo ân.

ĐEM CHO VỢ CONsự tích đức Phật, trong một kiếp làm thái tử, thực hành hạnh nguyện bố thí ba-la-mật. BỐ THÍ BA-LA-MẬT là ai xin thứ gì, cho liền thứ đó, cho đến khi không còn gì để cho. Thái tử xin vua cha mở kho báu để mình được bố thí bất cứ vật gì mà người ta xin. Vua cha đồng ý. Vì ai xin gì cũng cho, nên cho luôn voi báu của vua cha. Vua tưởng ai xin gì cũng cho, là chỉ cho vàng bạc châu báu thóc gạo, không ngờ voi quí của mình nó cũng đem cho. Giận thằng con tự thịngu si, vua đuổi thái tử ra khỏi cung. 

Phu nhân thái tử là người lễ nghĩa, dù thái tử nói “Ta phải bố thí tận cùng những gì mình có cho tròn hạnh nguyện” và không muốn mang bà theo, bà vẫn một mực chấp nhận tất cả để theo chồng thọ pháp. Vợ chồng cùng hai con lên đường … Trên đường, các Bà-la-môn lại tiếp tục đến xin. Thái tử rộng tay bố thí luôn cả ba mẹ con, để thực thi hành nguyện bố thí ba-la-mật của mình. 

Vợ con, nếu nghịch đạo dữ dằn ác ôn, thiên hạ xin mà nhờ đó mình đắc đạo thành Phật, thì không đợi Phật dạy, mình cũng sẵn sàng. Nhưng vợ con ngoan hiền, ân nghĩa đầy tràn, tự dưng chỉ vì sự thành đạo của mình mà đem cho thiên hạ, phải nói là bất nhẫn. Song không bất nhẫn như thế, không buông xả được tận cùng như thế, thì đời này không có Phật, không có giáo pháp của Phật. Chúng sanh chìm trong biển khổ vô vàn. Sự hy sinh phải nói là to lớn. 

BỐ THÍ TỦY MẮT … THEO CHỖ ƯA CẦU CỦA NGƯỜI là do nghe sự tích : Trong một tiền kiếp, khi Phật còn hành Bồ tát đạo, ngài là một vị vua ở cõi Diêm-phù-đề, tên là Chiên-đàn-bà-la-tỳ, cũng đang thực hành hạnh bố thí ba-la-mật. 

Lúc đó có một Bà-la-môn tên Lao Độ Sai đến xin vua bố thí, không phải vật dụng châu báu mà chính là đầu của nhà vua. Ai nghe cũng hoảng, nhưng nhà vua thì bằng lòng. Mọi người cản ngăn, nhưng ông giải thích “Con người vì bị tình ái từ kiếp lâu xa trói buộc, nên bị ách sanh tử bức bách. Từ vô thủy kiếp đến nay, sống chết không biết bao lần, lúc trong nước phân tro, khi lại ở hố than, chết đây sanh kia. Thân ta đây, máu tanh huyết nồng, một ngày nào đó cũng tan rả, có gì luyến tiếc mà không xả bỏ để tu lấy pháp chân thường tịch tĩnh. Ta bỏ cái đầu này để thực hành hạnh nguyện Bồ tát. Sau khi thành đạo, ta sẽ hóa độ các ông thoát khỏi cái khổ sanh già bệnh chết”. Nói rồi ban đầu cho Lao Độ Sai mà không hề viện cớ mình là người đức độ, mình sống muôn dân mới được nhờ, mình chết ai độ muôn dân v.v... Đã nói cho là cho tất, dù đó là thân mạng mình.

Tu mà đụng ai xin thứ gì cũng cho như vậy, đang khổ nghe còn ngán, huống là các vị đang sống trong giàu sang sung sướng. Phản đối là chuyện thường tình.

Song hai hình tượng trên chỉ là những hình tượng bên ngoài, nói lên thân tâm bên trong đã hết chấp trước nhiễm ô. Nghĩa là, muốn thành Phật thì tâm hết nhiễm ô mới là chính, không phải cứ cho vợ con hay bố thí thân mình, là đã thành Phật. Nếu chỉ lấy hình tướng bên ngoài đó làm tiêu chuẩn đánh giá vấn đề thành Phật, thì những chàng cảm tử Irad đều thành Phật. Nhưng chắc chắn mấy ông đó không thể thành Phật. Những hình tượng đó chỉ muốn nói lên sự thanh tịnh, không còn dính mắc của thân tâm

Cho nên, cuối kinh, Phật có nêu lên 3 loại ba-la-mật. Loại thứ nhất là Bố thí ba-la-mật, chỉ cho hình ảnh thứ nhất, là bố thí những thứ ngoài thân. Loại thứ hai là Thân cận Ba-la-mật, chỉ cho hình ảnh thứ hai, là bố thí những thứ ngay thân. Còn một loại nữa là Chân thật ba-la mật, là sống được với tâm chân thật của mình. Phật muốn Phật tử phải báo ân theo kiểu thứ ba. Sẽ được giải thích ở cuối kinh. 

Nếu có một pháp tu mà áp dụng nó, thân tâm mình hết nhiễm ô, thì mình chỉ cần áp dụng pháp tu đó, không cần phải cho vợ con hay chính bản thân mình. Vì thành Phật hay không chính là ở tự tâm còn nhiễm hay không, không phải ở những hình tướng bên ngoài. Gia đình cư sĩ Bàng Long Uẩn, vợ con vẫn xum vầy, nhưng cả ông và hai con đều ra đi rất tự tại. Vì tuy còn vợ con, nhưng đời sống vợ chồng, tình cảm ràng buộc con cái đã không còn, tâm không còn dích mắc bất cứ thứ gì. 

ĐẠO QUẢ NHỊ THỪA, là chỉ cho các quả vị có được mà không cần hành Bồ tát đạo. Chỉ cần chịu ngồi một mình trong chốn tĩnh lặng và thiền định. Nhập được trạng thái thiền định của hàng La Hán thì thoát được sanh, già, bệnh, chết, hưởng được sự an lạc vô biên.

Tóm lại, các vị trưởng giả không thích tu pháp Đại thừa. Vì với cái nhìn của chư vị, tu Đại thừa quá khổ. Nếu phải tu thì cùng lắm là tu theo Nhị thừa, thoát cái khổ sanh già bệnh chết. Tức đã tu thì chỉ có tiến tới, vui ít tiến lên vui nhiều, không thể nhảy từ chỗ đang vui lùi lại chỗ khổ cực. Chắc ai cũng đồng tình với các vị trưởng giả đây. 

Phật nói với 500 trưởng giả : Lành thay! Lành thay! Các ông nghe tán thán Đại thừa, tâm sinh thối chuyển phát khởi đại nghĩa, khiến cho tất cả chúng sanh không biết ân nghĩa trong thời vị lai đều được lợi ích an lạc. Thuyết pháp, người nghe phản bác, Phật không bực mình mà còn tán thán “Lành thay!Lành thay! Các ông nghe tán thán Đại thừa, tâm sinh thối chuyển phát khởi đại nghĩa …”. Không phải khen vì các vị phản bác, cũng không phải khen vì các vị nghe tu Đại thừa sinh tâm thối chuyển. Khen, vì nhờ sự thối tâm đó, Phật mới biết được lý do thối tâmgiải thích, giúp người ở thời vị lai, là những người như mình đây, chưa hiểu về báo ân có cơ hội hiểu nó rõ ràng.

Lắng nghe, lắng nghe rồi khéo suy nghiệm! Ta nay vì ông phân biệt tuyên thuyết những chỗ ân nghĩa thuộc cả thế gianxuất thế gian. Này thiện nam tử! Chỗ nói của các ông chưa đáng là chánh lý. Vì sao? Vì ân nghĩathế gianxuất thế gian có 4 loại : 
1. Ân cha mẹ

2. Ân chúng sanh

3. Ân tổ quốc. 

4. Ân Tam bảo.

Bốn ân đó, chúng sanh đều phải đảm đương như nhau. 

Lắng nghe lắng nghe là muốn người nghe để tâm nghe cho kỹ. Nghe thế nào hiểu đúng thế ấy, đừng phân tâm để chữ thì tới tai, chữ lại không, khiến vấn đề trở thành sai lệch. 

CHƯA ĐÁNG CHÁNH LÝ, là các vị mới biết một mà chưa biết hai. 

ÂN không phải chỉ có ân cha mẹ, mà có đến bốn : Cha mẹ, chúng sanh, tổ quốc và Tam bảo. Tất cả mọi người đều phải có bổn phận đền đáp những ân này.

BÁO ÂN không phải chỉ có một mà đến hai. Không phải chỉ có dùng phẩm vật, công sức v.v… thuộc thế gian mới gọi là báo ân, mà còn có cách báo ân xuất thế gian. Cách báo ân này mới thật là báo ân, mới có thể báo hết 4 ân trên. Nó vượt xa cách báo ân thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13437)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11719)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11250)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11959)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10290)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29290)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11970)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11975)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10977)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19651)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7370)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11401)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35374)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12886)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12234)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17376)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11498)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22141)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11861)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15955)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12142)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14139)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12631)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13236)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13687)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20035)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14432)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13575)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12381)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11916)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34775)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13428)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13750)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32022)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13233)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13090)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13458)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13326)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18068)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14950)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15765)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14903)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15879)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20836)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21357)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35205)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27573)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 44008)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37944)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15163)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15089)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13014)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12674)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15650)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27791)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 15004)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11430)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53234)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16568)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13210)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20733)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12659)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15641)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15550)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14825)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15638)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13079)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11803)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12331)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12600)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13511)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12505)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25019)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 12017)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12790)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11634)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13785)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14137)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12942)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12774)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13042)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13960)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13025)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13643)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12490)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14478)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13332)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13809)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14660)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11908)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12753)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28330)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11823)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12679)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15111)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12040)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11799)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12905)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12020)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11551)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant