Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý "đại lễ Vu Lan" trong truyền thống pháp hội Phật giáo Bắc truyền

10 Tháng Tám 201100:00(Xem: 19243)
Lược ý "đại lễ Vu Lan" trong truyền thống pháp hội Phật giáo Bắc truyền

LƯỢC Ý "ĐẠI LỄ VU LAN"
TRONG TRUYỀN THỐNG PHÁP HỘI PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN
Thích Tâm Mãn

Chứng được sáu phép thần thông, nhớ mẹ Mục Liên Tôn Giả xuống A Tỳ tìm cứu mẫu thân. Phật dạy nương oai thần Tự Tứ, thiết trai cúng dường, đảo huyền thọ khổ chúng sanh được siêu thoát. Lại một lần nữa Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu lại trở về với người con Phật trên khắp năm châu bốn bể, tâm hiếu nguyện cầu lan tỏa bao trùm cả đại địa thời không.

blankĐại Lễ Vu Lan tiếng Phạn là Ullambana, Đông độ phiên âm là Ô lam bà noa, còn gọi là Vu Lan Bồn. Phiêm âm chữ Ullam là “Vu Lan” có nghĩa là “Đảo huyền” treo ngược, chử bana là “Bồn” có nghĩa là “Cứu” chỉ cho vật dụng dùng để cứu giúp, cho nên danh xưng Vu Lan Bồn có nghĩa là Cứu đảo huyền, cứu giúp thoát khỏi nổi khổ bị treo ngược.

Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu đảo huyền, Cứu đảo huyền được hiểu theo nghĩa, là phương pháp cứu giúp tất cả các loài quỷ đói thoát khỏi những nổi thống khổ bị đảo ngược, như thân thểhình dáng thô, xấu, ác khác lạ với loài người, các cơ quan nội tạng ngược với các chức năng vốn có của nó như cổ thì bằng cây kim, bụng thì to như trống, và có những cách thức ăn uống vô cùng khó khăn thống khổ, muốn ăn cũng không cách nào nuốt được thức ăn, muốn uống thì cũng không sao uống được nước, lúc nào cũng bị lửa đói khát thiêu đốt, khi ăn thức ăn biến thành lửa, vì vậy nổi thống khổ vô cùng, cho nên cứu đảo huyền là cứu cái khổ của những gì ngược lại với bình thường, cũng không khác với cái khổ của người bị treo ngược.

Trong truyện Mục Liên Giải Cứu Mẫu Ách chép: “Có một vị Tăng tên là Mục Liên, pháp lực quảng đại, mẹ của Ngài bị đọa xuống địa ngụcngạ quỷ, khi ăn thức ăn đều biến thành lửa, đói khác vô cùng. Mục Liên không có phương pháp nào để cứu ách nạn cho mẹ, đến Phật cầu xin chỉ giúp, Đức PhậtMục Liên nói pháp Vu Lan Bồn để cứu mẹ thoát khổ...”.

Khởi nguyên của Đại lễ Vu La Bồn là căn cứ theo Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn chính là từ thuyết về Ngài Mục Kiền Liên Tôn Giả, là một trong mười vị đại đệ tử của Phật. Khi chứng đắc được lục thần thông, vì nhớ tưởng đến người mẹ quá cố của mình, nên đã dùng thần thông huệ nhãn nhìn khắp các cõi, trên đến các tầng trời, dưới qua hết các tầng địa ngục, thì thấy mẹ mình bị sanh làm ngạ quỷ đói khát khổ sở, do bởi các nghiệp ác chính bà đã tạo nên, vì vậy Ngài vận thần thông đi vào địa ngục đem cơm đến cho mẹ mình, nhưng mẹ Ngài ăn không được vì tất cả thực phẩm đều biến thành lửa. Ngài Mục Kiền Liên về bạch Phật, Phật thuyết pháp Vu Lan BồnPhật Giáolễ hội Vu Lan bắt nguồn từ đó.

Trong Phật Thuyết Kinh Vu Lan Bồn chép: “Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy: Một thuở nọ Thế Tôn an trụ, Xá Vệ thành Kỳ Thụ Viên trung, Mục Liên mới đặng lục thông.....Làm con hiếu hạnh vi tiên, bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tầm, thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ....Mục Liên thấy vậy bi ai, biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm, lo phẩm vật đem dâng từ mẫu. Thấy cơm mẹ rất lo âu .....Sợ chúng ma cướp giựt của bà, Cơm chưa đưa đến miệng đà, hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu...”

Theo lời Phật dạy cho Ngài Mục Kiền Liên trong Kinh Vu Lan về phương pháp cứu mẹ, có chép: “này Mục Liên ngày 15 tháng 7 là ngày Phật hoan hỷ, cũng là ngày Tự tứ của chư Tăng, nên đem thức ăn nước uống đựng trong bình bát cúng dường chư TăngTam Bảo, trượng thừa đại từ bi lực, oai thần công đức lực của Tam Bảo, có thể cứu độ được cha mẹ đời này và cũng có thể cứu độ cha mẹ bảy đời trước...”

Phương pháp cứu mẹ mà Đức Phật dạy cho Ngài Mục liên trở thành nghi thức cúng dường trai Tăng nhân ngày Tự Tứ, được gọi là pháp “Vu Lan” và bình bát để vật thực cúng dường cho chư Tăng chính là “Bồn” vật để trợ duyên cho pháp cứu tế, nên gọi đủ là Pháp Vu Lan Bồn.

Đại lễ Vu Lan còn được coi là Đại Lễ Báo Hiếu, tất cả ai là đệ tử Phật nên phải học theo hạnh hiếu của Tôn Giả Mục Kiền Liên, cho nên Lễ Vu Lan tháng bảy cũng được coi là mùa báo hiếu trong Đạo Phật. Trong Kinh Vu Lan Phật dạy: “Là đệ tử Phật, nên tu hạnh hiếu thuận, trong từng niệm luôn nghĩ đến cha mẹ, cho đến cha mẹ trong bảy đời, mỗi năm đến rằm tháng bảy nếu muốn báo đáp công ơn dưỡng dục của cha mẹ, nên làm pháp Vu Lan Bồn để cúng dường Phật và Tăng, lấy công đức đó hồi hướng công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ vậy…”

Đại Lễ Vu Lan Bồn có từ thời Đức Phật còn tại thế, vì căn cứ vào Kinh Vu Lan và Ngài Mục Kiền Liên là thủy tổ của Pháp hội này, và cũng là người tổ chức Pháp hội này trước nhất. Pháp hội Vu Lan với tính chất đề cao tinh thần đạo đức hiếu hạnh và phương pháp cứu độ cho các hương linh thoát khỏi khổ não địa ngục của mình, rất hợp với thuần phong mỹ tục của Ấn Độ đã nhanh chóng được lan truyền cũng như phát triển trong xã hội lúc bấy giờ.

Theo Kinh Đại Bồn Tịnh Độ chép: “Vua Tần Bà Sa La, Trưởng Giả Tu Đạt cùng với Phu Nhân Mạc Lợi đều y theo lời dạy của Phật trong Kinh Vu Lan Bồn làm 500 cái bồn bằng vàng cúng dường Phật cùng Chúng Tăng, để cầu nguyện diệt trừ tội chướng của cha mẹ trong bảy đời…”. Phật Giáo Đông lai, Kinh Vu Lan Bồn cũng được Ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn, và một lần nữa Đạo Hiếu của Phật Giáo lại thịnh hànhĐông Phương.

Hiếu đạo ở Đông Phương là một chuẩn mực đạo đức của xã hội rất được coi trọng, nhưng chỉ dừng lại ở hiếu thuận với cha mẹ còn tại thế, còn như cha mẹ đã mất hoặc là bảy đời phụ mẫu thì chưa có phương pháp để báo đáp đền ơn, chính vì vậy tư tưởng cũng như phương pháp báo hiếu của Đạo Phật đã giải quyết vấn đề nan giải này, và rất nhanh chóng được chấp nhậnphổ biến rộng rãi trong khắp các tầng lớp xã hội Đông Phương.

Đại Lễ Vu Lan Bồn được truyền vào Đông Độ và được tổ chức quy mô lần đầu tiên chính là Vua Lương Võ Đế, vị Vua Phật Tử có thể nói thuần thành và có công nhất trong việc hoằng truyền các Pháp Hội trong Phật Giáo Bắc Truyền. Trong sách Phật Tổ Thống Kỷ quyển 37 chép: “Niên hiệu Đại Đồng thứ 4, Vua đến chùa Đồng Thái thiết lễ Trai Tăng Vu Lan Bồn.”.

Pháp Hội Vu Lan Bồn tại Đông Độ được tổ chức như thế nào thì trong sách Thích Thị Lục Thiếp có chép: “Vua Lương Võ Đế cứ mỗi khi đến ngày 15 tháng 7, đều dùng bồn đựng các thứ cúng dường, đem cúng cho các chùa. Từ đó về sau, dần dần trở thành phong tục, các vua quan đời sau, cho đến thứ dân đều tuân theo lời Phật dạy, hưng khởi Pháp Hội Vu Lan Bồn để báo đáp ân của cha mẹ...”. Trong sách Pháp Uyển Châu Lâm chép: “các chùa lớn trong nước đều có tổ chức Hội Vu Lan Bồn... tín chúng quan quyền cho đến thứ dân, đến chùa đựng vật thực trong bồn hiến lễ báo hiếu rất đông.... thời Đường lễ Vu Lan rất được trọng thị.”.

Việt Nam Phật Giáo được truyền vào rất sớm và đạo đức của người Việt nam xem Hiếu Đạo là một chuẩn mực đạo đức của cuộc sống, cho nên Đại lễ Vu Lan Báo Hiếu của Phật Giáo được truyền vào Việt Nam, được dân tộc Việt Nam tín sùng và phát triển rộng rãi từ dân gian cho đến triều đình từ rất sớm là việc không có gì phải bàn cải, nhưng có những bằng chứng của sử liệu ghi chép về việc tổ chức đại lễ này, thì phải cho đến thời kỳ Lý Trần trở đi, nước nhà được độc lập mới có những tài liệu như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Châu Bản Triều Nguyễn .v.v… đề cập và ghi chép.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý chép: “Mùa thu tháng bảy năm Mậu Tuất (1118) tiết Trung Nguyên, vua Lý Nhân Tông bày cổ bàn, nhân vì lễ Vu Lan Bồn, cầu siêu cho Linh Nhân Hoàng thái hậu”. Đến đời vua Lý Thần Tông đại lễ Vu Lan Bồn trở thành quốc lễ của triều đình các quan phải chúc mừng, mà theo tinh thần nhà Phật ăn chay tịnh tâm để cầu nguyện cho nên triều đình không bày yến tiệc.

Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đoạn chép: “Tháng Bảy tiết Trung Nguyên, năm Mậu Thân (1128) Niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất. Vua Thần Tông ngự điện Thiên An, các quan dâng biểu chúc mừng, nhân lễ Vu Lan Bồn, thiết lễ cầu siêu báo hiếu cho vua Nhân Tông, nên không bày yến tiệc”.

Triều Lý rồi đến triều Trần Phật Giáo được coi như là Quốc Giáo, việc hằng năm mở hội Vu Lan Bồn báo hiếu siêu độ đã trở thành thông lệ và là một phong tục đẹp trong đời sống văn hóa đạo đức “uống nước nhớ nguồn của người Việt Nam”, đến triều Hậu Lê, một triều đình “trọng Nho bài Phật” nhưng lễ hội Vu Lan vẫn được tổ chức, qua đó cho thấy đại lễ Vu Lan báo hiếu không còn là lễ hội riêng của Phật Giáo nữa mà đã hòa mình vào mỹ tục đạo đức Việt trở thành lễ hội của dân tộc Việt Nam.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đoạn chép: “Mùa thu ngày 15 thánh 7 năm Giáp Dần (1434) niên hiệu Thiệu Bình thứ nhất, Vua Lê Thái Tông mở hội Vu Lan, tha cho 50 người tù nhân có tội nhẹ, cúng dường 220 quan tiền, cho các sư tụng Kinh...”.

Đến triều nhà Nguyễn Đại Lễ Vu Lan Bồn được tổ chức không đơn thuần chỉ là lễ hội báo hiếu, cầu siêu cho cửu huyền thất tổ của nhân dân, Phật tử, mà đã trở thành lễ hội của Quốc Gia cầu siêu cho chư anh linh chiến sĩ vì nước quên mình và do triều đình đứng ra tổ chức.

Trong Châu bản triều Nguyễn có đoạn chép: “Tháng 7 năm Ất Mùi (1835), vua Minh Mạng mở đại trai đàn Vu Lan rất lớn ở chùa Thiên Mụ. Nhà vua giao cho Hà Tôn Quyền và Hoàng Quýnh chịu trách nhiệm tổ chức, Bùi Văn Huyến làm đổng lý trai đàn. Trong kỳ đàn tràng lớn này, vua Minh Mạng đích thân lên chùa Thiên Mụ dự lễ. Vua làm nhiều bài thơ sai đem dán ở điện Phật và các đàn Thủy lục. Trai đàn cử hành được một tuần. Được tin quân triều đình chiếm lại được thành Phiên An (thành Gia Định), vua ra lệnh cho viết linh vị các tướng sĩ và biền binh bị mất trong cuộc đánh dẹp, cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, để làm lễ cầu siêu.”.

Truyền thống nhân lễ hội Vu Lan triều đình làm lễ kỳ siêu cho chiến sĩ anh linh “Vị quốc vong thân trở thành một trong những đại lễ quan trọng của triều đình nhà Nguyễn. Trong sách cũng có đoạn chép: “Năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị cho mở trai đàn bạt độ ở chùa Thiên Mụ, cầu siêu cho tướng sĩ trận vong trong cuộc chiến tranh ở Trấn Tây Thành (Campuchia)”.

Năm Mậu Dần vua Tự Đức cũng tổ chức lễ cầu siêu cho chư anh linh chiến sĩ nhân lễ Vu Lan. Trong sách có đoạn chép: “Mậu Dần, năm Tự Đức thứ 31 (1878), vào rằm tháng 7, vua thiết lễ Vu Lan Bồn rất lớn ở chùa Thiên Mụ. Bộ Lễ tâu vua: “Theo lệ đã đến kỳ mở đại trai đàn để chúc thọ nhà vua. Vua Tự Đức bảo: “Chúc một người sống lâu không bằng cứu vớt một người chết oan”.

 blank

Sau đó vua ra lệnh triệu tập chư Tăng từ trong Nam ra tới Quảng Bình về kinh đô, lên chùa Thiên Mụ mở hội Vu Lan bạt độ và vua ra lệnh cho các quan ở Thừa Thiên lấy ngày Trung nguyên tức ngày rằm tháng 7 năm đó, khai kinh phổ tế các tướng sĩ trận vong khắp cả Trung Nam Bắc kể từ năm Tự Đức nguyên niên đến lúc đó (1848- 1878)”.

Vu Lan Bồn với những tính chất đặc trưng của mình, cho nên hết đời này đến thời đại khác, không phân thời kỳ không kể chế độ, đại lễ Vu Lan vẫn được cử hành, vì dù thế nào đi nữa thì tâm hiếu của con người chỉ là một và lòng biết ơnbáo ơn của con người thì không hai, chính vì vậy mà nguồn sống của Vu Lan vững chải đến như vậy.

Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”, đã là người Phật tử ai cũng phải biết nhớ ân đền đáp, vì vậy mọi người muốn báo ân cha mẹ nên cúng dường Vu Lan, để hồi hướng cho cha mẹ siêu thoát. Đất Nước nhớ ân những người vì tổ quốc đã hy sinh nên thiết lễ Vu Lan để cầu nguyện chư anh linh được về cảnh Phật.v.v… Vu Lan Bồn là một pháp hội thù thắng và có tính phổ cập nhất trong Phật Giáo và có sự ảnh hưởng rất lớn về văn hóa sống, đạo đức làm người trong xã hội Việt Nam.

Theo dòng lịch sử đất nước thạnh suy, suy thạnh, Phật Giáo cũng theo vận nước bao lần hưng phế, nhưng Đại Lễ Vu Lan Bồn Báo Hiếu thì chưa có lúc nào bị lãng quên trong tâm thức của người dân Việt. Tâm hiếu hạnh của Mục Liên tôn giả nói riêng, người dân Việt Nam, và các dân tộc trên toàn thế giới nói chung chưa có lúc nào vơi cạn, vì vậy Mùa Báo Hiếu Vu Lan trở thành bất tử, và trở thành ngày hội của tình thương, của biết ân, của báo ân, đầy đủ hạnh lành của chư Phật và đạo đức sống muôn đời của loài người.


Thích Tâm Mãn
Chùa Minh Thành Pleiku

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20463)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22371)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18785)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27059)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18768)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19990)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38107)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20175)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28354)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46407)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15479)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65731)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13767)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18681)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15572)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14599)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18756)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12660)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17682)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25516)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38759)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17730)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11266)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18656)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17444)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13254)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13348)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17586)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24354)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12432)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13846)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 13023)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12909)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14193)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14639)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21124)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22657)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29997)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13904)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18282)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17096)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12656)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30761)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22830)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14673)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13024)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12777)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12538)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13080)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16347)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15250)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23861)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16215)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29041)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20313)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15589)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37282)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45080)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36953)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant