Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đầu năm nói về cầu an cầu siêu

10 Tháng Ba 201200:00(Xem: 19945)
Đầu năm nói về cầu an cầu siêu


cauancausieu-minhduc-1-contentCầu an là mong muốn có được đời sống an vui hạnh phúc, không bệnh tật, khổ não, ít rủi ro, bất trắc…

“An” ở mỗi con người phải là thân an, (khỏe mạnh, sống lâu, không bệnh tật, không tai nạn, rủi ro…), tâm an (trạng thái tinh thần thanh thản, thoải mái, không lo âu phiền muộn, không sợ hãi, khủng hoảng, không căng thẳng bức bối…), hoàn cảnh an (gia đình ấm no hạnh phúc, điều kiện sống, hoàn cảnh sống tốt, các mối quan hệ tốt đẹp, gặp nhiều thuận duyên trong cuộc sống…).

Muốn được những điều đó cần phải tu dưỡng, rèn luyện thân, tâm, tích cực xây dựng đời sống cá nhân, đời sống xã hội trên tinh thần nhân quả, có chánh kiến (thấy, biết chơn chánh, nhận thức đúng đắn), chánh tư duy (suy nghĩ chơn chánh, tích cực), chánh ngữ (lời nói chơn chánh, hiền hòa, từ ái, có lợi ích thiết thực cho mình và cho người), chánh nghiệp (hành vi chơn chánh, ba nghiệp thân, khẩu, ý trong sạch), chánh mạng (nuôi sống thân mạng bằng nghề nghiệp, việc làm chơn chánh), chánh niệm (ý niệm chơn chánh, thường nhớ nghĩ điều lành, không vọng tưởng điên đảo, không niệm tham, sân, si), có tu tập thiền định (để có năng lực làm chủ cảm xúc, tình cảm, tâm lý, không dễ dàng bị lôi cuốn, cám dỗ bởi hành vi, lối sống tiêu cực, bất thiện), trí tuệ (nhận thức sáng suốt, năng lực hiểu biết đúng đắn, tích cực giúp xác định rõ đâu là điều thiện, đâu là điều bất thiện, hành vi nào mang lại an lạc, hạnh phúc cho mình và tha nhân.

Cao hơn nữa là thấy rõ bản chất của đời sống (duyên sinh, vô thường, khổ, không, vô ngã), thoát khỏi những ảo tưởng, ảo kiến của người bình thường, từ đó không còn bị ràng buộc, hệ luỵ, không còn những bất an, đau khổ).

Nếu chúng ta muốn xây dựng một đời sống an vui hạnh phúc thì không gì hơn cố gắng tạo nhiều thiện nghiệp, không làm phát sinh những bất thiện nghiệp chưa phát sinh và chừa bỏ những bất thiện nghiệp đã tạo.

Có thể đời sống hiện tại của chúng ta đang gặp nhiều khó khăn, khổ đau, bất hạnh, đó là do nghiệp nhân từ những đời trước hoặc quá khứ của đời này, nhưng các nghiệp thiện được tạo tác trong hiện tại có thể hóa giải phần nào các nghiệp bất thiện trước kia. Bởi vì từ nhân đi đến quả có các yếu tố duyên (các nhân phụ) xen vào nên nghiệp quả sẽ có sự chuyển biến. Cũng có trường hợp nghiệp quả không hình thành do sự can thiệp quá mạnh của các duyên.

Trong kinh Pháp cú Thí dụ, phẩm Vô thường thứ I có kể về vị trời Đế Thích sắp mãn phước, mất đi năm đức tướng (Ngũ suy tướng: 1. Mất hào quang, thân thể hôi dơ, 2. Hoa trên mão đội trên đầu khô héo, 3. Không còn ưa thích chỗ ở của mình, 4. Dưới nách chảy mồ hôi dơ, 5. Bụi bám lên thân).

Ông biết mình sắp mạng chungtái sinh vào thai con lừa của một người thợ làm đồ gốm. Ông hết sức lo buồn, vội tìm đến chỗ Phật xin Phật cứu độ cho. Đế Thích đến nơi gặp Phật liền phủ phục sát đất đảnh lễ, chí tâm quy mạng Phật, Pháp, Tăng. Nhờ công đức phước lành đó mà ông thoát khỏi kiếp lừa sắp tái sinh và giữ được thân tướng Thiên Đế đầy đủ năm đức tướng.

Vì thế cần phải hiểu là tất cả những gì trong hiện tại không phải hoàn toàn do nghiệp nhân các đời quá khứ quyết định mà còn do nghiệp nhân trong hiện tại tạo nên, đó là thái độ sống, quan niệm, những suy nghĩ, hành vi tiêu cực hoặc tích cực trong hiện tại. Cho nên không tạo nghiệp nhân xấu, tạo nhiều nghiệp nhân thiện trong hiện tạithái độ sáng suốt để cải thiện đời sống bất như ýxây dựng đời sống an vui hạnh phúc cho mình. Đó là cách thức cầu an tích cực.

Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả. Bằng sự thực hành các thiện pháp, bằng sự tu tập giới, định, tuệ, chúng ta có thể vô hiệu hoá các nghiệp nhẹ mà đáng lẽ chúng ta phải nhận lãnh quả báo.

Ngoài sự chuyển hoá tâm ra thì mọi nhân duyên can thiệp vào cơ chế nhân quả đều có giá trị tạm thời hoặc phản tác dụng. Ví dụ như dùng quyền năng của chú thuật hay thần thông để ngăn chặn nghiệp quả, né tránh nghiệp quả thì chỉ có thể trốn tránh nhất thời chứ không trốn tranh mãi được.

Chỉ những người có thiện tâm, hành động của thân, khẩu, ý đều là hành động thiện lành thì những nghiệp nhân đó khế hợp với bổn hoài chư Phật, tương ưng với tâm đại bi của chư Phật nên chiêu cảm quả báo tốt, biểu hiện ở chỗ cầu có linh ứng, có hiệu nghiệm, gặp nhiều thuận duyên v.v... chứ không phải Phật, Bồ-tát ban phước hay tiêu trừ nghiệp chướng cho chúng ta.

Không ai có thể ban phước giáng họa cho chúng ta kể cả Đức Phật. Nếu người tạo nhiều nghiệp bất thiện mà người khác có thể gánh chịu thay cho hoặc giúp cho thoát khỏi quả khổ thì định luật nhân quả nghiệp báo không còn. Đức Phật cứu độ chúng ta là giúp cải thiện chính mình, từ đó làm thay đổi hoàn cảnh.

cauancausieu-minhduc-2-thumbnailKhi chúng ta phát khởi thiện tâm chính là tạo nghiệp nhân thiện, từ đó đưa đến quả báo tốt: Đời sống an vui hạnh phúc, gặp nhiều điều xứng ý vừa lòng. Hành động đi chùa cúng dường Tam bảo, kính Phật, trọng Tăng là hành động thiện, là nghiệp nhân thiện tất nhiên đưa đến quả báo tốt đẹp chứ kỳ thực không ai ban cho ta cả.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật có dạy: “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói năng, hành động với tâm ô nhiễm thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo. Nếu nói năng, hành động với tâm thanh tịnh thì sự vui sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình” (Pháp Cú 1-2, Phẩm Song Yếu).

Nếu chúng ta sống đời sống không chơn chánh, đời sống bất thiện (trộm cắp, cướp giật, lừa đảo, chiếm đoạt, mua gian bán lận, giả dối lọc lừa, làm giàu bằng xương máu kẻ khác…), nếu chúng ta sống buông thả không có trách nhiệm đối với bản thân, đối với gia đình, xã hội (rượu chè, cờ bạc, sa đọa, truỵ lạc, làm khổ cho mình và người khác…) thì dù có cầu cho lắm cũng không an, cầu đến đâu cũng không ai cứu độ được. Nên nhớ, ý nghĩa cầu an trong đạo Phật khác các tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo thần quyền.

 

Trong vấn đề cầu siêu cũng vậy, không thể cầu cho người tạo nhiều ác nghiệp được siêu thoát theo ý muốn của mình. Tất cả những việc làm lúc sinh thờithiện nghiệp hay ác nghiệp, sau khi chết sẽ phải nhận lãnh kết quả dưới hình thức tái sinh cao hay thấp. Tức con người sau khi chết sẽ siêu thoát (tái sinh vào nhàn cảnh) hay đọa lạc (tái sinh vào khổ cảnh) tùy thuộc vào nghiệp mà mình đã tạo.

Cầu siêu có nghĩa là mong muốn hương linh người đã khuất siêu thoát khỏi khổ cảnh (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), được tái sinh vào cõi người hoặc các lạc cảnh khác (cõi Phật, cõi trời). Cầu siêu đích thực phải là sự mong mỏi, sự thành tâm thành ý và hành động hữu ích giúp hương linh được lợi lạc trong quá trình tái sinh.

Việc cầu siêu chỉ có ý nghĩa, giá trị khi người còn sống khai thị, cảnh tỉnh, giúp người chết chuyển đổi tâm niệm của mình. Pháp ngữ, lời kinh, tiếng kệ có năng lực giúp hương linh giác ngộ, tỉnh thức và sinh tâm hoan hỷ, nhờ đó họ an lạc không còn khổ não. Những công đức phước báu mà người thân làm để hồi hướng cho hương linh cũng mang lại nhiều lợi ích cho hương linh.

Khi người chết biết tùy hỷ trước những việc làm nhằm tạo công đức phước lành của những người thân của mình và phát khởi lòng thành kính hướng về Tam bảo thì họ đã chuyển hóa được phần nào những nghiệp ác bất thiệntăng trưởng phước báu cho tự thân, nhờ đó mà được tái sinh vào lạc cảnh. Như trường hợp bà Thanh Đề, mẹ của Tôn giả Mục Kiền Liên, hay Hoàng hậu Hy Thị vợ vua Lương Võ Đế. Bà Thanh Đề lúc còn sống xan tham, bỏn xẻn, không kính tin Tam bảo, tạo nhiều nghiệp ác bất thiện, nên sau khi chết bị đọa làm ngạ quỷ phải chịu đau khổ, đói khát. Tôn giả Mục Kiền Liên đã tổ chức trai đàn, thỉnh Phậtmười phương Tăng siêu độ cho bà. Nhờ công đức phước báu cúng dường Tam bảo của tôn giả Mục Kiền Liên và sự phát tâm hoan hỷ của bà trước việc làm của Tôn giả mà bà thoát khỏi tội báo mang thân ngạ quỷ.

Bà Hy Thị lúc sinh tiền cũng tạo nhiều ác nghiệp nên sau khi chết sinh làm rắn. Nhờ vua Lương Võ Đế thỉnh Hòa thượng Chí Côngchư Tăng mở đàn tràng Lương Hoàng Sám giúp bà sám hối tội lỗi mà bà thoát khỏi kiếp rắn.

 Thời Phật còn tại thế, có lần Ngài gặp một tội nhân bị chặt hết tay chân đem đến dâng cúng Ngài một cành hoa sen, Phật bảo với các Tỳ-kheo rằng: “Nhờ phước đức này, suốt trong chín mươi mốt kiếp sắp tới người cụt tay chân kia không những khỏi bị đoạ vào ba đường dữđịa ngục, ngạ quỷsúc sinh mà còn được sinh lên các cõi trời cho đến khi hưởng hết phước ấy mới trở lại làm người”.

Trong kinh Kutadanta thuộc Trường Bộ kinh số 5, Đức Phật có dạy rằng, thường xuyên cúng dường các sa môn, xây tịnh xá, quy kính Tam bảothọ trì ngũ giới cùng thực hành các pháp môn tu tập là những cách tế lễ, cầu nguyện thực sự đem lại nhiều lợi ích nhất.

 Mỗi người khi còn sinh tiền nên tạo cho mình những nghiệp nhân thiện, vì đó là hành trang duy nhất chúng ta có thể mang theo sau khi chết, nó quyết định đời sống kế tiếp của chúng ta. Đây là điều cần quan tâm nhất. Còn vấn đề cầu siêu sau khi chết chỉ là trợ duyên, chỉ có lợi ích khi hương linh người quá cố nghe tiếng kệ lời kinh mà giác ngộ tỉnh thức, sinh tâm hoan hỷ thành kính hướng về Tam bảo, tín thọ giáo phápchuyển hoá tự tâm.

Vai trò của hương linh là chính yếu, kế đó là sự thanh tịnh của trai đàn, uy đức đạo hạnh của chư Tăng và sự thành kính, thiết tha của thân nhân người quá cố cùng với những phước báu mà họ tạo được và hồi hướng cho hương linh.

Tuy hương linh đóng vai trò quyết định, vì hương linh có thay đổi tâm niệm, buông bỏ những ý niệm mê lầm, xả bỏ phiền não, tham đắm, chấp trước, tự chuyển nghiệp của mình thì mới siêu thoát được, nhưng nếu không có sự giúp đỡ, trợ duyên của chư Tăng và người thân bằng cách khai thị, cảnh tỉnh, hướng dẫn hương linh hướng tâm về Tam bảo, làm các việc lành để hồi hướng công đức phước báu cho thì hương linh cũng khó mong siêu thoát, do đó người thân cần phải hỗ trợ cho hương linh để hương linh thoát khổ và được phần lợi lạc

Cầu an-cầu siêu là hoạt động văn hóa tinh thần, hoạt động của đời sống tâm linh, từ lâu đã trở thành nhu cầu thiết thực đối với những ai quan tâm đến những giá trị tinh thần. Trong cuộc sống ai cũng muốn được an ổn, hạnh phúc, có sức khỏe, sống lâu trường thọ, đời sống gặp nhiều thuận duyên, ít rủi ro bất trắc…

Ai cũng muốn những người thân của mình sau khi qua đời sẽ được tái sinh vào các cảnh giới an vui, được về cõi Phật hoặc cõi Trời, hay ít ra cũng được trở lại làm người, không rơi vào các khổ cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đó là nhu cầu chính đáng. Cầu an cho bản thân, gia đình, xã hội, quốc gia, nhân loạinghĩa cử đẹp đáng khích lệ, tán dương, là việc làm thấm đẫm tình người, giàu lòng từ bi.

Cầu siêu cho những người thân của mình đồng thời cũng cầu cho tất cả những vong linh chưa siêu thoátviệc làm thể hiện ân tình nghĩa cảm của người còn sống đối với những người đã khuất, thể hiện mối liên hệ giữa người với người dù sống trong hai thế giới hoàn toàn khác biệt.

Việc cầu siêu với mong muốn giúp cho những vong linh chưa siêu thoát được siêu thoát, đang ở trong cảnh khổ được thoát khổ cũng là biểu hiện của lòng từ bi, việc làm ấy cần được quan tâm phát triển.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11719)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11241)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11956)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10277)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29278)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11970)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11972)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10973)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19647)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7362)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11396)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35358)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12885)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17374)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11497)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22136)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11857)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15951)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12141)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14134)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12630)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13234)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13686)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20030)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14431)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13572)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12373)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11912)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13427)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13747)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32014)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13232)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13090)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13452)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18067)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14946)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15762)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14900)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15879)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20828)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21346)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35191)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27563)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43990)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37933)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15160)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15083)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13014)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12672)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15643)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27782)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14996)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11430)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53227)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16554)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13208)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20725)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12658)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15639)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15546)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14823)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15636)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13074)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11797)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12329)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12600)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13508)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12505)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25017)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 12014)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12788)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11633)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13784)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14136)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12937)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12771)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13035)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13947)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13025)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13640)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12487)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14476)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13329)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13809)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14659)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11906)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12744)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28319)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11822)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12678)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15108)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12038)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11798)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12903)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12014)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11545)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10314)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant