Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Lời cuối sách

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 9644)
V. Lời cuối sách

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

V. Lời cuối sách

Năm 2010 tôi và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch chung quyển sách tiếng Anh nhan đề là: “Peaceful Death and Joyful Rebirth” (Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ) của Đại Sư Tulku Thondrop người Tây Tạng, hiện Ngài đang ở Hoa Kỳ. Sách dày trên 500 trang và được ấn tống 5.000 cuốn vào năm 2011 nầy. Đây là một tập sách giới thiệu qua cách tu của phái Nijma (Cổ Mật) của Phật Giáo Tây Tạng về Tông Tịnh Độđặc biệt nói về trung ấm thân (Bardo) cũng như việc chuyển di tâm thức (Phowa).

Đến năm nay (2011) tôi dịch tác phẩm thứ 59 nầy từ tiếng Đức sang tiếng Việt, có tham cứu thêm những bản văn gốc bằng tiếng Nhật để đối chiếu khi dịch. Ban đầu tôi định dịch những tác phẩm nghiên cứu về Tịnh Độ bằng tiếng Đức của người Âu Mỹ; nhưng sau khi đọc lướt qua hai, ba tác phẩm của Schumann, tôi thấy phần Tịnh Độ ít được đề cập đến, mà chữ Pali và Sanskrit thì quá nhiều; nên tôi đã không dịch. Vì lẽ hai ngôn ngữ nầy không phải là chuyên môn của mình. Sau đó Thầy Hạnh Giả, đệ tử xuất gia của tôi, đang dạy môn Phật Học tại Đại học Hannover (Đức) cho các sinh viên người Đức, trao cho tôi quyển “Quellen Texts des Japanischen Amida Buddhismus” của Christian Steinecke để dịch ra tiếng Việt. Đầu tiên tôi đọc nhan đề quyển sách và lần vào mục lục cũng như những trang chú thích sau cùng, cảm thấy rất hợp ý với mình. Vì từ ngữ đa phần được tác giả chuyển dịch từ tiếng Nhật qua Đức ngữ. Bây giờ tôi chuyển sang Việt ngữ từ Đức ngữ, có lẽ tương đối dễ dàng cho tôi hơn. Vì một phần những bài kinh và những bản văn của các vị Tổ sư Tịnh Độ đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác rồi. Do vậy tôi an tâm để bắt đầu đọc qua một lượt từ ngày 22 tháng 2 năm 2011 để chuẩn bị cho việc dịch thuật nầy.

Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2011 chúng tôi đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ và tác phẩm nầy cũng đã được dịch cũng như giảng tại đó. Tuy đầu đề là: “Những bản văn chính yếu của Phật Giáo Tịnh Độ (A Di Đà) Nhật Bản”; nhưng tôi đã trích phần “Thán Dị Sao” của Ngài Duy Viên, đệ tử của Ngài Thân Loan để giảng giải trước. Vì tư tưởng của Ngài Thân Loan về Tịnh Độ đã được đệ tử của mình ghi chép và trình bày lại vào thế kỷ thứ 13 rất rõ ràng.

Đến ngày 5 tháng 9 năm 2011 thì tác phẩm bằng tiếng Đức nầy dày 222 trang khổ A4 đã được dịch xong tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc, thành 400 trang viết tay cũng khổ A4. Sau khi in thành sách khổ A5, chắc sách nầy cũng không dưới 300 trang. Một dịch phẩm nói về Tịnh Độ bằng tiếng Đức, lại do người Đức dịch và bình chú, quả là điều mới lạ đối với bản thân tôi và có lẽ đối với các độc giả cũng vậy.

Tôi ở liên tục tại Đức từ năm 1977 đến năm 2011 nầy là 34 năm; nhưng tiếng Đức không là một ngôn ngữ dễ đối với người ngoại quốc. Ngôn ngữ nầy chỉ dễ hơn tiếng Nga; nhưng khó gấp 3 lần tiếng Anh và khó gấp 2 lần tiếng Pháp. Chỉ trừ những người sinh ra tại Đức và tốt nghiệp từ Tiểu Học đến Trung Học và Đại Học thì mới có khả năng nói, viết, đọc và nghe tiếng Đức ít lầm lỗi. Còn đa phần người ngoại quốc ở tại Đức chẳng ai dám khoe mình là rành tiếng Đức như người Đức. Trong khi đó ở Pháp, Canada, Hoa Kỳ hay Úc châu nhiều người Việt Nam có thể tự hãnh diện về khả năng nói tiếng Pháp hay tiếng Anh của mình, nhưng ở Đức thì ngược lại.

Tôi cũng không ra khỏi thông lệ đó. Hơn 34 năm ở Đức; nhưng khả năng tiếng Đức của tôi không bằng tiếng Nhật, mặc dầu tôi ở Nhật không nhiều, chỉ hơn 5 năm thôi. Tôi chẳng biết tại sao; có lẽ vì lớn tuổi học khó vô; nhưng lý do chính, tiếng Đức vẫn là ngôn ngữ khó hơn cả tiếng Nhật và tiếng Hoa nữa. Do vậy dịch phẩm nầy tôi cũng rất thận trọng. Sau khi dịch xong, đã đọc đi đọc lại hai lần và nhờ Thầy Phổ Huân cũng như Sư cô Giác Anh và một vài Phật tử tại Pháp Bảo (Úc) đánh máy, tôi xem lại một lần nữa trước khi gởi về Đức cho quý Thầy đệ tử của tôi đối chiếu qua câu văn tiếng Đức, để tránh sự lầm lẫn đáng tiếc có thể do cách dịch gây ra. Thận trọng như vậy; nhưng chắc chắn rằng sau khi in thành sách vẫn còn lỗi. Điều ấy xin các vị cao minh chỉ vẽ cho. Dịch giả xin đa tạ.

Từ năm 2003 đến năm 2011 là 9 năm, tôi đã có mặt tại Đa Bảo, Úc Đại Lợi để tịnh tu và dịch kinh, viết sách. Trong 8 năm đầu, tôi đã ở Đa Bảo tại vùng Campelltown cách Sydney độ 40 cây số. Hai năm đầu tôi dịch hai tác phẩm bằng chữ Hán từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt; 5 năm sau dịch 5 tác phẩm bằng chữ Nhật và năm thứ 8 dịch tác phẩm bằng tiếng Anh. Đến năm thứ 9 nầy tôi đã thay đổi địa điểm, vì Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Phương Trượng chùa Pháp Bảo cùng Tăng Ni và quý Phật Tử đã di dời Đa Bảo về vùng núi đồi Blue Mountains nầy cách xa Pháp Bảo độ 2 tiếng đồng hồ đi bằng xe hơi. Nơi đây thật yên tỉnh và cảnh quan quá đẹp mắt để tôi có thể hoàn thành dịch phẩm nầy. Đến năm thứ 10 (2012) và cũng là lần thứ 2 tại Đa Bảo mới nầy, tôi sẽ cố gắng hoàn thành một dịch phẩm bằng Hán Văn ra Việt ngữ, cũng như viết chung một tác phẩm bằng tiếng Việt với Hòa Thượng Thích Bảo Lạc để trọn vẹn 10 năm đến Úc tịnh tu như đã phát nguyện.

Tịnh Độ vốn là pháp môn tu căn bản của tôi ngoài tu thiền; nên tôi đã chú tâm về cách tu nầy theo các bậc Tổ Sư đã khai sáng. Từ Ngài Long Thọ, Thế Thân (Ấn Độ) đến Ngài Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo (Trung Hoa) và Pháp Nhiên, Thân Loan (Nhật Bản); hoặc các Ngài Đàm Hoằng, Thiền Tâm (Việt Nam), Ngài Thánh Nghiêm (Đài Loan) v.v… Tất cả cũng đều quy về ba kinh Tịnh Độ và 4 cảnh giới Tịnh Độ như:

Thường Tịch Quang Tịnh Độ

Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ

Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ

Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ

Riêng Ngài Thánh Nghiêm, Người Đài Loan ở vào cuối thế kỷ thứ 20; đầu thế kỷ thứ 21 Ngài cũng chủ trương có 4 cảnh giới Tịnh Độ. Đó là:

Nhơn gian Tịnh Độ

Thiên quốc Tịnh Độ

Phật quốc Tịnh Độ

Tự tâm Tịnh Độ

Tịnh Độ mà Ngài Thánh Nghiêm trải qua, dưới cái nhìn của một Thiền Sư thuộc Lâm TếTào Động, nó cũng gần giống với tư tưởng của Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư (Trung Hoa) vào đời nhà Đường về tư tưởng của Thiền Tịnh song tu.

Tôi đã bắt gặp và kinh qua tư tưởng Tịnh Độ của Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Tây Tạng, Âu Mỹ; nên tôi vững tin rằng: giáo lý ấy do Đức Thích Ca Mâu Ni nói ra là giáo lý chân thật và các vị Tổ, chính là những người đã khai sáng và hiển thị rõ ràng giáo nghĩa của Tịnh Độ. Đây là một món ăn tinh thần quá tuyệt diệu, tại sao trong đời mạt pháp nầy vẫn có người còn nghi ngờ và còn phải mất công đi kiếm những pháp môn khác để tu? Do vậy sau khi dịch phẩm nầy xong, tôi sẽ hoàn thành quyển “Tư tưởng Tịnh Độ Tông” để đi sâu vào giáo nghĩa nầy, nhằm xiển dương Tông Tịnh Độ cho những ai muốn thực hành đến, nhất là những người Phật tử Việt Nam đang tu theo pháp môn nầy.

Quả thật chữ nghĩagiới hạn; nhưng niềm tin thì vô cùng. Do vậy với niềm tin ấy, ai ai cũng có thể vãng sanh về Tịnh Độ, nếu chúng ta quyết tâm hạ thủ công phu qua câu Phật hiệu:

Nam Mô A Di Đà Phật bằng tiếng Việt

Nam Mo Amida Butsu bằng tiếng Nhật

Nam Mo A Mi Ta Fo bằng tiếng Hoa

Namo Amidha Buddha bằng tiếng Phạn

dĩ nhiên tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha v.v…vẫn dùng nguyên âm của tiếng Phạn để trì tụng danh hiệu vị Phật Vô Lượng Quang nầy.

Xin niệm ân tất cả những thiện hữu tri thức gần xa; những người Phật tử đã nhiệt tâm đóng góp để ấn tống sách nầy, nhằm loan truyền giáo pháp của Đức Phật, vốn đã có tự ngàn xưa và đây là một công đức không nhỏ. Nếu không có người đọc sách, người phát tâm cúng dường in ấn kinh sách thì bản cảo nầy vẫn còn nằm yên nơi bàn viết. Công đức nầy dịch giả xin hồi hướng đến tất cả pháp giới chúng sanh và xin nguyện cầu tất cả đều trọn thành Phật Đạo.

Ngoài ra dịch giả cũng xin niệm ơn Phật Tử Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp, là một đệ tử thuần thành và đã đi du học ở Đức từ năm 1969. Hơn 40 năm học và tốt nghiệp tại đây, xem lại cũng như đối chiếu giữa câu văn tiếng Đức và tiếng Việt để được chính xác và rõ nét hơn. Đồng thời Đạo Hữu Nguyên Trí Nguyễn Hòa (Phù Vân), chủ bút báo Viên Giác cũng đã hiệu đính lại bảng tiếng Việt lần cuối để cho tác phẩm nầy được hoàn chỉnh hơn.

Viết xong lời cuối sách nầy vào ngày 31 tháng 10 năm 2011 tại Tu viện Đa Bảo vùng Blue Mountains nhân lần tịnh tu thứ 9 tại Úc Đại Lợi.

Dịch giả Thích Như Điển

Kính ghi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13394)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11703)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11197)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11927)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10241)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29234)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11952)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11932)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10947)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19613)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7329)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11356)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35289)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12859)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12203)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17334)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11469)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22098)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11818)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15912)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12120)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14095)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12603)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13216)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13649)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19984)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14408)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13532)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12340)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11898)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34720)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13402)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13723)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31962)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13204)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13066)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13422)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13304)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18044)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14923)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15723)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14865)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15844)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20768)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21293)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35114)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27517)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43915)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37881)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15135)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15057)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12964)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12637)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15603)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27691)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14957)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11403)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53169)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16513)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13159)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12606)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15578)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15490)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14753)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15600)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13027)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11757)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12287)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12567)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13474)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12462)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24967)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11962)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12726)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11610)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13729)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14095)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12898)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12721)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13004)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13906)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12984)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13604)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12440)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14429)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13285)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13751)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14623)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11853)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12723)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28280)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11780)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12640)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15054)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11995)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11758)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12850)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11968)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11516)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant