Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương II. Thiền Trúc Lâm - Yên Tử

27 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14641)
Chương II. Thiền Trúc Lâm - Yên Tử

CHƯƠNG II.
THIỀN TRÚC LÂM YÊN TỬ


TIẾT MỘT
NGUYÊN LAI PHÁT XUẤT

 

Trước khi xét đến nguyên lai phát xuất của Trúc lâm Yên tử, chúng ta ngược dòng Thiền tông để tìm khởi nguồn của nó.

Tại Hội Linh sơn, khi đức Phật cầm hoa sen khai thị trước đại chúng, lúc bấy giờ tất cả đại chúng đều im lặng, chỉ riêng có ngài Ca-diếp trực ngộ được tâm ý của Phật, mĩm cười. Phật liền bảo: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn vi diệu, thật tướng, vô tướng, nay đem phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp.”

Chính lời phó chúc bí pháp ấy là khởi điểm truyền thống Thiền tông. Thiền tông được truyền thừa từ ngài Ca-diếp đến A-nan, rồi lần lượt truyền đến vị Tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma. Bồ-đề-đạt-ma muốn nối tiếp làm sống dậy Thiền học nên đã tiếp tục lộ trình từ Tây Trúc sang Trung hoa thuyết giảng yếu chỉ Thiền học. Nền Thiền học bắt đầu du nhập vào Trung hoa và chính Bồ Đề Đạt ma là vị Tổ đầu tiên của Thiền tông Trung Hoa. 

Thế rồi Thiền tông được nối tiếp lần lượt bởi các ngài Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín v…v... Đồng thời với ngài Đạo Tín có ngài Tì-ni-đa-lưu-chi. Ngài Tì-ni-đa-lưu-chi sang truyền pháp tại Việt Nam; đem những tư tưởng Thiền học gieo rắc vào trong nhân gian. Ngài chính là người sáng lập Thiền tông Việt Nam và được tôn xưng là đệ nhất Tổ Thiền tông Việt Nam. Sau đó ngài truyền cho Pháp Hiền lập thành một phái Thiền tông.

Đến đời Đường (820) lại có Ngài Vô Ngôn Thông cũng là người Trung Hoa sang truyền giáo lập thành phái Thiền thứ hai. Rồi sau đó là phái Thảo đường.

Những trình bày trên chỉ là sơ lược sự truyền thừa Thiền tông. Ở đây chúng ta sẽ đặc biệt tìm điểm khởi nguồn trực tiếp của dòng Thiền Trúc lâm Yên tử, như là một trong những nét đặc thù xuất phát của Thiền học Việt Nam.

Đề cập đến Thiền học Việt Nam, tức phải nói đến đời nhà Trần vì triều đại nhà Trần là một triều đại mà suốt cả các vị vua đều được un đúc bởi tư tưởng Thiền học, trong đó Trần Thái Tông là người tiêu biểu nhất. Một gốc tích đáng kể nhất, và có thể được coi là quan trọng nhất trong chứng cứ khởi phát Thiền Trúc lâm Yên tử đó là núi Yên Tử. Núi Yên Tử đã được gắn liền với Thiền Trúc lâm, và chính nơi đây Trần Thái Tông đã khai mở con đừng mới về Thiền học.

Núi Yến tử là một dãy rừng ở Bắc Việt. Bắc giáp Bắc giang. Đông giáp bờ bể Đông hải. Núi Yên tử còn được gọi là Tượng sơn.

Thanh nhất thống chí có chép: “An Kỳ Sinh thời Hán bên Tàu đã chứng đạo tại đây.” Chính vì An Kỳ Sinh chứng đạo ở trên núi này nên đời sau người ta gọi là An hay Yên Tử. Sách, theo đó, cũng viết như vậy.

Đại Nam nhất thống chí chép: “Đời Đường, Tôn Quang Định có bài ký ‘Động thiên phước địa’ nói: Núi An Tử ở nước ta là một phước địa (kiểu đất tốt) trong 72 phước địa.” Và Hải nhạc thanh sơn đời Tống lấy núi này làm phước địa thứ tư. Sách Sử Lễ chí đời Minh nói: “Nước An Nam có 21 danh sơn liệt kê vào tự điển, mà núi An tử và núi Kiệt đặc là hai núi trong số ấy.” 1

Như thế, núi Yên tử vốn là một danh sơn đáng kể. Các vua đời Trần đã lấy núi này làm nơi để lập am mà tu hành, tham cứu Phật pháp và chính ở đây các Thiền sư đời Trần như Pháp Loa, Huyền Quang v.v… đã đắc pháp, truyền y bát.

Hơn thế, núi Yên tử còn có những đặc tính riêng mà không núi nào có thể sánh được.

khách trần tục hay những bậc đạo sĩ khi bước chân vào núi Yên tử là thấy ngay cảnh chùa Bí tượng, quanh đồi thì có suối tắm và cửa ngăn. Suối tắm là nơi Điều Ngự Giác hoàng vào Yên tử có xuống tắm; cửa ngăn là cửa bước vào rừng.2

Tiến đến là cảnh chùa Linh nham. Linh nham cũng được gọi là Cầm thực và tiếp theo là chùa Long động cũng gọi là chùa Lân. Ở đây tháp tượng thật nguy nga, thở ba vị Tổ Trúc lâm. Sau chùa có một ngôi tháp lớn bằng đá, trong tượng đá có ghi hàng chữ "Sắc kiến tịch quang tháp". Đây là tháp Tổ đệ nhất có bia khắc năm Bảo thái Lê Dụ Tông thứ 8 (1727) của Sa-di Như Như, thuật lại sự tích "Tuệ Đăng Hòa thượng Chính Giác Chân Nguyên Thiền sư" và chính là vị Tổ của chùa Lân.

Từ chùa Lân đi sâu vào là suối Giải oan. Giác hoàng lập một ngôi chùa ở đây với mục đích làm chay siêu độ cho những cung nhân đã tuẩn tiết khi theo gót vua Trần Nhân tông cho nên cũng gọi là chùa Giải oan. Suối Giải oan rộng độ hai trượng, phát nguyên từ đỉnh núi, nước xanh biếc, mát lạnh, còn gọi là Hổ khô. Sư Huyền Quang có làm bào thơ:

An Tử Sơn Am Tác: 安子山感作

Am bức thanh tiêu lãnh, 庵逼青霄冷

Môn khai vân thượng tầng. 門開雲上層

Dĩ can Long động nhật, 已竿龍峒日

Do xích Hổ khê băng. 猶尺虎溪冰

Bảo chuyết vô dư sách, 抱拙無餘策

Phù suy hữu sấu đăng. 扶衰有瘦籐

Trúc lâm đa túc điểu, 竹林多宿鳥

Quá bán bạn nhàn tăng. 過半伴閒僧 

Việt dịch:

Ở am Yên Tử:

Chiếc am cao lạnh lẽo,

Cửa mở giữa tầng mây.

Trời động Rồng đã đứng,

Băng khe Hổ còn dày.

Kém tài không mẹo dấu,

Nhờ gậy đỡ thân gầy.

Rừng trúc nhiều chim ngủ,

Phần đông bạn các thầy3

Bài thơ trên là chỉ tự bến Trung phong thẳng đến chùa Giải oan. Trước mặt của chùa này có khe và sau có núi, nhiều thông, trong có chùa Thanh thạch (chùa Đá xanh); có núi đá gọi là núi Hạ kiệu (mỗi khi vua Anh Tông nhà Trần đến đêy phải xuống kiệu nên gọi tên như thế). Bên cạnh núi Ngọc có ba ngọn tháp Tổ, rồi đến "Huệ Quang kim tháp" tức là tháp "Điều Ngự Giác Hoàng" Tổ thứ nhất trong Trúc lâm Tam Tổ.

Từ tháp "Điều Ngự Giác Hoàng" đi thẳng lên là chùa Hoa yên. Thời trước chùa này có tên là Vân yên rồi do vua Lê Thánh tông (1470-1497) đổi lại là Hoa yên. Ngoài ra còn được gọi là chùa Cả hay chùa Ân tử.

Một ngôi chùa khác cũng đáng được kể. Đó là hcùa Am trượng, đặc biệt trồng rất nhiều cây mộc tê (cây hoa mộc). Cứ mỗi lần hoa nở thì mùi hương thơm ngát, vì thế Thái Thuận đã có câu thơ: "Nhất thanh thu tại mộc tê hoa" (Một tiếng thu động thì hoa mộc tê nở). Từ chùa Hoa yên đi lên đỉnh, lại có chùa Vân tiêu. Chùa Vân tiêu thờ tượng tháp uy nghiêm hơn cả và chính nơi đây Trần Anh tông có vịnh một bài thơ: 

停停寶蓋高摩雲

金僊宮闕無凡塵

絕峰更有佛堂在

清風朗月相為鄰

清風掃地無休歇

明月清風妙冰雪

此風此月與此人

合成天下三奇絕

 

Đình đình bảo cái cao ma vân,

Kim tiên cung khuyết vô phàm trần.

Tuyệt phong cánh hữu Phật đường tại,

Thanh phong lãng nguyệt tương vi lân.

Thanh phong tảo địa vô hưu yết,

Minh nguyệt đương không diệu băng tuyết.

Thử phong thử nguyệt dữ thử nhân,

Hợp thành thiên hạ tam kỳ tuyệt

Việt dịch:

Thẳng tầng mây che lọng lớn,

Nơi tiên cung chẳng gơn bụi trần.

Đỉnh non chùa Phật trân trân,

Trăng trong gió mát bạn thân nơi này;

Vùng quạnh nẽo, suốt ngày gió mát,

Gương hằng nga như hệt tuyết băng;

Này người, này gió, này trăng,

Hợp nên tam tuyệt đâu bằng Vân tiêu!4

 

Sau chùa Vân tiêu thẳng lên là chùa Đồng tại đỉnh núi. Bên trong có một hòn đá đứng tự nhiên cao ba thước. Đấy là tượng An Kỳ Sinh. Trong thời ba tượng Quan Âm và tượng Trúc lâm Tam Tổ. Chính đây là tuyệt đỉnh của núi An tử. Đặc biệt lên đây hể ai nói tới hay đánh một tiếng chuông thì trời liền u ám đổ mưa:

Nào ai quyết chí tu hành

Có lên (về) An Tử mới dành lòng tu.

(Ca dao)

Đại Nam Nhất thống chí có viết: “Chùa này có nhiều sự linh dị. Mỗi khi đến ngày mồng một hay ngày rằm, sơn tăng lên thắp nhang rồi xuống núi trụ trì tại chùa Hoa yên. Một hôm có sơn tăng ngủ lại một đêm ở trong chùa Vân tiêu nằm mộng thấy sơn thần bảo: "Đây là nơi thiên phủ, phải để thanh vắng chứ không phải chỗ phàm trần nằm nghỉ". Sau chúng tăng đến bái Phật ra về, rồi cứ lấy tiếng chuông chùa ở Thần khê làm chừng.”5

Trên đây là địa thế và một vài cảnh trí đặc biệt của núi Yên tử mà sử sách còn ghi lại. Đây chính là nơi mà ngọn đuốc Thiền Trúc lâm được thắp sáng để mở đầu cho một trào lưu Thiền học thuần túy Việt Nam.

 

TIẾT HAI.
NHÂN VẬT KHAI SÁNG: TRẦN THÁI TÔNG

 

Trong lịch sử Việt Nam, đời Trần là một triều đại nổi bật về nhiều lãnh vực, nhất là trào lưu Thiền học, mang nhiều sắc thái độc đáo nhất của Phật giáo Việt Nam. Sắc thái độc đáo đó được gói trọn trong Trúc lâm Yên tử.

Trúc lâm Yên tử mang tính chất độc đáo và quan trọng như thế, cho nên đã được các nhà sử gia đề cập khá chi ly, đầy đủ nhất là đối với Trần Thái Tông, người đã mở đường cho Thiền Trúc lâm. Dưới đây là một ít sử liệu tiêu biểu.

 An nam Chí lược của Lê Tắc viết: “Suốt cuộc loạn đời Lý, Trần Thừa cùng em là Kiến Quốc đánh giặc có công, được phong chức Thái úy. Kiến Quốc được làm Đại ứớng quân. Con trai lấy con gái của Lý Huệ vương là Chiêu Thánh, nhân đó được truyền ngôi.

“Trần Cảnh con giữa của Thái Tổ (Trần Thừa); tính người khoan hậu, nhân từ, thông tuệ, văn võ kiêm toàn, lấy tư cách con rễ nhà Lý kế vị Quốc vương. Chiêu Thánh hậu không có con. Cảnh lại lấy người vợ của anh, sinh được ba người con.”6

Đại việt sử ký Toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết:

“Vua khoan dung nhân từ, đại độ, có cái lượng của bậc đế vương; cho nên có thể khai sáng nghiệp lớn để lại thống truyền, lập ra kỷ cương bành trướng, đấy là chế độ nhà Trần vĩ đại vậy. Nhưng mực thước mưu mô đều do tay Thủ Độ làm ra, trong buồng khuê có nhiều điều hổ thẹn…

“Vua tự tay viết lấy bài minh ban lời dạy bảo cho các hoàng tử lấy trung, hiếu, hòa, tốn, ôn, lương, cung, kiệm.”7 

Việt sử tiêu án của ngô Thời Sĩ đề cập đến Trần Thái Tông một cách đầy đủ hơn cả:

“Vua tên là Cảnh, được bà Chiêu hoàng truyền ngôi cho; làm vua được 33 năm. Tiên tổ vốn người Phúc kiến, bên Trung hoa; đến ông tổ là Kinh sang nước Nam ở làng Tức mặc, phủ Thiên tường, sinh ra Hấp. Hấp sinh ra Lý. Lý sinh ra Trần Thừa, làm nghề đánh cá, lấy bà Lê Thị làm vợ; đến năm Mậu thìn sinh ra vua Thái Tông.8

“Vua là người khoan nhân, có độ lượng đế vương, lập ra chế độ, điển chương đã văn minh đáng khen, nhưng chỉ vì Tam cương lộn bậy, nhiều điều xấu xa trong chốn buồng khuê…

“Vua ra lịnh thi Tam Giáo…

“Vua xuống chiếu "Các nhà trạm đều tô vẽ tượng Phật." Tục nước ta vì nắng bức nên lập ra nhiều đình quán ở dọc đường cho hành khách nghỉ ngơi tránh nắng. Khi vua còn hàn vi, thường vào nghỉ ở một cái đình; có thầy tăng bảo rằng: "Cậu bé này ngày sau phải đại quý." Nói rồi không biết thầy tăng ấy đi đâu mất, cho nên đến khi bấy giờ phàm chỗ nào có quán trạm đều tô vẽ tượng Phật…

“Vua lấy vợ của anh là Trần Liễu lập làm Hoàng hậu (tức là Thuận Thiên công chúa họ Lý); giáng bà Chiêu Thánh xuống làm công chúa. Bấy giờ bà Chiêu Thánh không có con mà vợ Liễu đã có mang ba tháng. Thủ Độ và bà Thiên Cực mật mưu lấy cho vua làm Hoàng hậu. Liễu giận lắm tụ tập đại quân ở Đại giang làm loạn. Trong lòng vua bất tự an, đương đêm ra ở với Phù Vân Quốc sư ở núi Yên tử (thầy Tăng này là bạn của Thái tông). Thủ Độ đưa quần thần đến mời về kinh đô. Vua nói:

“Ta tuổi trẻ không cha, chưa kham nỗi việc nước, nên không dám ở ngôi vua để làm nhục cho xã tắc. Thủ Độ nói: Vua ở đâu tức là triều đình ở đấy, xin phá núi để xây dựng cung điện.

“Quốc sư xin với vua: Bệ hạ nên hồi loan không nên để cảnh sơn lâm của đệ tử bị phá hủy. Vua mới chịu về. Liễu tự nghĩ mình thế cô, lén chèo thuyền độc mộc đến nơi vua xin đầu hàng. Thủ Độ nghe tin đi thẳng đến thuyền vua ngự, lớn tiếng rằng: Phải giết giặc Liễu! Vua vội vàng dấu Liễu đưa thân ra nhận. Thủ Độ ném thanh kiếm nói: Thủ Độ này là con chó săn thôi, biết đâu sự thuận nghịch của anh em nhà vua?

“Vua phải giảng giải mãi, rồi cho Liễu đất An sinh làm nơi ở riêng và phong cho Liễu làm An sinh vương mà giết những kẻ theo làm loạn. Vua Thái tông đang đêm qua sông Bàn than vào chùa Yên hoa ở núi Yên tử để tiếp kiến Trúc Mộc Thiền sư, muốn xin trụ trì ở đó; vừa gặp Thủ Độ đi yên giá kéo đến. Thiền sư nói:

“Làm vua thì phải lấy lòng dân làm lòng mình. Dân chúng muốn thế, xin vua hồi loan. Sau này hoàng tử trưởng thành có thể nôí ngôi lớn được, nhiên hậu hãy bỏ vào núi tu luyện!

“Vua mới cho là phải. Bấy giờ vua mới bốn mươi tuổi đã có ý chán trần tục, cho nên các vua triều Trần đều bắt chước theo như thế là vì sở đắc của Trúc lâm bí quyết……..9.

Lịch triều hiến chương của Phán Huy Chú về mục "Nhân vật chí" chép Trần Thái Tông:

“Họ Trần tên là Cảnh, người làng Tức mặc, phủ Thiên tường, tiên thế là người tỉnh Mân (Trung Hoa). Tổ bốn đời là Kinh mới đến làng Tức mặc. Đời đời làm nghề chài lưới. Khi mới sinh ra vua là người tuấn tú hùng vĩ. Lên tám tuổi làm quan hậu chính ở Chí ưng cục triều Lý, vào hầu ở trong cung vua, bèn nhận bà Chiêu Hoàng truyền ngôi cho. Thiên tính vua rất khoan hậu và chuộng văn. Khi đã lên ngôi, đặt ra khoa mục, tin dùng hiền tài, định ra các lễ nghi, hình luật, pháp độ, điển chương; đáng nên khen ngợi. Đến khi truyền ngôi vua cho con, lui vào ở Bắc cung, càng lưu ý vào học vấn, rất thích nội điển (Phật học) đến chỗ tinh vi thâm thúy. Duy có một điều là bày đặt việc gì, nhất thiết mặc ý Trần Thủ Độ, đến nỗi chỗ khuê môn có điều xấu xa, gia phong bất chính, người bản xứ lấy làm tiếc.

“Tại vị 33 năm, tôn vị 19 năm, hưởng thọ 60 tuổi, ba lần kỷ nguyên: Kiến trung, Thiên ứng chính bình và Nguyên phong.”10

Sơ lược một vài sử liệu trên cũng đủ chứng minh cho con người của Trần Thái Tông một cách khá đầy đủ. Theo đó, tất cả các sử gia đều thừa nhận Trần Thái Tông là một vị vua văn võ kiêm toàn, có cốt cách một bậc hiền nhân quân tử chứ không phải một vị vua nhu nhược văn dốt võ nhác. Sử gia Lê Tắc cũng đã viết về con người của Trần Thái Tông: “Khoan, nhân, thông tuệ, văn võ kiêm bị.” Trong lúc đó Ngô Sĩ Liên cũng viết: “Có lượng đế vương, khoan, nhân đại độ hữu đế vương chi lượng.” Và Ngô Thời Sĩ một sử gia đứng về quan điểm Nho học chính thống cũng xác nhận: “Vua là người khoan, nhân, có độ lượng đế vương; lập ra chế độ điển chương đã văn minh đáng khen.”

Trên đây, chỉ mới là hình ảnh một Trần Thái Tông, nhà vua trước trách nhiệm đối với quốc gia, xã hội. Ngoài ra còn một Trần Thái Tông Thiền sưsự nghiệp trí tuệ với địa vị của ngài trong Thiền tông thực không phải nhỏ.

Con người Trần Thái Tông luôn luôn chủ trương áp dụng cái học thực tiển, cái học “tu, tề, trị, bình” vào các lãnh vực quốc gia xã hội để cho xã hội quốc gia được phát triển trong tinh thần tự chủ tự cường của dân tộc. Nhưng song song với chủ trương đó, Trần Thái Tông không bao giờ quên lãng cái học nội điển, đặc biệt là sự tu luyện về yếu chỉ Thiền tông của đạo Phật. Do đó, ngài đã xuất gia đầu Phật năm bốn mươi tuổi để từ đây vất bỏ những gì nhỏ hẹp cá nhân mà hướng tới cái đại thể của vũ trụ, mở đường cho Thiền Trúc lâm.

Trong phả hệ của Thiền Trúc lâm, không có ghi vua Trần Thái Tông. Nhưng không phải vì vậyđịa vị của vua kém quan trọng. Vua không những là người sáng nghiệp nhà Trần, đặt ra những điển chương cho đời sau noi theo, mà trên phương diện tư tưởng, chính vua là người đã chuyển hướng Phật giáo Thiền tông sang một con đường mới, với đường lối hành trì mới mẻ. Quả nhiên, TTBH đã đặt vua vào vị trí xứng đáng:

Chư Tổ truyền đến nước ta

Thiền tông Nam chỉ chép ra lời này

Trước kể Trần triều cho hay

Đế vương học đạoTrần Thái Tông.

 (TTBH, câu 107-110) 

Dĩ nhiên, cuộc đời cũng như công nghiệp của nhà vua là những điều rất quen thuộc đối với tất cả chúng ta. Do đó, ở đây chúng tôi chỉ ghi lại một đoạn ngắn của Đại Việt Sử ký Toàn thư:

"Vua họ Trần, húy là Cảnh, trước húy là Bồ; làm Chi hậu Triều Lý, được Chiêu Hoàng truyền ngôi cho. Ở ngôi 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 60 tuổi, băng ở cung Vạn thọ, chôn ở Chiêu Lăng. Vua là người khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể mở nghiệp, truyền sau, đặt giềng giăng mối, chế độ nhà Trần tốt đẹp. Song quy hoạch việc nước đều do Trần Thủ Độ làm, mà trong chốn buồng the có điều hổ thẹn.”

Đằng khác, chúng ta có TTBH, chép khá đầy đủ về sự nghiệp của vua đối với Phật giáo. Nói về cơ duyên và sở ngộ của vua, TTBH viết:

Nhớ lời thầy dạy chẳng vong

Xin chư Thiển đức lão Tăng vào triều

Thăm hỏi kinh giáo trước sau

Kim cang thường tụng lẽ mầu tinh thông

Liễu đạt tám chữ làm xong

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm

Vua ngồi tức lự trầm ngâm

Hoát nhiên đại ngộ mới thâm vào lòng.

 (TTBH, câu 285-292)

Cơ duyên và sở ngộ này đã được chính vua Trần Thái Tông viết trong Thiền tông Chỉ Nam tự của vua. Nó cũng đồng trường hợp với Huệ Năng, Tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa, khi nghe người tụng kinh Kim Cang đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" thì tỏ ngộ được tất cả chỗ uyên áo trong tâm tông của Phật Tổ. Đây cũng có thể chỉ là điều sáo cổ, nhưng nó cũng chứng tỏ mức độ ảnh hưởng của kinh Kim cang đối với vua. Nhất là ảnh hưởng của Huệ Năng. Ngay trong lời mở đầu của Thiền tông Chỉ Nam tự, vua đã lập lại những lời của Huệ Năng đối đáp với Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn: “Phật vô Nam Bắc, quân khả tu cầu, tánh hữu trí ngu đồng triêm giác ngộ.”

Đây cũng là những sáo ngữ của vua, cũng như câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.” Nhưng tất cả những sáo ngữ đó qui tụ chung quanh lý tưởng “Trụ vô trụ vô xứ” của kinh điển Bát nhã. Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa, chính lý tưởng “Trụ vô trụ xứ” đó làm nảy sinh một Duy-ma-cật. Bởi không trụ vào đâu hết, không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết-bàn, nên lý tưởng hành động của Phật giáo Đại thừalý tưởng đại đồng phổ biến. Do đó, các vua chúa nhà Trần nêu cao lý tưởng hành động của mình qua căn bản vô trụ vô trụ xứ của Kim cang quả là đặc thể. Những sáo ngữ nơi vua Trần Thái Tông không phải là những lý luận suông không có sự thật của nó.

Một đoạn khác của TTBH cho ta thấy sở đắc của Trần Thái Tông:

Thuở ấy ngoại quốc tông sư

Lại nghe Nam Việt có vua tu hành

Tên người là Tống Đức Thành

Trèo non lặn suối một mình tìm sang

Vào triều bái tạ thiên nhan

Thiền gia làm lễ dám thăm lời rằng.

 (TTBH, câu 333-338)

Và những lời tham vấn của Đức Thành cũng khá quan trọng, nên TTBH ghi cả nguyên văn chữ Hán:

德誠問曰﹕昔釋迦世尊,未離兜率已降王宮,未生母胎度人已畢。太宗皇帝答云﹕千江有水千江月萬里無雲萬里天。德誠又問﹕未離未出蒙開示,已離已出事若何。 太宗答﹕雲生岳頂都盧白水到瀟湘一樣清。

"Đức Thành vấn viết: "Tích Thế Tôn Thích Ca vị ly Đâu suất dĩ giáng vương cung; vị xuất mẫu thai, độ nhân dĩ tất, thời, như hà?" Thái Tông Hoàng đế đáp vân: "Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt, vạn lý vô vân vạn lý thiên." Đức Thành hựu vấn: "Vị ly vị xuất gia, mông khai thị. Dĩ ly dĩ xuất sự nhược hà?" Thái Tông vấn đáp: "vân sinh Nhạc đỉnh đô lô bạch, thủy đáo Tiêu tương nhất dạng thanh."

Những lời hỏi và những lời đáp trên đây được thấy rất thường trong các tác phẩm Thiền tông Trung Hoa. Thoạt đầu, Đức Thành hỏi: "Đức Thế Tôn Thích Ca chưa rời khỏi Đâu Suất mà đã giáng hạ vào Vương cung, chưa ra khỏi thai mẹ mà độ người đã xong. Đấy là nghĩa như thế nào?" Sau khi được vua trả lời, Đức Thành lại hỏi tiếp: "Đã được khai thị về việc chưa rời (cung Đâu Suất) và chưa xuất gia (của Phật Thích Ca) rồi. Còn như sau khi ngài đã rời (khỏi cung Đâu Suất) và đã xuất gia, thì sao?" Cả hai câu trả lời được TTBH tường thuật bằng thể lục bát như sau:

Mây lên núi bạc bằng lau

Nước xuống giòng Tào vằng vặc sáng thanh

Pháp thân trạm tịch viên minh

Tự tại tung hoành phổ mãn thái hư

Tùy hình ứng vật tự như

Hóa thiên bách ức độ chư mọi loài

Ứng hiện dưới đất trên trời

Khắp hòa thế giới mọi nơi trong ngoài

Đã đặt là hiệu Như Lai

Sao còn hỏi xuất mẫu thai làm gì?

 (TTBH, câu 339-348) 

Tiếp đến, Đức Thành hỏi về nhân duyên ngộ đạo của nhà vua. TTBH viết:

Này lời Thái Tông thưa ra

Lưỡng thủy đồng hỏa đôi ta khác gì

Đương cơ đối đáp thị thùy

Thật tánh ứng dụng cùng thì nhất ban

Phóng ra buộc hết càn khôn

Thâu lại nhập một mao đoan những là

Ma ha Bát Nhã Ba La

Tam thế chư Phật chứng đà nên công

 (TTBH, câu 353-360) 

Sở ngộ của vua mà được mô tả như thế, thì hoàn toàn căn cứ trên bản tánhdiệu dụng của trí Bát-nhã. Nhưng sự thể hiện của bản tánhdiệu dụng đó lại là đạo lý tự nhiên của Thiền:

Bách giang vạn thủy triều đông

Ngộ đáo giá lý thật cùng tày nhau

Phật tiền Phật hậu trước sau

Bát nhã huyền chỉ đạo mầu truyền cho.

 (TTBH, câu 361-364)

Qua những sự kiện được trình bày, chúng ta thấy rằng, dù Trần Thái Tông không trực thuộc trong bất cứ dòng Thiền nào, nhưng tinh thần triết lý và hành động của vua quả là đã mở đầu cho một con đường mới của Phật giáo. Con đường đó, nói một cách vắn tắt, lấy sở ngộ từ kinh Kim cang Bát nhã, và sở hành của nó là đạo tự nhiên của Thiền. Ở đây, đạo tự nhiên ấy không gì khác hơn là tông chỉ trụ vô trụ xứ, là lý tưởng mà kinh Duy-ma- cật tích cực nêu cao để làm căn bản hành đạo của những Bồ tát Cư sĩ. Cứ sở ngộ và sở hành như thế, Phật giáo vào đời Trần, bắt đầu từ Trần Thái Tông, đã chọn thế tục làm môi trường hoạt động: Theo đó mà nhìn thì chúng ta thấy ngay địa vị trọng yếu của Trần Thái Tông trong sự hình thành thế hệ của Thiền Trúc lâm, một dòng Thiền qui kết được tất cả cái đặc chất của tinh thần Thiền học Việt Nam với ba vị Tổ kế tục là : Điều Ngự, Pháp LoaHuyền Quang.

 

TIẾT BA.
SỰ TÍCH TAM TỔ

 

1. ĐIỀU NGỰ

Điều Ngự tên thậtTrần Nhân Tông (1278). Vua cha là Thánh Tông lên ngôi Thái thượng Hoàng bèn nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm, tức Trần Nhân Tông. Ngài có pháp tựĐiều Ngự Giác Hoàng, sùng mộ đạo Phật từ hồi còn nhỏ. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng thái tử, thường theo Thánh Tông Hoàng đế vân du núi Yên tử thuộc tỉnh Hải dương. Trần Nhân Tông đã nhiều lần ngõ ý muốn xin vua cha cho phép nhường ngôi lại cho Trần Anh Tông để xuất gia vào núi Yên Tử tu hành, song không được chấp thuận.

Một thời gian sau, dù đã lên ngôi Hoàng đế, nhưng tư chất của ngài vốn có chủng tử đạo và Thiền nên ngài vẫn sống tịnh tu và chuyên tham cứu về những qui tắc Thiền học. Ngài tham học với Tuệ Trung Thượng Sỹ, thấu triệt được đạo Thiền.

Nhưng con đường tham Thiền học đạo chưa trọn với ý nguyện thì giặc Nguyên quấy rối; ngài đành phải xếp kinh kệ để lo giữ gìn quê hương đất nước. Nhờ những vị tướng tài giỏi như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tận tâm giúp nên đất nước sớm được thái bình. Và khi Quốc Gia đã an bình, ngài lại lui về sống một đời sống hướng nội, chuyên nghiên cứu kinh điển nhà Phật để đào luyện tinh thần hướng tới giải thoát.

Năm Quý tỵ (1293), Trần Nhân Tông truyền ngôi cho Trần Anh Tông. Đến năm Kỷ hợi (1299), ngài vào núi Yên tử, quyết định thực hiện con đường xuất gia theo Phật pháp. Ngài lấy pháp hiệu là "Hương Vân Đại Đầu Đà" hoặc "Điều Ngự Đầu Đà", rồi hợp các danh tăng ở chùa Phổ minh để thuyết giảng kinh điển. Ngài thường đi khắp nước với mục đíchbố thí pháp trong nhân gian, giải trừ những điều mê tín dị đoan, loại bỏ những đền thờ quỷ thần không chính đáng.

Trên con đường giảng đạo, đệ tử thọ pháp với ngài rất nhiều. Trong số đệ tử thân tín nhất là Pháp Loa Thiền sư, Pháp Loa thường bạch ngài: "Tôn đức bây giờ tuổi cũng đã khá cao, vậy mà cứ xông pha với sương tuyết, lỡ thân thể bất an, thì vận mạng Phật Pháp như thế nào?"

Ngài dạy:

-Thì giờ đã đến nơi rồi, ta chỉ còn đợi ngày giải thoát mà thôi.

Ngày 5, tháng 10, niên hiệu Hưng long thứ 16 (1308) được tin Thiên Thụy Công chúa bịnh nặng và muốn gặp Điều Ngự. Ngài về thăm người chị xong, khi trở về núi, đi chưa hết đường, ngài bảo mấy người đệ tử rằng:

-Ta muốn lên am Ngọa vân. Nhưng chân ta yếu không thể đi nổi. Vậy hãy làm cách nào?

Đệ tử bạch:

- Chúng con có thể giúp ngài lên được,

Đệ tử dìu ngài lên, khi mới vừa tới núi Ngọa vân. Ngài gọi Pháp Loa đến, mặt

tươi cười bảo:

-Đã đến giờ ta đi.

Pháp Loa bạch:

-Điều Ngự đi nơi nào?

Ngài liền đọc bài kệ

Nhất thiết pháp bất sinh, 一切法不生

Nhất thiết pháp bất diệt; 一切法不滅

Nhược năng như thị giải, 若能如是解

Chư Phật thường hiện tiền, 諸佛常現前

Hà khứ lai chi hữu. 何去來之有 

Việt dịch:

Hết thảy pháp không sinh,

Hết thảy pháp không diệt;

Nếu biết được như thế,

Chư Phật thường hiện tiền.

Vậy còn có gì là đi với đến.11

Sau khi đọc bài kệ cho Pháp Loa xong, ngài ngồi chấp tayan nhiên tự tại. Ngài tịch năm Long hưng thứ 16 (1308), thọ 51 tuổi.

Pháp Loa Thiền sư theo lời di chúc, đưa ngài lên hỏa đàn. Sau đó vua Trần Anh Tông cùng đình thần rước ngọc cốt về an táng vào Đức lăng và xây tháp trên núi Yên tử để thờ ngài, lấy tên là "Huệ Quang Kim tháp" và được xưng tôn hiệu là "Đại Thánh Trần Triều Trúc lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật". Ngài là vị Tổ thứ nhất của dòng Thiền Trúc lâm Yên tử

2. PHÁP LOA.

Pháp Loa là người họ Đồng, ở làng Cửu la, phủ Nam sách. Thân mẫu là Vũ thị Nguyên. Nhân một đêm nằm mộng thấy một người lạ trao cho thanh kiếm, bà ưa thích nên liền nhận lãnh và cất giữ. Được ít lâu, bà mang thai, nhưng lại ghét vì thường cứ sinh con gái nên không muốn sinh nữa, bèn dùng thuốc làm trụy thai nhưng vô hiệu. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa sinh ra ngài, bà rất mừng rỡ đặt tên cho ngài là Kiên Cương (cứng chắc).

Khi lớn lên, Pháp Loa bản chất thông minh, khác hẳn với người thường. Đặc biệt là không ưa thích mùi tanh hôi thịt cá trong những bữa ăn hàng ngày.

Năm Hưng long thứ 12 (1304), nhân Điều Ngự đến mạn sông Nam sách (thuộc huyện Nam sách tỉnh Hải Dương Bắc phần), Pháp Loa đến bái yết. Điều Ngự thấy đó là con ngườiđạo nhãn và sau này có thể đắc pháp, nên đặt tên là Thiện Lai, thâu làm đệ tử; đưa về núi cho học đạo.

Trong thời gian này, Pháp Loa một mình chuyên tâm tham cứu kinh điển, chú tâm đọc bộ kinh Hải Nhỡn, dần dần thấu đạt tinh nghĩa của kinh. Một hôm Pháp Loa trông thấy một cái hoa đèn rụng xuống, Pháp Loa tĩnh ngộ việc đờiquyết chí tu theo giới hạnh Thập nhị đầu đà.

Năm thứ 16, niên hiệu Hưng long, Điều Ngự lên đỉnh núi Ngọa vân và cho Pháp Loa tu ở đó. Điều Ngự bắt đầu khai đàn thuyết giảng ở chùa Siêu loại, có cả vua và đình thần đến dự lễ. Điều Ngự thuyết pháp xong, lấy y bát và hơn hai trăm bộ kinh phú chúc cho ngài hộ trì. Từ đó, ngài kế thế trú trì ở chùa Siêu loại, làm chủ sơn môn Yên Tử, đệ nhị Tổ.

Niên hiệu Hưng long 21 (1313), ngài tu sửa 800 ngôi Già-lam, đúc trên ngàn tượng Phật, rồi xây thêm tháp và giảng đường v.v… và thâu nhận hàng đệ tử. Sau đó ngài trở về chùa Vĩnh nghiêm ở Lạng giang. Tại đây, cứ ba năm lại một lần phổ độ tăng chúng.

Trên con đường giáo hóa, ngài đã sáng lập nhiều danh lam thắng tích như núi Quỳnh lâm viện, Hồ thiên Chân lạn am, Ngài có bài thi nhan đề là "Luyến thanh san":

Thưa gầy làn nước vút,

Chót vót ánh soi trong,

Ngẫng đầu coi chẳng hết,

Đường tới lại trùng trùng.

Vòng sinh, lão, bịnh, tử cứ doanh vây ngài mãi có lúc tưởng đến hồi nguy kịch nhưng đều thoát khỏi. Thế rồi thời gian vô thường thân mạng chóng qua, một hôm cơn bịnh quá nặng đến. Huyền Quang là người đệ tử đã từng theo gót cuộc đời thầy lâu nay và cũng đã trực nhận những lời giảng dạy của thầy, bèn liền thưa:

-Các vị Tổ ngày xưa, gặp những lúc này đều phó chúc những lời gì cho hậu thế, vậy thầy lại không có hay sao?

Một lát sau, Pháp Loa ngồi dậy, đem pháp bảo của Điều Ngự đã truyền, truyền lại cho Huyền Quang và đọc bài kệ rằng:

Trần duyên rủ sạch từ xưa,

Bốn mươi năm lẻ bây giờ là tiên.

Hỏi chi thêm bận thêm phiền,

Trăng thanh gió mát là miền tiêu dao

Xong thì ngài tịch, thọ 47 tuổi. Sau khi mất ngài được truy tôn là "Tịnh Trí Đại Tôn Giả" và hàng đệ tử đem di hài an trí ở núi Thanh mai.

Vua Anh Tông nghe Pháp Loa viên tịch có làm bài thơ viếng trong đó có hai câu như sau:

Pháp Loa từ bỏ cõi đời,

Khắp trong thiên hạ ai người chân tu?

Pháp Loa đã trước tác để lại những tác phẩm như Đoạn sách lục, Tham Thiền chỉ yếu, Bộ Kim Cương trường Đà la ni kinh v.v…12 

3. HUYỀN QUANG.

Ngài họ Lý, húy là Đạo Tái , người làng Vạn tải. Cha là Tuệ Tổ, rất có công dẹp giặc Chiêm thành nhưng lại không chịu ra làm quan. Thiếu thời, Huyền Quanghình dung kỳ dị nhưng bẩm tính rất thông minh. Lên 9 tuổi ngài đã thành thạo các lối thi văn. Năm 20 tuổi thi đổ Hương cử, năm sau vào thi Hội đỗ đầu cho nên gọi là Trạng nguyên đời nhà Trần.

Sau khi thi đỗ, tuy được bổ đi làm quan ở viện Hàn lâm và đi sứ sang Tàu nhưng ngài luôn luôn có ý nghĩ là xin phép nhà vua vào núi tu hành. Một hôm theo vua Anh Tông đến chùa Vĩnh nghiêm nghe Pháp Loa giảng kinh, ngài liền trực ngộ. Khi về ngài dâng biểu xin từ chức để xuất gia học đạo. Vua thuận cho. Ngài liền làm lễ thọ giới với Pháp Loa. Pháp Loa đặt pháp hiệuHuyền Quang. Từ đây ngài cùng với Điều NgựPháp Loa đi thuyết giảng đó đây trong dân gian. Ngài còn soạn những bộ sách Chư phẩm kinh, Công văn tập.

Được Pháp Loa truyền tâm ấn, ngài trú trì ở chùa Vân yên núi Yên tử. Nơi đây đã qui tụ hàng nghìn tăng theo học. Ngài cũng in kinh, mở hội bố thí cho những người nghèo khổ.

Ngoài con đường giáo hóa độ sinh, ngài còn chuyên lo sáng tác thi văn và thường ngâm vịnh những bài ngụ tình. Khi viên tịch ngài còn để lại tập Ngọc tiên do chính ngài soạn, song bị thất lạc. Hiện nay chỉ thấy còn lại một bài thơ theo lối cổ thi và 20 nài làm theo lối cận đại. Sau đây là một bài cổ thi và một bài cận đại tiêu biểu:

Lối cổ thi:

Chu trung tác: 舟 中作

Nhất diệp thiên châu hồ hải khách: 一葉扁舟湖海客

Sanh xuất vi hàng phong thích thích. 撐出葦行風慼慼

Vi mang tứ cố vãn trào sinh. 微忙四顧晚潮生

Giang thủy liên thiên nhất âu bạch. 江水連天一鷗白

Dịch nghĩa:

Làm ở trong thuyền.

Một chiếc thuyền con khách hồ hải:

Qua hàng lau, gió vi vu thổi.

Mênh mang bốn mặt sóng trào dâng.

Sông nước ngang trời, âu trắng nổi13. 

Lối cận đại

Mai hoa tác: 梅花作 

Dục hướng thương thương vấn sở tùng? 欲向蒼蒼問所從

Lẫm nhiên cô trĩ tuyết san trung. 凜然孤峙雪山中

Chiết lai bất vị già thanh nhãn. 折來不為遮青眼

Nguyệt tá xuân tư úy bệnh ông. 願借春思慰病翁 

Dịch nghĩa:

Vịnh hoa mai.

Toan tới xanh kia, hỏi đến đâu?

Ngọn non trơ trọi tuyết phau phau.

Bẻ về không phải vì che mắt.

Muốn mượn xuân này đỡ lão đau.14 

Ngài thị tịch vào năm Đại trị thứ 7 (1364) đời vua Trần Dụ Tông và được vua ban tự hiệu: "Trúc lâm Thiền sư đệ Tam Đại tự pháp Huyền Quang tôn giả". Và từ đấy nghiễm nhiên ngài là vị Tổ thứ ba của phái Thiền Trúc lâm Yên tử vậy.


1 Đại Nam nhất thống chí, quyển số 33, bản dịch của Đông Minh Đặng Chu Kình. Viết về "Nuí An Tử ", Bộ Văn hóa và Thanh niên, Saigon 1968, tr 39-40.

2 Cf. Nguyễn Đăng Thục, Núi An Tử với thiền học Trúc Lâm An Tử Việt Nam, Tư tưởng số 2-1972.

3 Tam Tổ Hành Trạng, bản dịch Việt của Trần Tuấn Khải, saigon PQVKĐTVH, 1971, tr 25.

4 Cf. Nguyễn Đăng Thục, "Núi An Tử với Thiền học Trúc Lâm An Tử Việt Nam", Tư tưởng số 2, 1972.

5 Đại Nam nhất thống chí, số 33, bản dịch của Đặng Chu Kình. Viết về "Núi An tử", saigon bộ VH và TN, 1968, tr 39.

6 Trần thị thế gia, An Nan Chí lược, Lê Tắc. Viện Đại học Huế xuất bản 1961, tr 209.

7 Bản kỷ q.v. Trần kỷ, Đại việt sử ký toàn thư.

8 Theo Việt sử lược Lược truyện các tác giả Việt Nam – Hà Nội 1952, thì nói là Mậu dần 10-7-1218.

9 Việt sử tiêu án, Ngô gia văn phái, bản dịch của Văn hóa Á châu, saigon, tr. 168.

10 Bản dịch Văn hóa Á châu.

11 Tiểu sử đầy đủ nhất của Trần Thái Tông, xem Triết lý Trần Thái Tông của GS Nguyễn Đăng Thục, ở đây xin khỏi dài dòng.

12 Tam Tổ Hành Trạng, bản dịch Việt của Trần Tuấn Khải, saigon PQVKĐVH, 1971, tr. 15-16.

13 Ibd., tr, 21.

14 Ibd., tr. 23

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10119)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10376)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9653)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23572)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11812)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10703)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10047)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28642)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21571)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29364)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11374)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12355)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26277)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30984)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25286)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22776)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13029)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21877)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12199)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14100)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12390)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11212)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10674)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38010)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13653)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13437)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12321)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12563)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12030)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10708)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11185)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23332)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33149)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12770)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7377)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12161)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12580)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11999)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12827)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11919)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10664)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11338)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11630)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10834)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10766)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10342)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10455)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10682)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10612)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11884)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10672)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12722)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10786)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11363)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11075)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11604)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10494)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11231)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12275)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11119)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12473)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11406)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11491)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11273)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11567)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12970)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14141)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10981)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11838)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13134)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11531)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11397)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10905)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11257)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10793)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11036)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10860)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10227)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17083)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10987)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10850)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10393)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10734)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11359)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11047)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10540)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11341)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10323)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10618)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12731)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19215)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19637)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21220)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20272)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19712)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18991)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20418)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21034)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17891)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21771)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant