Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp của đức Phật Di Đà trong thế giới hiện đại

02 Tháng Tư 201100:00(Xem: 17323)
Giáo pháp của đức Phật Di Đà trong thế giới hiện đại

GIÁO PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT DI ĐÀ TRONG THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Amida's Dharma In The Modern World
Tác giả: J. Paraskevopoulos
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

blanknăng lực của thệ nguyện Di Đà là vô hạn
Ngay cả nghiệp ác của chúng ta rất sâu dày và nặng nề cũng không đè nặng
tuệ trí của Phật là không cương giới
Ngay cả những kẻ hoang mang và bướng bỉnh[1] cũng không bị bỏ rơi.
(Chính Tượng Mạt Hòa Tán, Shozomatsu Wasan, kệ 37)

 

Sự thông hiểu truyền thống của Đạo Phật là tập trung trong tự ngã nội tại. Nhưng Đạo Phật dấn thân nhấn mạnh đến việc làm bên ngoài, mà đấy không phải xa lạ đối với Phật giáo ban sơ… nên bây giờ là thời gian để cho những Phật tử Tịnh Độ ở Hoa Kỳ hòa nhập với những người Phật tử khác và trở nên ‘dấn thân’ hơn trong xã hội, và để bắt đầu hành động để hỗ trợ cho việc giảm bớt khổ đau trong thế giới. Dấn thân bao gồm những hoạt động xã hội cũng như những vấn đề thông thường, thể hiện dấn thân [gắn bó] với con cái chúng ta, vợ chồng chúng ta, gia đình chúng ta,…

Đức Đạt Lai Lạt Ma, khi được hỏi, “Tinh hoa của Đạo Phật là gì?” chỉ đơn giản nói, ‘Ân cần tử tế.’

(Phỏng vấn với Rev.Ken Tanaka, The Argus newspaper, Fremont, California, 11 tháng Bảy 1998).

Đây rõ ràng là một niềm vui cho những ai quen thuộc với giáo huấn của Thân Loan Thánh Nhân, thật là cực kỳ xuất sắc, một giáo huấn cho những kẻ ‘hoang mang và bướng bỉnh’. Sự giải thoát tâm linh của những kẻ như vậy là tập trung chính yếu của truyền thống Tịnh Độ. Cũng quan trọng để nhận ra rằng Thân Loan Thánh Nhân không thích thú trong những sự cải cách xã hội như vậy, và bất cứ những sự ứng dụng xã hội hay chính trị đối với giáo huấn của ngài là thứ yếu nếu không phải là hoàn toàn không liên hệ tới mục tiêu chính yếu của ngài.

Liên hệ với từ bi, có một sự khác nhau giữa Con Đường Hiền Thánh[2] và Con Đường Tịnh Độ. Từ bi trong Con Đường Hiền Thánh là để thương xót, cảm thông, và quan tâmchúng sinh. Tuy thế, cực kỳ khó khăn để hoàn thành cứu độ người khác như nguyện ước. Từ bi trong Con Đường Tịnh Độ nên được hiểu như trước tiên đạt đến Phật Quả một cách nhanh chóng qua việc Niệm Phật và, với tâm đại từđại bi, tự tại làm lợi ích cho chúng sinh như nguyện ước. Tuy nhiên, nhiều lòng yêu thươngtrắc ẩn, chúng ta có thể cảm thấy trong đời sống hiện tại của chúng ta, khó để cứu độ những người khác như chúng ta nguyện ước; thế nên, lòng từ bi như vậy hiển nhiên không đủ. Chỉ trì danh Niệm Phật, rồi thì, tâm đại từ bi sẽ hoàn toàn trọn vẹn. (Thán Dị Sao,Tannisho, Chương 4)

Thời đại hiện tại của chúng ta, giống như bất cứ lúc nào khác, đối diện những vấn nạnthử thách đặc thù của nó. Tuy nhiên, những quan tâm thường trực về việc cứu độgiác ngộ đã vẫn không thay đổi khắp mọi thời đại. Đạo Phật, cùng với những tín ngưỡng khác, hiện diện qua những biến cố đặc trưng và quan trọng trong kỷ nguyên hiện đại. Thực tế, có một khuynh hướng gia tăng ngày nay kêu gọi giải thích tất cả những truyền thống tâm linh với sự quan tâm đến hiệu quả xã hội của chúng. Nói cách khác, những truyền thống được đánh giá như “hữu dụng” đến mức độ rằng chúng có thể hướng dẫn con người trong cung cách cư xử xã hộiđạo đức của chúng. Bất cứ con đường tôn giáo nào dường như quá ‘khác hơn –trần gian’ một cách tóm lược bị phản bác như bất lực hay không có giá trị trong việc đối diện với những đòi hỏi cấp thiết của thế giới hiện đại. Khuynh hướng giống như thế này bây giờ đang chiếm được một chỗ đứng trong Tịnh Độ Chân Tông. Hiện tượng Đạo Phật ‘dấn thân-xã hội’ được thấy hiện tại như phương hướng mới phải được tiếp nhận nếu Giáo Pháp là để duy trì bất cứ sự thích hợp nào cho con người hiện nay. Hiện diện hợp thời trong những ngày hiện nay này thể hiện trong việc hạ thấp phương hướng khác trần gian [3] của truyền thống Tịnh Độ giống như một nguyên nhân lúng túng nào đấy, mà làm như thế sẽ là bóp méo giáo huấn của nó một cách thô thiển. Những ý tưởng truyền thống quan tâm đến đời sống tâm linh, thực tại siêu việt hay những thể trạng sau khi chết của sinh tử luân hồi đang bị chối bỏ như thoái bộ hay lỗi thời, khi một số người giải thích Đạo Phật hiện đại tìm cầu một giản hóa luận ‘bẳng phẳng’ hơn và nền tảng trần gian này cho giáo huấn của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Ẩn ý nào của cuộc chuyển biến định lượng này trong sự thấu hiểu con đường của Đạo Phật?

Người ta đã nói nhiều về sự cần thiết biểu hiện từ bi yêu thương trong thế giới như một cung cách hiệu quả nhất của việc thực hành hay minh chứng niềm tin của chúng ta. Tuy thế, chúng ta cần phải rõ ràng rằng những sự thể hiện như vậy có thể là cả rất giới hạnsai lạc. Chúng ta cũng phải cẩn thận rằng chúng ta không thúc đẩy sự thực tập từ bi yêu thương với một loại chương trình xã hội- chính trị lựa chọn nào đấy, hay nghiêm trọng hơn, với khuynh hướng của việc thiết lập một loại tiêu chuẩn nào đấy cho việc quyết định tín tâm chân thành của chúng ta. Nói cách khác, có một hiểm họa trong việc gợi ý rằng tín tâm phải được tự biểu hiện trong những loại thái độ nào đấy hay hạnh kiểm đạo đức nào đấy hay nó phải tương hợp trên căn bản của những sự quan tâm xã hội. Tịnh Độ Chân Tông, giống như những con đường chân thực của việc, tìm kiếm tính siêu việt hơn hẳn từ mọi ‘quan điểm’ hơn là điều chỉnh phù hợp cho một quan điểm đặc thù nào đấy của thế gian. Chúng ta đã nghe tinh hoa của Giáo Pháp là ‘ân cần tử tế.’ Tốt và tuyệt, nhưng có phải con người tín tâm luôn luôn tử tế? Có phải không thể tưởng tượng được rằng một con người tín tâm không thể, thí dụ, là phân biệt chủng tộc, đồng tính luyến ái, hay thù ghét phụ nữ? Bảo đảm, nhiều người trong chúng ta, tôi chắc chắn, sẽ không chấp nhận những thái độ như vậy một cách mạnh mẽ, nhưng có phải chúng ta có thể nói rằng những người chấp chứa những tư tưởng như thế không là những cá nhân không có niềm tin chân thật? Nếu không, làm thế nào chúng ta có thể thấu hiểu những liên hệ của Thân Loan đối với sự biểu hiện “bị đè nặng với nghiệp báo sâu dày xấu ác’ của chúng ta? Điều này có thể liên hệ đến điều gì ngoại trừ những tư tưởngquan điểm tồn hại cho cả chính chúng ta và những người khác? Trái lại, chúng ta có nên luôn luôn cho rằng những người biểu hiện ân cần tử tế và từ bi yêu thương nhất thiết biểu hiện sự hóa độ của Phật Di Đà?

Chúng ta không nên biểu lộ những dấu hiệu bên ngoài của tuệ trí, thánh thiện, hay cần mẫn, vì bên trong chúng ta sở hữu sự lừa dối. Chúng ta đầy dẫy với tất cả những tính chất của tham dục, sân hận, cố chấp, lừa dối, xấu xa, và gian trá, và thật khó khăn để chấm dứt bản chất bất thiện của chúng ta. Trong điều này chúng ta giống như những con rắn độc hay bò cạp. (KGSS III, 13)

Trong bất cứ trường hợp nào, tôi nghĩ nó rõ ràng cách xa sự ân cần tử tế ấy, thật sự, tinh hoa của Giáo Pháp hay là có thể cư xử, trong bất cứ cách nào đấy, đồng nghĩa với từ bi yêu thương mà nó là một loại đạo đức hoàn toàn khác biệt. [4]

Vấn đề tóm lại trong điều này: Chúng ta có cần một nền tảng tâm linh cho những hành vi đạo đức của chúng ta không? Nhiều cá nhân, những người không tán thành bất cứ tín ngưỡng tôn giáo nào hay bất cứ điều gì, có thể có thái độ toàn hảo được thấy vượt xa sự chỉ trích, cho dù nó là lòng từ bi, dũng cảm, hay tự hy sinh. Tư tưởng Khổng Giáo, Aristote, và gần đây hơn, tư tưởng kết quả phân biệt[ 5] không chỉ là môt số thí dụ về những hệ thống đề cao đạo đức mà không có bất cứ nền tảng tâm linh tôn giáo nào. Một câu hỏi xa hơn vì vậy tự nó hiện hữu: Có phải có tín tâm làm cho con người từ bi yêu thương hơn? Câu hỏi trả lời chắc chắn phải là ‘Không nhất thiết’. Điều này có thể chắc chắn làm cho con người suy nghĩa sâu sắc hơn và khổ tâm hơn khi ý thức về sự thiếu vắng hoàn toàn của một lòng từ bi yêu thương chân thật nhưng điều này không nhất thiết làm cho con người ‘khá hơn’ trong ý nghĩa quy ước của thế gian tục đế - nói cách khác, nó không xua tan bản chất ‘hoang mang và bướng bỉnh’ của con người.

Cũng đúng rằng khi con người đã được thức tỉnh về thực tại của Phật Di Đà qua tín tâm đôi khi có thể đồng thời biểu hiện thái độ từ bi hay giác ngộ phi thường nhưng điều này không bao giờ giả tạo, không tự nhiên hay cố ý. Nó không có mục tiêu trong tâm thức nhưng chỉ đơn thuần là một sản phẩm của niềm hoan hỉ an lạc thậm thâm được cảm nhận từ tỉnh thức giải thoát. Tuy nhiên, thái độ như thế không nên luôn luôn được thừa nhận như một dấu hiệu của tín tâm. Lòng từ bi yêu thương duy nhất trong sạch và thuần kiết là điều được tuôn chảy từ chính Đức Phật Di Đà và là điều có thể ôm ấp toàn thể chúng sinh mặc cho những khiếm khuyết và yếu đuối đủ thứ của họ. Mục tiêu thật sự của đời sống tinh thần không đơn giản là làm cho đời sống trần gian thích đáng và hòa hiệp hơn – con người có thể làm tối đa mà không cần bất cứ một sự liên hệ nào đến tôn giáo. Để khẳng định rằng những ý tưởng tôn giáo chỉ có thể hữu dụng nếu chúng phụng sự những mục tiêu của xã hội phục vụ để chuyển hóa ý định mà những ý tưởng trần tục như vậy đặt lên vị trí hàng đầu – đấy là, để đánh thức con người nhớ đến một thế giới tâm linh thánh thiện đã chuyển hóa khổ đau và băn khoăn của thế giới này (đúng là thường gây ra những bởi thái độ rất đạo đứcxã hội mà nhiều người tìm cách để áp đặt lên những người khác vì một tín ngưỡng hay sự thuyết phục khác!) Không có gì chắc chắn hay vĩnh viễn về những giá trị thế gian. Điều này không để nói rằng chúng không thể hỗ trợ trong cấu trúc xã hội khi được thực hiện một cách thông tuệ (chao ôi tất cả đều rất hiếm hoi, nhưng thật thế), tuy nhiên, thật không bảo đảm để chúng thể hiện như một tiêu chuẩn để phán xét hiệu lực những giáo huấn của Đức Phật.

Người ta đôi khi ấn tượng rằng chương trình ‘Đạo Phật dấn thân’ là được tính toán một cách rõ ràng để trau dồi biểu hiện đặc thù của đạo đức hay xã hội mà không đặt câu hỏi là những điều này có luôn luôn hữu ích hay đáng mong ước hay không. Đạo đức là một không gian huyền ảo sâu xa của nỗ lực con người và người ta phải thận trọng khi nói năng trong xác thực, đặc biệt khi sự thật không rõ ràng. Dĩ nhiên, trong một ý nghĩa rất rõ ràng, thề giới cần kiếp vô cùng cho những mức độ to lớn hơn của thương yêuhiểu biết nhưng những phẩm chất như vậy chỉ có thể sinh khởi một cách tự nhiên và không tách rời khỏi một chương trình Phật Giáo tích cực năng động. Nếu khác đi, chúng sẽ được thấy là những đạo đức trống rỗng được ủng hộ không có gì hơn một ‘dự định đạo đức’ nhân tạo mà nó tìm kiếm để trù liệu những gì tối ưu trong mỗi hoàn cảnh.

Điều gì cho chúng ta sự vững vàng để thực hiện những khẳng định rõ rệt về sự cát tường của xã hội và những thành viên của nó? Bất cứ lời tuyên bố nào về loại này phải được kiểm soát bằng một sự khiêm tốn sâu xa và một ý nghĩa về những giới hạn của chính chúng ta. Những gì được yêu cầu ở đây là sự nối kết cần thiết giữa niềm tin và một loại biểu hiện đạo đức nào đấy. Để khẳng quyết một loại liên kết như vậy là đánh mất tín tâm phổ quát và hiệu quả của nó. Chúng ta không nên bị đe dọa bởi những đòi hỏi ngột ngạt của những truyền thống tâm linh khác (đặc biệt từ những gì tôi mới vừa nghe nói là ‘Liên Minh Abraham[6]’) mà nó khẳng định rằng tín ngưỡng tôn giáo phải được xem như những mô thức đạo đức đặc thù nhằm để cho niềm tin như vậy được công nhận là có giá trị.

Sống không có ngay cả một lòng từ ái hay bi mẫn mõng manh nhất, làm thế nào tôi có thể hy vọng làm lợi ích cho chúng sinh? (Chính Tượng Mạt Hòa Tán, Shozomatsu Wasan, Kệ 98)

Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này h trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm. Để làm thế, Ngài hy vọng gia hộ chúng ta xua tan ba độc tố sân hận, tham dụcsi mê là những điều chỉ phục vụ cho việc bổi bổ, trộn lẫn những tính xấu của tự ngã và khả năng của chúng ta để thấy sự vật như chúng thật sự là. Tuy thế, những quy luật của Đức Phật không chỉ đơn thuần là những giới hạn trong chính chúng. Chúng phục vụ một mục tiêu cao cả mà đấy là giải thoát con người khỏi những bệnh tật, tệ nạn tự gây ra làm cho con người phiền não, chán chường, và mất phương hướng trong thất vọng. Không có một khối lượng hành động của ‘thiện ý’ hay từ bi nào sẽ tuyên bố những thực tế này ngoại trừ việc nó có thể phục vụ để hướng con người đến một sự tỉnh thức về thực tại tối hậuPháp thân hay chân như giống như nó được biết trong Đại Thừa Phật Giáo. Tất cả dường như những hành vi vị tha hay bố thí đều giới hạn; hoặc là bởi những khuyết điểm của chính chúng ta hay bởi những giới hạn trong hoàn cảnh của chúng ta. Tuy thế, vi tế của những điều này có thể là; thường thì chúng thậm chí bị nhiễm ô bởi những tham dục vị kỷ của chính chúng ta.

Con người trong thế giới này chỉ có những tư tưởng mà chúng không thật, và những ai nguyện ước được vãng sinh Tịnh Độ chỉ có những tư tưởng của lừa dối và hy vọng hão huyền. Ngay cả những ai viễn ly hay từ bỏ thế giới này không có điều gì ngoài những tư tưởng của danh và lợi. Tuy thế, hãy biết rằng chúng ta không là những con người thánh thiện, cũng không phải là những cá nhân tuệ trí; rằng chúng ta không có cần mẫn, mà chỉ là giải đải, và bên trong, con tim mãi trống rỗng, lừa dối, kiêu ngạo, và xu nịnh. Chúng ta không có một con tim thành khẩnchân thật. (Luận Giải về Bản Chất của Tín Tâm, Chương 4)

Tất cả những cố gắng trong việc cải thiện số phận của chúng ta trong thế giới này, trong khi ca ngợi cao độ, là không đủ để nói về những nguyên nhân căn bản quan tâm đến sự hiện hữu của chúng ta. Không cần phải nói, không ai cho rằng con người không nên tử tế, từ bichăm nom đối với những người khác – trái lại, chúng ta thấy không nơi nào có đủ đạo đức như vậy. Vấn đề là khuynh hướng chủ yếu của bất cứ con đường tâm linh nào cũng chỉ làm một ít với bất cứ loại hành động nào của đạo đức hay xã hội. Trong một thế giới bị phiền não tột bậc bởi vọng tưởng sâu đậm, chúng ta cần phải tỉnh thức – như Đức Phật Thich Ca đã chỉ ra rằng – chúng sinh và những hành động của họ là tương tự với phiền não. Những giá trị xã hội là hay thay đổi, có thể thay đổi và thường mâu thuẫn. Không có gì tùy thuộc một cách cố hữu trong thái độ hay tiêu chuẩn đạo đức của xã hội. Trong khi chúng phục vụ để làm đời sống tốt đẹp hơn và phụng sự cho một mục tiêu thiết thực, chúng không thể thay thế cho sự giải thoát tâm linh sâu xachúng ta đạt được từ một kinh nghiệm trực tiếp của thực tại vô biênvô lượngchúng ta đi đến hiểu biết như Đức Phật Di Đà.

Như được trình bày ngắn gọn ở trên, Phật Pháp chắc chắn cung ứng những quy định đạo đức bởi những giới luật, Tám Con Đường Thánh, Sáu Ba La Mật, v.v… Khi thực hành trong một thái độ vô tư hoàn toàn, những hành vi đạo đức như thế chắc chắn có thể cải thiện những hiệu quả đạo đứctâm linh – nhưng bao nhiêu người trong chúng ta có thể thật sự hành động trong cách này? Tuy nhiên, trong những trường hợp đại đa số, thái độ của chúng ta, có thể hiện hữu nhiều hơn trong việc được đưa lối bởi những mục tiêu đạo đức, là thường bị thúc đẩy bởi những hình thức vi tế của vị kỷ. Thái độ từ bi chân thành là ngoại lệ và không nghi ngờ gì hiếm hoi hơn chúng ta tưởng tượng. Có thể tuyệt diệu nếu hào quang của Phật Di Đà khi nào đấy xuyên qua cái vỏ cứng của tự ngã khép kín của chúng ta và chiếu sáng vào trong một hoàn cảnh đặc thù như một thí dụ chân thật của tính nhân hậu hay tử tế vô nhiễm – điều này, dĩ nhiên, không thể phủ nhận. Tuy thế, đến một mức độ nào thì điều này có thể trở thành đối tượng của sự cổ vũ hay nền tảng của một chương trình cải cách xã hội?

Người ta thường nghe rằng Giáo Pháp cung ứng cho chúng ta với một tuệ giác sâu sắc hơn trong tính tự nhiên của những phẩm chất như thế là từ bi qua kinh nghiệm cá nhân chúng ta về sự ôm ấp của Phật Di Đà và qua giáo lý tùy thuộc tương liên. Thật sự là lối sống tín tâm mở ra triển vọng giải thoátan lạc cho con người. Tuy thế, người ta không theo nhận thức nói rằng, tín tâm hay duyên sinh phải đưa đến một loại thúc đẩy tương ứng để cho thấy những bệnh hoạn của thế giới. Chắc chắn có thể thực tế nó không thể chống lại sự chân thực của một nhận thức như vậy. Như nên rõ ràng bây giờ, tôi không cố gắng để bỏ qua bất cứ loại đạo đức dửng dưng nào đối với nhiều vấn đề thảm họa làm phiền não xã hội con người. Tôi cũng không bỏ qua thái độ đạo đức sai trái. Người ta cần chính niệm về sự phân biệt của Thân Loan Thánh Nhân giữa hành động là hậu quả của ‘đam mê mù quáng’ và những thứ ác tâm hay tàn nhẫn cố ý hay có tính toán trước là mâu thuẩn nhau với ý thức của tín tâm, nhưng điều này không phải là vấn đề.

Một hình thức ‘dấn thân’ của Đạo Phật, trong khi là khuynh hướng tốt, nuôi dưỡng một khả năng rất thật cho một định lượng nào đấy của sự tổn hại tâm linh đến những ai thấy mình không thể thích ứng với chương trình ‘dấn thân’; mà một cách chính xác nó là gì. Một chương trình không có gì bất di bất dịch về nó và là điều không chỉ phản chiếu những mối bận tâm, quan điểmthiên kiến của thời đại. Thật sự, người ta tự hỏi làm thế nào có thể nhận ra (hay sự liên hệ) hình thức hiện tại của Phật Giáo dấn thân sẽ là như thế nào trong một hay hai trăm năm. Nếu có bất cứ điều gì, chẳng hạn một sự mâu thuẫn có thể phục vụ rất tốt đến sự minh chứng tính chất nhất thời trong những quan tâm hiện tại của chúng ta. Người ta thật sự phải hỏi rằng Thân Loan Thánh Nhân đã có bất cứ cảm nhận nào đến một loại dấn thân xã hội đã được dự tính bởi những nhà diễn giải hiện đại. Những gì Thân Loan tiến hành dấn thân đến là Đức Phật Di ĐàGiáo Pháp của Ngài, không phải với những giá trị tạm bợ mà không có bất cứ sự quan hệ nào với mục tiêu tối hậu của sự giải thoát. Chắc chắn rằng, ngài đã rất tỉnh thức về nhiều bất công trong thời đại của ngài cũng như hành vi đạo đứctâm linh giả tạo ăn sâu trong thế hệ của ngài nhưng ngài chưa bao giờ tìm cầu đề có một niềm tin hành động như một loại phương tiện cho sự chuyển hóa xã hội. Hoàn toàn trái ngược, ngài chỉ đến nhiều thứ xấu ác trong thời đại ngài nhằm để động viên người ta chuyển tâm tư của họ khỏi những vấn đề trần tục và tập trung trên con đường Niệm Phật. Người ta sợ rằng dường như đúng phải chỗ trong sự vội vã của chúng ta, chúng ta đã đặt chiếc xe trước con ngựa. Chúng taquá tin chắc rằng chúng ta đã nói một cách thỏa đáng về những vấn đềvấn nạn tâm linh được trình bày bởi Tịnh Độ Chân Tông, mà chúng ta cảm thấy rằng chúng ta có thể tiến tới từ những quan tâm bí hiểm như thế và chúng ta bận rộn với những vấn đề áp dụng hay không? Nhiều người ngày nay vẫn kêu gào vì bánh mì và chỉ được cho những hòn đá. Thực tế này có thể đi đến một cung cách nào đấy đối với việc giải thích sự suy thoái trong niềm tin tôn giáo, không chỉ trong Tịnh Độ Chân Tông, mà cũng trong những truyền thống tâm linh khác.

Một cách hoàn toàn bộc trực, cuộc sống tín tâm, đầu tiên và chính yếu, là một con đường tâm linh hướng đến việc đạt được giải thoátgiác ngộ khỏi xiềng xích của luân hồi sinh tử. Sự áp dụng xã hội của nó thật sự không phải nơi đây cũng không phải đằng kia. Nếu Giáo Pháp không thể soi sángnuôi dưỡng chúng ta trong chính bản chất tâm linh của nó, thế thì không có mức độ nào của ‘dấn thân’ sẽ đầy đủ hay đạt yêu cầu hay chiếm vị trí của nó. Người ta bị thôi thúc để nghĩ rằng sự nhấn mạnh cực đoan được đặt trong Phật Giáo dấn thân che dấu một chủ thuyết bất khả tri [7] hay tệ hại nhất là một sự phá sản tâm linh với sự tôn trọng đến những vấn đề tín lý. Giống như thế, trong thời đại mạt pháp, những khía cạnh tâm linhquán chiếu thuần khiết của con đường tu tập đã bị chối bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa hoạt động không ngừng [8] tìm cầu một sự chuyển hóa thế giới trong một điều gì đấy không bao giờ có thể hiện thực. Những giải pháp triết học lệ thuộc không gian-thời gian [9] không phải là câu trả lời. Ngoại trừ chúng ta giải quyết câu hỏi căn bản “sinh và tử’ (sinh tử sự đại - chắc chắn là một việc làm cho cả đời), thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể có bất cứ một hành động chân thật hữu ích nào trong thế giới. Không cần phải nói, một hành vi quan trọng nhất như vậy là đạt được tín tâm và chia sẻ với những người khác. Điều này khó khăn đầy đủ mà không cố gắng để thiết lập một đòi hỏi sâu xa hơn để làm hành vi ‘thích đáng này đến thời đại của chúng ta’ hay thực hiện một nền tảng cho một sự cải thiện xã hội – một vận động nhất thời phải nói tối thiểu là như thế.

Một điểm khác cần được thực hiệncon người của tín tâmhoàn toàn có thể có những hành vi đối lập sâu xa trong sự liên hệ với những vấn đề đạo đức, xã hội và chính trị. Thí dụ, diệu hảo nhân[10], nói về những Phật tử Tịnh Độ Chân Tông thuần thành, những người biểu hiện một trạng thái muôn màu muôn vẻ thiên hướng quan tâm đến xã hội – hầu như im lặngbảo thủ nhất.

Chúng ta những người ngưỡng mộ cõi Di Đà an lạc,
Mặc dù chúng ta khác biệt trong điều kiện và biểu hiện bên ngoài,
Phải thật sự tiếp nhận Danh Hiệu của Đại Nguyện Nguyên Sơ
Và không bao giờ quên lãng, cho dù đang đi hay đang ngủ

(Tổ Sư Hòa Tán, Kệ 96)

Có một nhu cầu cho một sự chân thật vô tư và tự thẩm tra nghiêm khắc với sự quan tâm đến bất cứ phiền toái nào của những giá trị, giá trị mà thế nào đấy được thấy là hiển nhiên. Nếu chúng ta không cảnh giác đến sự kiện này thì những trường hợp và kết quả nguy hiểm có thể sinh khởi và thường quá xa. Có phải rồi thì chúng ta không có tiêu chuẩn nào cho việc hướng dẫn thái độ của chúng ta trong thế giới? Chủ thuyết bất bạo động đã luôn luôn là một quan điểm sống động đã hướng người Phật tử từ buổi bình minh của truyền thống này. Niềm tin rằng chúng ta không nên làm tổn hại chúng sinh có thể thường được thấy rõ trong trái tim của nhiều giáo thuyết đạo đức và nó dường như chắc chắn đã khắc họa trong giáo huấn Đạo Phật về từ biphụ thuộc duyên khởi của tất cả chúng sinh. Khái niệm bất bạo động có thể hình thành một số hành vi của chúng ta trong cuộc sống (thí dụ giới tính, luật pháptrật tự, chính sách phúc lợi,v.v…) nhưng rồi thì ngay cả sự áp dụng công bằngchính xác của nguyên tắc này thì hiếm khi thành thậtthường có thể bị sa lầy sâu trong nhập nhằng (những hình thức cân bằng đối kháng với tổn hại, thiết lập những mức độ thừa nhận khổ đau, v.v…)

Những kiểu thức Phật Giáo cho thái độ này là xây dựng sâu sắc và rõ ràng được thúc đẩy bởi tuệ giác của Thế Tôn vào trong điều kiện thảm sầu của con người và bởi quan tâm của Ngài để làm giảm nhẹ khổ đau của chúng ta. Những kiểu mẫu này có thể phục vụ như những hướng dẫn hữu ích tuy thế một cách thiển cận chúng ta có thể thất bại vào việc liên hệ những tiêu chuẩn này. Chúng cung ứng những tiêu chuẩn quan trọng đối với việc chỉ cho chúng ta biết chúng ta có đang hướng trên một phương hướng đúng hay không nhưng không phải luôn luôn rõ ràng rằng chúng sẽ cung ứng một giải pháp toại nguyện trong mọi trường hợp. Những giá trị của thế giới con người vốn bị làm mất hiệu lực bởi chướng ngại và những động cơ khó hiểu được cũng như tự ngã to lớn, mặc dù khả năng của chúng sinh đôi khi có thể thấy cung cách của chúng ta qua một vị thế khách quan và vô tư hơn. Tuy vậy, chúng ta phải hết sức cẩn thận để không sử dụng tuệ giác tâm linh (mà không phải luôn luôn tương ứng với biểu hiện ngôn ngữ đầy đủ) như một phương tiện để bắt đầu bình luận xã hội nơi mà điều này chỉ giống như hà hơi cho sự mê muội, không chắc chắn và có thể sân hận. Thế giới đầy dẫy những ý kiếnvấn đề đạo đức và những việc xã hội quan trọng và nó gần như không thể hữu hiệu để thiết lập bất cứ một loại thỏa hiệp hay hòa hợp trên những vấn đề như thế ngay cả trong những người cùng chia sẻ một niềm tin tâm linh. Vì lý do ấy, thật khó để mong mõi đề xuất những nhu cầu thống nhất cho sự dấn thân của chúng ta với thế giới.

Thế giới luân hồi này có thể không bao giờ cung ứng cho chúng ta những điều chắc chắn loại này và chúng ta sẽ hành động tốt để cố gắng một cách chân thành hơn là nghĩ chúng ta đang làm việc gì đấy hữu ích trong việc diễn tả tiêu chuẩn đạo đức trong những vấn đề tín ngưỡng được căn cứ trên việc có phải niềm tin như vậy đã được áp dụng một cách thích đáng và được diễn dịch thành một hình thức nào đấy của việc dấn thân với xã hội chúng ta hay không.

Mặc dù Thân Loan Thánh Nhân đánh giá tiêu cực về bản chất con người, tôi thấy nó an ủi thế nào ấy ở chỗ nó thừa nhận một cách can đảm những thực tại nào đấy không thể bỏ qua, bao gồm sự kiện rằng tất cả chúng ta, trong cách này hay cách khác, là bị phiền não bởi vô số giới hạnchướng ngại trong nhu cầu cho sự hoàn hảo của con người. Đánh giá của Thân Loan thúc đẩy chúng ta dừng lại và phản chiếu trên bản chất tự nhiên của thế giới, những giá trị bề ngoài, những nhu cầu giả tạo và những dự đoán không tự nhiên. Nó cũng giúp chúng ta nhận ra khổ đau, bất công và thảm họa kinh khiếp trong thế giới (nhiều thứ không được hầu hết mọi người chúng ta chú ý đến) cũng như si ám, tàn nhẫn và vô nghĩa của nhiều thứ liều lĩnh trong việc tìm cầu để cải thiện những nhận thức sai lầm và bất công. Thân Loan Thánh Nhân cũng giúp chúng ta nhận thức những sự thật gặp phải mà chúng ta góp phần không thể tránh khỏi đến tình trạng sầu khổ của những mối liên hệ bất chấp những xu hướng tối ưu của chúng ta. Che đậy những sự kiện này là thất bại để thấu hiểu ý nghĩa của nó đến đời sống kham nhẫn trong thế giới ta bà này - ‘một căn nhà lửa’ [11] nhất thời, khổ đau và thất vọng.

Đời sống của chúng ta có thể đứt đoạn trong một cái chớp mắt. Sự tác động của chúng ta bị giới hạnchúng ta không hoàn hảo như một tác nhân đạo đức. Đây là sự lượng định thực tế của Đức Phật về thế giớichúng ta thấy chính mình, và bi quan yếm thế không dứt nếu Ngài cũng không chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi ngõ cụt hiện tồn này; không phải qua việc dấn thân với thế giới mà bằng việc vượt lên trên cả thế gian và chính chúng ta. Đây là đối tượng chính của chúng ta trong việc theo đuổi con đường Tịnh Độ - việc đạt đến Niết Bàngiải thoát tất cả chúng sinh khỏi bánh xe mệt nhoài tẻ nhạt [mà kinh khiếp] của sinh tử luân hồi (tối thiểu đối với những ai mà với họ những khái niệm như vậy vẫn còn đầy ý nghĩa.)

Con người nào đã được gia trì với sự thực chứng tín tâm có thể hành động khi họ thấy vững vàng đủ đầy trong lòng hiểu biết rằng sự cứu độ của họ là bảo đảm. Vì vậy, người ta có thể biểu hiện tử tế, sân hận hay tham dục như những điều kiện đóng góp nhưng luôn luôn với sự tỉnh thức trọn vẹn rằng họ thì ‘hoang mang và bướng bỉnh’ tuy nhiên hoàn toàn được ôm ấp bởi Đức Thế Tôn Vô Lượng Quang. Đây là mục tiêu của Chân Tông Tịnh Độ mà tất cả nỗ lực của chúng ta nên được hướng trực tiếp đến. Không có điều gì khác có thể quan trọng như thế bởi vì không có nó, tất cả những nổ lực và ngưỡng vọng khác của chúng tavô ích. Tất cả những điều này nghe dường như im lặngthụ động quá mức, nhưng trong căn bản, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta trong đời sống này là sự thức tỉnh tâm thức Di Đà trong sự thân chứng của tín tâm. Kinh nghiệm hành giả Tịnh Độ thuần thành qua các thời đại đã là một với việc tìm kiếm chính mình trong thế gian không mến khách này giống như trong một loại lưu vong từ ngôi nhà chân thật của chúng ta mà chúng hằng mong ước trở lại. Điều này kêu gọi cho một sự biện pháp nào đấy về việc giải thoát khỏi thế gian, chứ không phải tham dự với nó. Trong những lời khó quên của Tổ Thiện Đạo [13]:

Hãy trở lại! Đừng bất động
Trong xứ sở này của ma vương
Từ vô lượng kiếp về trước
Chúng ta đã từng luân hồi
Lưu chuyển qua tất cả sáu nẽo luân hồi.
Không nơi nào có bất cứ một niềm vui nào;
Chúng ta chỉ nghe những âm thinh của khóc than và sầu khổ.
Sau khi đời sống hiện tại này chấm dứt,
Chúng ta hãy đi vào niết bàn thành! (KGSS V, 32)

Người ta phải được phép được hướng dẫn bởi sự sáng suốtý thức của chính họ trong mối liên hệ với sự tương tác của họ với thế giới và cũng được phép để làm nên lỗi lầm trong việc làm như thế. Người ta cũng không phải bị cho là yếu kém đạo đức vì đã thất bại trong việc đáp ứng mong đợi của họ hay từ chối những loại đạo đức đặc thù nào đấy hay những trông đợi của xã hộitính chất nhất thời trong bất cứ trường hợp nào. Trong những trường hợp này, chúng ta phải cảnh giác đến những bẩy rập của tính ngay thẳng đạo đứcđạo đức giả.

Chúng ta cũng cần sự thừa nhận trung thực nội dung chính một cách đạo đức quan điểm bất khả tri của Thân Loan:

Nhưng đối với một việc ngu ngơ thể hiện những sự đam mê mù quáng, trong thế giới giả tạm phù du này – ngôi nhà lửa này – tất cả những vấn đề, không ngoại lệ nào, đều là lừa dối và lúng túng, hoàn toàn không có sự thậtchân thành. Chỉ có Niệm Phậtchân thành và thật sự. (Thán Dị Sao, Tái Bút)

Tất cả những cố gắng để bỏ qua chân lý này hay cải thiện thế nào ấy, có thể là, một sự phản bội lại giáo huấn của ngài.

Bài viết này không có ý định trình bày một sự bình luận thuần học thuật chủ đề của nó. Trong quan điểm nhu cầu cấp bách của vấn đề, nó là một lời cổ vũ hơn để tập trung trên những vấn đề ưu tiên. Trong Chân Tông Tịnh Độ ngày nay, hiện hữu ở đấy là một sự quan tâm nhỏ giọt đến sự dấn thân bên trong mà mỗi chúng ta phải có với Đức Phật Di Đà. Những hành vi của chúng ta trong thế giới sẽ là một biểu hiện của sự gặp gở này và của nghiệp lực cá nhân của chúng ta, và không ai ở trong một vị trí để tiên đoán nó để một mình ra lệnh cho nó. Tính khí và khuynh hướng đa dạng vô tận của con người phải được tôn trọngđiều tiết trong bất cứ quan điểm thế gian nào mà con người có thể hình thành, ngay cả nếu chúng ta không đồng ý hay có một ít đồng cảm với nó. Tịnh Độ Chân Tông là một truyền thống tâm linh và một loại tế nhị, sâu sắc và thử thách đến vấn đề này. Nó không hình thành hay hàm ý một ý tưởng xã hội đặc biệt và không dự tính một tình trạng lý tưởng của những mối quan hệ cho thế giới ở trên hay quá hơn những khuynh hướng tâm linh của nó. Chắc chắn, Thân Loan Thánh Nhân đã tuyên bố một hy vọng cho sự lan truyền của hòa bình trên thế giới – ai không nhất trí với ngài? – nhưng đây chỉ là một khát vọng và không phải thể thức cho sự thành công. Trong thế giới hiện đại, người ta thường nghe phàn nàn rằng tôn giáo phải tiếp nhận ‘những cung cách của thế giới’. Kỷ nguyên hiện đại, với những rối rắm chao đảo của nó về những định kiến và khát vọng vô lối, nên đã trình bày không có gì có giá trị xác thực khi đã được chiếu cố ‘từ nhận thức vĩnh cửu’ [12]. Không phải Giáo Pháp làm cho phù hợp với thế giớithế giới phải làm cho phù hợp với Giáo Pháp.

Phụ chú:

[1 ]1- Kinh Duy Ma Cật – Chương 10: Cõi Ta bà chúng sinh cang cường khó giáo hóa. 2- Kinh Địa Tạng – Phẩm 4: Chúng sinh cang cường, Ham vui khổ vô cùng. 3- Kinh niệm phật Ba La Mật - Duyên khởi : chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề cang cường

[2] Bố Tát Đạo

[3 ] Hân Tịnh Độ và yểm ta bà: tức là chán ghét cảnh trần gian và ưa thích cõi Cực lạc.

[4] trong ý nghĩa của Giáo Pháp, từ bi không chỉ đơn thuần là sự tử tế ân cần (mà có thể nói là, cảm giác theo đấy) nhưng …có thể chỉ xãy ra trên bộ phận của những ai thấu hiểu và vượt lên vọng tưởng tự ngã, bởi điều đó có một loại đồng nhất hóa với người khác. Nó đúng là không bao giờ xãy ra đến cho Thân Loan với một thể trạng tâm thức được ttrù tính bởi một người bình thường như chính ngài. 'True Compassion', an essay on Koso Wasan No.35. The author would like to extend his gratitude to the Rev. Gatenby for his invaluable advice in the preparation of this paper.

[5 ]Consequentialism: lý thuyết đạo đức cho rằng một hành động đúng hay sai tùy thuộc hậu quả của nó là tốt hay xấu.

[6 ] Abrahamic coalition (Christians, Jews and Muslims) - liên minh của Do Thái Giáo, Ki Tô Giáo, và Hồi Giáo: Đối với Liên Minh Abraham, linh hồn (soul) là điều gì đấy “được tạo ra” bởi Thượng Đế là điều được ‘ban cho’ con ngườiThượng Đế và Sa Tăng cả hai đều “tranh giành” linh hồn. Người ta có thể “bán” linh hồn cho Sa Tăng và người ta có thể “cứu rỗi hay chuộc lại” linh hồn của người ta. Thú vật mặc dù hoàn toàn ý thức và chia sẻ nhiều thuộc tính với con người nhưng không “sở hữu” linh hồn. Ba tín ngưỡng trên ngay cả tranh luận cho đến Thời Kỳ Trung Đại về vấn đề phụ nữlinh hồn hay không! Hindu concept of Self and Abrahamic concept of soul - http://veda.wikidot.com/self

Ba tín ngưỡng trên tuy nhiên vẫn không thống nhất tín lý với nhau, “một tôn giáo lớn nữa cũng tôn thờ Thiên Chúa mà họ gọi là Đấng Allah. Đó là Đạo Hồi (Islam) do Muhammad sáng lập vào năm A.D 622.Từ ngữ Islam trong tiếng Ả Rập có nghĩa là “Tuân phục ý muốn của Thiên Chúa= (Submission to the will of God) nhưng Đạo này khác xa Đạo Do Thái và các Nhánh Ki tô Gíáo nói trên về nhiều mặt.”

[7 ] Thuyết bất khả tri (Tiếng Anhagnosticism) là quan điểm triết học cho rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống.

[8] việc sử dụng hành động trực tiếp thường là đối đầu, như biểu tình, đình công, trong sự đối lập hay hổ trợ cho một vấn đề

[9 ] intra-samsaric: space – time, four-dimensional continuum, không gian bốn chiều liên tục, ba tọa độ không gian và một tọa độ thời gian. (The Vision of the Buddha).) http://server4.fropper.com/forum/message-list.php?board_id=12&topic_id=1939&pusername=&topics_sel_opt=&page=1

[10] Myokoninden: một người xuất sắc phi thường, thuần thành theo biểu tượng của Tịnh Độ Chân Tông.

[11 ] Kinh Pháp Hoa - Phẩm Thí Dụ - Hỏa trạchba cõi không an giống như nhà lửa.

[12 ] sub specie aeternitatis: từ từ điển triết học: dưới khía cạnh vĩnh cửu hay từ nhận thức vĩnh cửu- Trong khi điểm khác biệt căn bản trong hệ thống triết lý của Phật giáo và các tôn giáo khác là: Phật giáo cho rằng tất cả pháp (những gì có mặt trên cuộc đời, bao gồm cả tâm và vật) trên thế gian này đều là duyên sinh, có điều kiện; và do đó, tất cả pháp là vô ngã, không hề có một thực thể nào bất biến, vĩnh hằng, cũng không có ai làm chủ đời sống của con người, ngoại trừ con người cá thể

[13] Nhị Tổ Thiện Đạo Đại Sư, người đời nhà Đường, chưa am tường được xuất xứ. Đại sư khai thị: "Niệm Phật được nhất tâm chứng ngộ, thì Tịnh tức là Thiền vậy.

[14] J. Paraskevopoulos: là nhân viên của Bộ Ngoại Giao Úc Đại Lợi. Ông học Triết tại Đại Học Melbourne trước khi thọ giới thành Mục Sư trong truyền thống Tịnh Độ của Đại Thừa Phật Giáo tại Tây Kinh (Kyoto) vào năm 1994. Ông là tác giả của một số bài báo trong Tịnh Độ Chân Tôngcộng tác với Sacred Web. Đề tài của ông là, “Tính Tuyệt Đối của Đại ThừaPháp Môn Tịnh Độ” xuất hiện trong > Ánh Sáng từ Phương Đông: Tuệ Trí Đông Phương cho Tây Phương Hiện Đại (Light from the East: Eastern Wisdom for the Modern West ).

http://www.nembutsu.info/berkeley.htm

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10119)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10373)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9652)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23567)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11811)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10702)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10046)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28634)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21548)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29359)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11370)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12351)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26267)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 30972)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25282)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22769)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13026)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21876)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12198)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14097)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12388)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11210)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10673)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 37997)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13652)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13431)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12319)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12562)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12030)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10708)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11182)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23330)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33138)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12765)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7374)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12159)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12564)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 11980)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12822)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11911)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10645)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11325)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11615)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10826)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10762)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10339)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10437)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10675)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10604)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11879)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10660)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12716)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10783)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11361)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11071)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11600)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10487)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11228)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12272)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11112)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12468)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11402)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11490)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11270)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11562)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12967)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14140)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10979)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11835)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13131)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11525)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11387)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10900)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11255)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10790)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11030)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10856)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10223)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17080)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10983)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10849)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10388)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10727)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11356)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11037)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10537)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11339)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10317)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10614)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12727)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19211)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19630)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21217)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20259)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19704)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 18987)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20410)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21028)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17887)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21763)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant