Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền là gì?

16 Tháng Hai 201200:00(Xem: 19571)
Thiền là gì?
THIỀN LÀ GÌ?
Thích Nguyên Đăng

Suốt bốn mươi lăm năm đức Phật chỉ thuyết giảng hai điều: (1) Khổ và (2) con đường đưa đến sự diệt Khổ. Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh mà thiền Phật giáo gọi là samatha (thiền chỉ).

Định nghĩa Thiền

Thiền là môt từ thực sự khó định nghĩa ở bất cứ ngôn ngữ nào và thường gây bối rối cho độc giả. Vậy nó có nghĩa là gì?

Theo tự điển tiếng anh Oxford, thiền là sự thực hành suy tư sâu sắc trong tĩnh lặng để cho tâm của người thực hành an tịnh. Còn tư điển Merriam-Webster thì đưa ra hai định nghĩa khác nhau: thứ nhất, thiền là ngâm mình trong sự trầm tư mặc tưởng hay sự phản tỉnh; thứ hai, thiền là tham dự vào việc luyện tâm (như tập trung vào hơi thở hay trì tụng một câu thần chú lặp đi lặp lại nhiều lần[1]) với mục đích hướng đến sự tỉnh thức tâm linh ở một cấp độ cao.

Và theo tự điển Cambridge, thiền là hoạt đông hướng sự tập trung của bạn vào một đối tượng (có thể là một hoạt động mang tính chất tôn giáo hoặc một phương thức nào đó để được trầm tĩnhbuông xả).

Nói chung, tất cả những định nghĩa này đều mang cùng một ý nghĩa: đó là sự nỗ lực hết mình để ràng buộc tâm vào một điểm duy nhất vì dường như người ta không có khả năng tập trung vào hai đối tượng trong cùng một thời điểm.

Suy cho cùng, chúng ta thường có khuynh hướng dùng từ “thiền” để mô tả những sự thực tập có tính trầm tư mặc tưởng hay những sự thực hành phản ánh sự suy nghiệm.

Dựa trên ý nghĩa này, thiền không nhất định mang ý nghĩa tôn giáo. Mà đúng hơn, thiền là một phần tri nghiệm tự nhiên của con người chúng ta, và nó có thể được dùng làm phương thuốc trị liệu để gia tăng sức khỏe cũng như nâng cao hệ miễn dịch trong con người chúng ta.

Bất kỳ ai ngắm nhìn mặt trời lúc hoàng hôn hay chiêm ngưỡng một bức tranh nghệ thuật mà cảm thấy trầm tĩnhnội tâm thanh thoát đều ít nhiều thưởng thức gia vị của thiền. Nói như vậy, thiền Phật giáo là gì? Trước hết chúng ta khảo sát thiền Phật giáo theo cách hiểu của ngươi bình thường trước.

blank

Một buổi ngồi thiền tại Thiền Viện Chơn Không Vũng Tầu

Thiền Phật Giáo Theo Quan Điểm Bình Dân

Khi được hỏi về thiền, ai trong chúng ta dường như đều có cùng câu trả lời bất kể chúng ta là ai đi nữa. Người bình thường hay liên tưởng đến thiền Phật giáo theo một trật tự sau đây: thứ nhất, thiền giả phải tìm một nơi thanh vắng như chùa, hay một góc phòng, hay một khóa tu thiền; nghĩa là người ta phải tách mình ra khỏi đời sống thường nhật bận rộn.

Điều tiếp theo họ nên làm là ngồi kiết già, thẳng lưng, và nhắm mắt.

Sau cùng, họ điều chỉnh sao đó để tập trung vào một đối tượng cụ thể.

Tại Vietnam, người Phật tử thường quen với việc Niệm Danh Hiệu của đức Phật A Di Đà. Họ có thể dùng một xâu chuỗi 108 hạt hoặc 18 hạt hay 54 hạt để biết chính xác số lần niệm Phật.

Tuy nhiên, những ai có trí nhớ tốt không nhất thiết phải dùng xâu chuỗi. Hầu như bất kỳ buổi lễ nào liên quan đến Phật giáo, phật tử Việt Nam đều Niệm Phật A Di Đà, và xem việc Niệm Danh Hiệu Phật này là thiền định.

Nói đúng hơn, đây là tịnh độ trong thiền. Theo phật tử Việt Nam, niệm danh hiệu Phật A Di Đà là để tịnh hóa cái tâm khỏi phiền nãovọng tưởng. Chúng ta không rõ quan điểm thiền trên bình diện chung có hợp với quan điểm thiền của đức Phật hay không? Bởi thế, tôi muốn dành phần tới để bàn về quan điểm thiền của đức Phật.

Thiền Phật Giáo theo quan điểm của đức Phật 

Theo Đại Kinh Saccaka (Mahāsaccaka-Sutta), câu chuyện về cuộc đời đức Phật tường thuật nhiều tình tiết liên quan đến sự giác ngộ cũng như giáo lý của ngài.

Lúc lên bảy tuổi, ngài theo phụ vương dự lễ Hạ Điền, khi ngài rời cung điện lần đầu tiên, và ngài đã chứng kiến lễ Hạ Điền. Lúc ấy, ngài nhận ra đươc thực trạng đời sống bên ngoài thế giới nhung lụa. Chứng kiến lễ Hạ Điền mở ra cho Sĩ Đạt Tha (Siddhartha) một viễn cảnh mới lạ về thế giới bên ngoài. Những gì diễn ra trong lễ Hạ Điền này đã tạo trong ngài mối ưu tư sâu thẳm. Ngài chứng kiến người nông phu quật liên hồi lên thân trâu đang cày cực nhọc. Tại đấy, ngài chứng kiến nhiều sự kiện mà trước đó ngài chưa hề được thấy trong hoàng cung.

Ngài lặng lẽ thoát khỏi không khí buổi lễ và muốn được an trú một mình. Rồi ngài cảm thấy tâm ngài đưa ngài về trạng thái an định. Ngài quán sát tường tận lưỡi cày cứa từng miếng đất trên thửa ruộng. Rôi ngài chứng kiến lưỡi cày nghiền nát côn trùng trên thửa ruộng, và chim chóc mổ xé những sinh vật nhỏ hơn.

Ngài tự hỏi mình: tại sao chúng sinh lại khổ đau như vậy? Ngài liền nghĩ, nếu phụ vương ta không làm lễ Hạ Điền, ắt hẳn những loài sinh vật này sẽ không bị sát hại như thế.

Ngài liền nhận chân ra mọi thứ đều có mối tương quan chặt chẽ. Mỗi hành động đều đem lại kết quả, điều sau này trở thành giáo lý cốt lõi của ngài.

Sĩ Đạt Tha chuyên chú sâu thẳm vào vấn đề này. Ngài chỉ chuyên tâm vào sự di chuyển của lưỡi cày trên đám ruộng cùng những hậu quả theo sau của nó; và ngài đã chứng đắc Jhāna, một trạng thái tâm thức trở thành bước đầu tiên trên lộ trình giác ngộ của ngài. Theo tự điển Pali-Anh, Jhāna là một trạng thái hỷ lạc[2].

Điểm liên hệ giữa sự kiện này với Thiền Phật Giáo về sau được hiểu là chuyên nhất trên một đề mục với sự tĩnh lặng. Chúng ta cũng có thể suy ra rằng chính với cái tâm tĩnh lặng, đức Phật đã khám phá ra một giáo lý quan trọng khác là học thuyết Từ Bi (metta) cho thế gian đang khổ đau, khi ngài chứng kiến chúng sinh đấu tranh, sâu xé nhau để tìm kiếm sự sống cho mình, phải sát hại chúng sinh khác. 

Một chi tiết quan trọng khác trong cuộc đời đức Phật liên hệ đến thiền là khoảnh khắc trước khi ngài thành đạo. Sau khi từ bỏ cung điện, ngài theo học với hai vị thầy trứ danh lúc bây giờ là Āḷāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta. Không lâu sau khi nhận họ làm thầy, ngài chứng đến thiền thứ bảy và thứ tám – Vô Sở Hữu XứPhi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

Ngài vẫn kết luận rằng đây không phải là con đường đem lại an lạcgiải thoát. Ngài gia nhập nhóm năm nhà tu khổ hạnh và bắt đầu tu tập theo lối khổ hạnh hành xác như họ. Ngài cố gắng tìm ra chân lý qua sự tu tập ép xác.

Tuy nhiên, con đường giác ngộ vẫn xa lánh người tu sỹ trẻ tuổi. Ngài trở nên ốm yếu và bệnh tật; thân thể còn chỉ như nắm xương. Ngài nhận chân ra rằng không thể tìm cầu giác ngộ bằng lối tu khổ hạnh như thế này.

Ngài quyết định dùng thức ăn trở lại và một cách tự phát ngài nhớ lại sự chứng nghiệm lúc ngài tham dự lễ Hạ Điền.

Sau này Phật kể lại cho Aggivessana như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ". Rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện"[3].

Sau khi nhớ lại sự kiện thưở ấu thơ, nhà tu sy trẻ tuổi Sĩ Đạt Tha không còn tự ép buộc ngài vào lối tu khổ hạnh hành xác nữa. Ngài bắt đầu quan sát tâm qua sự di chuyển của từng hơi thở đi vàohơi thở đi ra. Ngài thấy sự cảm thọ hiện hữu khắp thân thể cho đến nơi lỗ mũi theo cách thức dần dần đưa tâm đến tĩnh lặng, an định, buông thư, minh giảithanh tịnh[4].

Ngài tiếp tục hành thiền lối này, vượt qua tứ thiền rồi thành Phật.

Tóm lại, theo quan điểm của người viết, quan điểm thiền của đức Phật có thể được mô tả theo hai cách sau đây: thứ nhất, hành giả thiền tông phải tìm một nơi thật thanh vắng, gắn chặt tâm trên một đề mục thiền quán thích hợp với tâm tính của họ, như đối tượng quán chiếu của Sĩ Đạt Tha là theo dõi sự di chuyển của lưỡi cày; bước thứ hai là nỗ lực hết mình để an trú tâm trên đối tượng đã được chọn cho đến khi hành giả khiến tâm an tịnh.

Một khi tâm đã an tịnh, hành giả sẽ thể nhập sâu lắng vào bản tính của một hiện tượng nào đó mà họ muốn thấu triệt. Trong trường hợp của đức Phật, khi quán sát lưỡi cày trên thửa ruộng sâu lắng với cái tâm tuyệt đối an tịnh, ngài nhận chân rằng hữu tình chúng sinh đấu tranh lẫn nhau để sinh tồncam chịu khổ đau.

Chứng kiến sự khổ đau của chúng sinh với tâm quán chiếu như vậy, có lẽ đây là điểm khởi thuỷ để đức Phật thuyết giảng học thuyết về Từ Bi. Từ Samatha thường được dịch là an bình hay tỉnh thức trong tiếng Anh (tranquility or calm), và Vipassana được dịch là quán[5] có lẽ cũng bắt đầu từ câu chuyện về cuộc đời đức Phật được chép trong Đai Kinh Saccaka. 

Điều đáng bàn là quan điểm ban sơ của đức Phật về thiền được phát triển và diễn giảng rộng hơn dựa những bài kinh nói về thiền trong tạng Pāli.

Thiền Trong Kinh Tạng Pāli

Giữa những kinh nói về thiền trong tạng kinh điển Pāli, phải nói rằng Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipatthana sutta) là Kinh tiểu biểu và quan trọng bậc nhất. Có thể nói rằng toàn bộ hệ thống thiền phật giáo được cô đọng trong kinh này. Những Kinh quan trọng khác về thiền như Kinh Quán Niệm Hơi Thở hay Nhập Tức Xuất Tức Niệm (Ānāpānasati sutta), Kinh Thân Hành Niệm (Kāyagatāsati sutta), hay Kinh Niệm Xứ (Satipatthana sutta) chỉ là những sự diễn giảng rộng thêm dựa trên nền tảng của kinh Kinh Đại Niệm Xứ. Bởi tầm quan trọng của kinh này đối với hệ thống thiền học phật giáo, người viết xin lấy kinh này để bàn về nội dung của thiền học.

Theo trình tự và cấu trúc của Kinh Đại Niệm Xứ, thiền gồm có bốn thành phần chính yếu: thứ nhất là quán niệm thân (kāyānupassanā); thứ hai là quán cảm thọ (vedanānupassanā); thứ ba là quán niệm tâm (cittānupassanā); và thứ tư là quán niệm pháp (Dhammānupassanā).

Quán thân gồm có quán niệm hơi thở ra vào (anāpāna), quán bốn hành động của thân – đi, đứng, nằm, ngồi (iriyāpatha), liễu tri (sampajañña), quán bất tịnh của thân thể (paṭikulamanasika pabba), quán các giới – đất, nước, lửa, gió (dhātumanasika), quán chín giai đoạn thối rữa của thân thể (navasivathika).

Nói ngắn gọn, có tất cả mười bốn thành phần về quán thân.

Quán thọ bao gồm có ba loại: lạc thọ (sukkha), khổ thọ (dukkha), và bất khổ bất lạc thọ (adukkhamasukkha).

Quán tâm bao gồm quán tâm tham và tâm vô tham, tâm sân và tâm vô sân (dosa and vitadosa), tâm si và tâm vô si, tâm tán loạn và tâm thâu nhiếp, tâm quảng đạitâm không quảng đại, tâm hữu hạn và tâm vô lượng, tâm có định và tâm không định, tâm giải thoáttâm không giải thoát. Có tất cả mười sáu thành phần quán về tâm nhưng chúng thường được xem là một thành phần duy nhấtquán tâm.

Quán pháp gồm có quán năm triền cáitham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối và nghi (nīvaraņa), năm thủ uẩnsắc, thanh, hương, vị, và xúc ( khanda), sáu nội ngoại xứ (āyatana), bảy giác chi – niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, và xả (bojjhaṅga), bốn sự thật hay bốn thánh đế - khổ đế, tập đế, diệt đế, và đạo đế (ariyasacca). Nói tóm lại, có tất cả năm thành phần về quán pháp (Dhamma)[6].

Bài viết này không phải dành riêng để bàn về nội dung của Kinh Đại Niệm Xứ, mà chỉ dựa vào nó để trình bày ngắn gọn phương pháp hành thiền. Theo nhận định của người viết, có hai điểm chính yếu đáng quan tâm trong Kinh Đại Niệm Xứ cũng như trong nền thiền học phật giáo của kinh tạng Pāli.

Thứ nhất, tất cả bốn phép quán (thân, thọ, tâm, và pháp) đều dựa trên nền tảng chính niệm. Hay nói khác, thiền được hiểu là nói đến những sự thực tập nhất định được y cứ bằng việc thiết lập chính niệm. Từ “satipatthāna” bắt nguồn từ tiếp đầu ngữ sati, có nghĩa là chính niệm, và tiếp vị ngữ pathana, có nghĩa là nền tảng[7].

Một cách rõ ràng, satipatthāna mang nghĩa là nền tảng của chính niệm. Chính niệm cấu thành bốn thành phần tu tập đưa đến sự giác ngộ, và nó được nhận thức là kim chỉ nam cho tất cả các phương pháp thực hành thiền định.

Bốn thành phần quán niệm không gì khác hơn là quán thân, quán cảm thọ, quán tâm, và quán pháp.

Điều thứ hai người viết muốn nhấn mạnh là, tất cả giáo pháp của đức Phật (Buddhadhama) đều có liên đới với thiền định. Những gì được dạy trong Kinh Đại Niệm Xứ bao hàm tất cả những gì đức Phật đã thuyết giảng trong suốt bốn mươi lăm năm. Kinh Đại Niệm Xứ không chỉ nói về thiền định mà còn trình bày toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật giáo.

Lý do để chúng ta khẳng định điều này là những gì đức Phật thuyết giảng cho thế gian đều bắt nguồn từ sự khám phá, chứng nghiệm, và nếm vị ngọt của chính pháp một cách thực tiễn và thực nghiệm từ bản thân ngài qua sự thực hành thiền định hơn là những học thuyết có tính lý thuyết suông và siêu hình.

chúng ta không rõ giáo lý thiền được giải thích như thế nào trong văn họcluận tạng Phật giáo về sau. Do đó, phần tới sẽ được dành để khảo sát thiền dựa theo quan điểm trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga) của Buddhaghosa (Phật Âm).

Thiền Phật Giáo trong Luận Tạng 

Trong Thanh Tịnh Đạo Luận, Buddhaghosa trình bày thiền dưới bốn mươi đề mục (kammaṭṭhāna).

Đó là Định Mười Biến Xứ (10 kasinas): đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, không gian, và ánh sáng.

Định Bất Tịnh Quán (10 asubha): tướng phình trướng, tướng bầm xanh, thây chảy mủ, tướng nứt ra, tướng bị gặm khói, tướng rã rời, tướng phân tán rã rời, tướng máu chảy, tướng trùng ăn, và tướng bộ xương.

Mười Tùy Niệm (10 anussati): niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm chết, thân hành niệm, niệm hơi thở, và niệm an bình.

Các Phạm Trú (4 Brahmavihāra): từ, bi, hỷ, và xả.

Các Vô Sắc Xứ (arūpasamāpatti): không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tưởng về Bất Tịnh trong thức ăn (1) và phân tích Bốn Đại (1). 

Giữa bốn mươi đề mục thiền, mười biến xứ (kasinas) được tìm thấy trong tạng kinh (Suttapiṭka) thuộc tam tạng hệ Pāli[8]. Quán Bất Tịnh được tìm thấy trong Kinh Đại Niệm Xứ, Kinh Niệm Xứ, Kinh Quán Niệm Hơi ThởKinh Thân Hành Niệm. Mười Tùy Niệm được chép trong Kinh Tăng Chi (Tập I); trong Bốn Phạm Trú, Từ và Bi được nói đến trong Kinh Từ Bi (Metta Suttā), và trong phần Vô Ngại Giải Đạo (Patisambhidamagga) thuộc Kinh Tiểu Bộ (Khuddaka Nikàya); hỷ và xả được bàn đến trong phần Thất Giác Chi (Bojjhaṅga Pabba) thuộc Kinh Đại Niệm Xứ. Bốn Vô Sắc được tìm thấy trong kinh Tăng Chi (tập IV); Tuởng về Bất Tịnh trong Thức Ăn cũng được tìm thấy trong kinh Tăng Chi (tập IV); và phần Phân Tích Bốn Đại được nói đến trong Đại Kinh Dấu Chân Voi (Mahāhatthipadopama Sutta).

Nhìn lướt qua danh sách bốn mươi đề mục thiền, chúng ta thấy rằng Buddhaghosa làm được một công trình rất lớn lao là hệ thống hóa bốn mươi đề mục thiền theo một trình tự có tính học thuật cao.

Cho dù tất cả bốn mươi đề mục đều được tìm thấy trong kinh tạng Pāli, thiền Phật giáo, theo Buddhaghosa, vẫn khác rất nhiều với thiền được đề cập trong kinh tạng Pāli nói chung và kinh Đại Niệm Xứ nói riêng. Không ai biết chắc rằng tại sao Buddhaghosa lại phân loại bốn mươi đề mục theo cách như vậy. Theo sự mô tả trong Thanh Tịnh Đạo Luận (Visuddhimagga), Buddhaghosa gợi ý rằng hành giả thiền tông nên chọn đề mục thiền nào phù hợp với căn tính của họ.

Buddhaghosa nói rằng có sáu loại căn tính khác nhau: đó là tánh tham, sân, si, có niềm tin, thông minh, và phỏng đoán (greed, hate, delusion, faith, intelligence, and speculation)[9]. Đơn cử là, Buddhaghosa tuyên bố rằng những ai có tính khí tham nên quán tưởng bất tịnhthực hành Thân Hành Niệm; những ai có tính sân nên quán tưởng bốn biến xứ - xanh, vàng, đỏ, và trắng cũng như bốn phạm trú – từ, bi, hỷ, và xả; những ai có tánh si và phỏng đoán nên quán niệm hơi thở; những ai có niềm tin nên quán tưởng sáu Tùy NiệmNiệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng, Niệm Giới, Niệm Thí, và Niệm Thiên; những ai có tính khí thông minh nên quán niệm an bình, niệm Chết, sự Bất Tịnh trong thức ăn, và bốn đại – đất, nước, lửa, và gió.

Theo nhận xét của người viết, thiền Phật giáo theo quan điểm được mô tả trong Thanh Tịnh Đạo Luận như sau:

Để mang lại lợi lạcthành công trong việc hành thiền, hành giả phải nhận ra được tính khí của chính mình. Có lẽ đây là lý do tại sao Buddhaghosa thiết lậphệ thống hóa bốn mươi đề mục thiền quán. Buddhaghosa cũng giải thích thêm rằng trong trường hợp hành giả không nhận ra căn tính của chính mình, họ phải cần có một thiền sư hay một pháp lữ giỏi và có kinh nghiệm để hướng dẫn (Kalyāṇa Mitta), yếu tố cũng được nhắc đến trong Thanh Tịnh Đạo Luận.

Theo người viết, hệ thống của Buddhaghosa là một điểm thật sự lôi cuốn nhưng cũng khá thách đố. Nói như vậy là bởi vì hành giả vẫn hoàn toàn đối mặt với thất bại cho dù có sự hướng dẫn của minh sư hay thiện hữu tri thức. Minh sư hay thiện hữu tri thức không ít lần đọc sai tư tưởng của người khác.

Cần nhấn mạnh lại rằng đại ý quan trọng nhất trong phương pháp thiền của Buddhaghosa là, người ta cố gắng nhận ra căn tính của mình. Chúng ta không đoan chắc rằng hệ thống thiền này có phản ánh đúng những gì đức Phật dạy hay không. Bốn mươi đề mục thiền đã có mặt trong kinh điển Pāli.

Điểm đáng chú ý là không phải tất cả kinh điển trong tạng Phật giáo nguyên thủy đều do Phật thuyết giảng, có thể do chư thánh đệ tử của Phật nói và được Phật chấp thuận. Theo dòng thời gian, như Phật giáo nói chung, giáo lý về thiền cần tự điều chỉnh để thích nghi với nhiều nền văn hóa khác nhau mà nó du nhập.

Lời Kết

Chúng ta thấy không có nhiều thay đổi trong phương pháp hành thiền từ thời đức Phật cho đến ngày hôm nay. Điểm cốt lõi của thiền Phật giáo vẫn còn được lưu hành.

Một cách khái quát, hành giả thiền tông cần thực hiện hai bước quan trọng: thứ nhất, nỗ lực để an tịnh cái tâm của mình; thứ hai, cái tâm an tịnh sẽ giúp hành giả tuệ tri sâu thẳm vào những gì mà họ thực sự muốn khám phá.

Trong ý nghĩa này, thiền là trung tâm trong hệ thống giáo lý của đức Phật. Bất kỳ học thuyết nào mà đức Phật đã thuyết giảng trong kinh điển Phật giáo nguyên thủy đều có liên đới đến thiền như chúng ta đã bàn khi nói về Kinh Đại Niệm Xứ.

Nói một cách khác, suốt bốn mươi lăm năm đức Phật chỉ thuyết giảng hai điều: (1) Khổ và (2) con đường đưa đến sự diệt Khổ. Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh mà thiền Phật giáo gọi là samatha (thiền chỉ).

Như mặt hồ phẳng lặng, với cái tâm an tịnh, người ta có thể nhìn thấu suốt những gì bên dưới nó. Đây là điều Phật giáo gọi là Vipassana (thiền quán). 



[1] Trì niệm chú không được đề cập trong văn học Pali. Có lẽ đây là một sự phát triển về sau của Niệm Phật (Buddhaussati, Recollection of the Buddha).

[2] Nyanatiloka (1952). Buddhist Dictionary: Manuals of Buddhist Terms and Doctrines. Sri Lanka: Buddhist Publication Society

[3] Đại Kinh Saccaka (bản dịch ht Thich Minh Châu).

[4] BBC movie- the Life of The Buddha.

[5] Nyanatiloka (1952), Sđd, trang 292 và 364.

[6]Maurice Walshe (trans) (1987). The Long Discourses of the Buddha (A Translation of the Digha Nikaya). Boston: Wisdom Publications trang 335-50.

[7] Nyanatiloka (1952). Sđd, trang 307. 

[8] http://en.wikipedia.org/wiki/Kasina

[9] Nyanamoli, Bhikkhu (1956). The Path of Purification (VisuddhiMagga). Singapore: Singapore Buddhist Meditation Centre, trang 102.

Source: thuvienhoasen

Ý kiến bạn đọc
15 Tháng Hai 201208:00
Khách
THÍCH NGUYÊN ĐĂNG:

Ngài lặng lẽ thoát khỏi không khí buổi lễ và muốn được an trú một mình. Rồi ngài cảm thấy tâm ngài đưa ngài về trạng thái an định. Ngài quán sát tường tận lưỡi cày cứa từng miếng đất trên thửa ruộng. Rôi ngài chứng kiến lưỡi cày nghiền nát côn trùng trên thửa ruộng, và chim chóc mổ xé những sinh vật nhỏ hơn.

Ngài tự hỏi mình: tại sao chúng sinh lại khổ đau như vậy? Ngài liền nghĩ, nếu phụ vương ta không làm lễ Hạ Điền, ắt hẳn những loài sinh vật này sẽ không bị sát hại như thế.

Ngài liền nhận chân ra mọi thứ đều có mối tương quan chặt chẽ. Mỗi hành động đều đem lại kết quả, điều sau này trở thành giáo lý cốt lõi của ngài.

Sĩ Đạt Tha chuyên chú sâu thẳm vào vấn đề này. Ngài chỉ chuyên tâm vào sự di chuyển của lưỡi cày trên đám ruộng cùng những hậu quả theo sau của nó; và ngài đã chứng đắc Jhāna, một trạng thái tâm thức trở thành bước đầu tiên trên lộ trình giác ngộ của ngài. Theo tự điển Pali-Anh, Jhāna là một trạng thái hỷ lạc.


GS001: Ôí giời ôi! Học Phật thiếu căn bản như thế này mà đòi dạy THIỀN cho thiên hạ thì làm hư cả đạo Phật rồi. Làm gì có chuyện Phật chuyên tâm quán cái lưỡi cày mà chứng quả SƠ THIỀN.

Muốn chứng SƠ THIỀN phải hội đủ 2 điều kiện: 1) LY DỤC (từ bỏ mọi ham muốn). 2) LY BẤT THIỆN PHÁP.
Ở bất cứ đâu trong kinh tạng, Phật cũng nhắc đến hai điều kiện đó để chứng SƠ THIỀN (thiền thứ nhất).

Đoạn Phật nhớ lại trong buổi lễ hạ điền, Nguyên văn Phật kể như sau:

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ". (Đại kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh).

Trong đó Phật cũng nhắc lại 2 điều kiện LY DỤC, LY BẤT THIỆN PHÁP.

Có chỗ nào Phật nói quán sự di chuyển cái lưỡi cày rồi chứng SƠ THIỀN hởi thầy THÍCH NGUYÊN ĐĂNG? Thầy có biết câu: "LY KINH THUYÊT PHÁP ĐỒNG MA THUYẾT" không? Chẳng qua vì Phật thấy cảnh chúng sanh nhai nuốt lẫn nhau rồi Phật thấy chán nản với cuộc đời rồi mới có tâm LY DỤC là điều kiện thứ nhất để chứng SƠ THIỀN đó thôi.

Làm gì có chuyện Phật quán cái lưỡi cày mà chứng SƠ THIỀN. Thầy đừng đặt điều, chuyện không có thành có như thế nha. Nếu lúc đó mà Phật còn nhớ cái lưỡi cày cứa đứt mấy con côn trùng một cách đau khổ, thì với cái tâm đau xót làm sao có thể yên tĩnh để chứng SƠ THIỀN được hở Thầy?
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11160)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10955)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11195)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11246)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14236)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12481)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26333)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11703)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29255)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11653)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10787)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11090)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10943)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10761)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11323)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10772)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12239)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11291)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10054)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11400)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13401)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11250)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11453)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12681)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13777)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13189)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12801)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12161)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30115)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38116)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24889)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10962)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11721)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10654)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11223)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11511)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12894)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12085)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11306)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10206)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11798)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11201)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10891)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13072)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10199)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10872)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10940)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14534)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10684)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21947)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12072)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11429)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30173)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19585)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20574)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12553)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12541)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21176)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13249)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14452)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30410)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28001)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28335)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20933)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28660)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27221)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21930)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21461)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26213)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21619)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23403)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26392)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23183)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19823)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21149)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19953)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15408)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39223)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25637)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14120)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26046)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22509)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29105)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22519)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22851)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13203)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23176)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13158)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28949)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30482)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14240)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26235)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33200)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8611)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13300)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30648)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22118)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21760)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant