Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

V. Lời cuối sách

20 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 9630)
V. Lời cuối sách

Những bản văn căn bản của
PHẬT GIÁO TỊNH ĐỘ (A Di Đà) NHẬT BẢN

Nguyên tác Đức Ngữ: Christian Steineck

HT Thích Như Điển: dịch từ bản tiếng Đức ra tiếng Việt
so sánh với tiếng Nhật

V. Lời cuối sách

Năm 2010 tôi và Thượng Tọa Thích Nguyên Tạng dịch chung quyển sách tiếng Anh nhan đề là: “Peaceful Death and Joyful Rebirth” (Chết An Lạc, Tái Sanh Hoan Hỷ) của Đại Sư Tulku Thondrop người Tây Tạng, hiện Ngài đang ở Hoa Kỳ. Sách dày trên 500 trang và được ấn tống 5.000 cuốn vào năm 2011 nầy. Đây là một tập sách giới thiệu qua cách tu của phái Nijma (Cổ Mật) của Phật Giáo Tây Tạng về Tông Tịnh Độđặc biệt nói về trung ấm thân (Bardo) cũng như việc chuyển di tâm thức (Phowa).

Đến năm nay (2011) tôi dịch tác phẩm thứ 59 nầy từ tiếng Đức sang tiếng Việt, có tham cứu thêm những bản văn gốc bằng tiếng Nhật để đối chiếu khi dịch. Ban đầu tôi định dịch những tác phẩm nghiên cứu về Tịnh Độ bằng tiếng Đức của người Âu Mỹ; nhưng sau khi đọc lướt qua hai, ba tác phẩm của Schumann, tôi thấy phần Tịnh Độ ít được đề cập đến, mà chữ Pali và Sanskrit thì quá nhiều; nên tôi đã không dịch. Vì lẽ hai ngôn ngữ nầy không phải là chuyên môn của mình. Sau đó Thầy Hạnh Giả, đệ tử xuất gia của tôi, đang dạy môn Phật Học tại Đại học Hannover (Đức) cho các sinh viên người Đức, trao cho tôi quyển “Quellen Texts des Japanischen Amida Buddhismus” của Christian Steinecke để dịch ra tiếng Việt. Đầu tiên tôi đọc nhan đề quyển sách và lần vào mục lục cũng như những trang chú thích sau cùng, cảm thấy rất hợp ý với mình. Vì từ ngữ đa phần được tác giả chuyển dịch từ tiếng Nhật qua Đức ngữ. Bây giờ tôi chuyển sang Việt ngữ từ Đức ngữ, có lẽ tương đối dễ dàng cho tôi hơn. Vì một phần những bài kinh và những bản văn của các vị Tổ sư Tịnh Độ đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ khác rồi. Do vậy tôi an tâm để bắt đầu đọc qua một lượt từ ngày 22 tháng 2 năm 2011 để chuẩn bị cho việc dịch thuật nầy.

Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2011 chúng tôi đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ và tác phẩm nầy cũng đã được dịch cũng như giảng tại đó. Tuy đầu đề là: “Những bản văn chính yếu của Phật Giáo Tịnh Độ (A Di Đà) Nhật Bản”; nhưng tôi đã trích phần “Thán Dị Sao” của Ngài Duy Viên, đệ tử của Ngài Thân Loan để giảng giải trước. Vì tư tưởng của Ngài Thân Loan về Tịnh Độ đã được đệ tử của mình ghi chép và trình bày lại vào thế kỷ thứ 13 rất rõ ràng.

Đến ngày 5 tháng 9 năm 2011 thì tác phẩm bằng tiếng Đức nầy dày 222 trang khổ A4 đã được dịch xong tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc, thành 400 trang viết tay cũng khổ A4. Sau khi in thành sách khổ A5, chắc sách nầy cũng không dưới 300 trang. Một dịch phẩm nói về Tịnh Độ bằng tiếng Đức, lại do người Đức dịch và bình chú, quả là điều mới lạ đối với bản thân tôi và có lẽ đối với các độc giả cũng vậy.

Tôi ở liên tục tại Đức từ năm 1977 đến năm 2011 nầy là 34 năm; nhưng tiếng Đức không là một ngôn ngữ dễ đối với người ngoại quốc. Ngôn ngữ nầy chỉ dễ hơn tiếng Nga; nhưng khó gấp 3 lần tiếng Anh và khó gấp 2 lần tiếng Pháp. Chỉ trừ những người sinh ra tại Đức và tốt nghiệp từ Tiểu Học đến Trung Học và Đại Học thì mới có khả năng nói, viết, đọc và nghe tiếng Đức ít lầm lỗi. Còn đa phần người ngoại quốc ở tại Đức chẳng ai dám khoe mình là rành tiếng Đức như người Đức. Trong khi đó ở Pháp, Canada, Hoa Kỳ hay Úc châu nhiều người Việt Nam có thể tự hãnh diện về khả năng nói tiếng Pháp hay tiếng Anh của mình, nhưng ở Đức thì ngược lại.

Tôi cũng không ra khỏi thông lệ đó. Hơn 34 năm ở Đức; nhưng khả năng tiếng Đức của tôi không bằng tiếng Nhật, mặc dầu tôi ở Nhật không nhiều, chỉ hơn 5 năm thôi. Tôi chẳng biết tại sao; có lẽ vì lớn tuổi học khó vô; nhưng lý do chính, tiếng Đức vẫn là ngôn ngữ khó hơn cả tiếng Nhật và tiếng Hoa nữa. Do vậy dịch phẩm nầy tôi cũng rất thận trọng. Sau khi dịch xong, đã đọc đi đọc lại hai lần và nhờ Thầy Phổ Huân cũng như Sư cô Giác Anh và một vài Phật tử tại Pháp Bảo (Úc) đánh máy, tôi xem lại một lần nữa trước khi gởi về Đức cho quý Thầy đệ tử của tôi đối chiếu qua câu văn tiếng Đức, để tránh sự lầm lẫn đáng tiếc có thể do cách dịch gây ra. Thận trọng như vậy; nhưng chắc chắn rằng sau khi in thành sách vẫn còn lỗi. Điều ấy xin các vị cao minh chỉ vẽ cho. Dịch giả xin đa tạ.

Từ năm 2003 đến năm 2011 là 9 năm, tôi đã có mặt tại Đa Bảo, Úc Đại Lợi để tịnh tu và dịch kinh, viết sách. Trong 8 năm đầu, tôi đã ở Đa Bảo tại vùng Campelltown cách Sydney độ 40 cây số. Hai năm đầu tôi dịch hai tác phẩm bằng chữ Hán từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt; 5 năm sau dịch 5 tác phẩm bằng chữ Nhật và năm thứ 8 dịch tác phẩm bằng tiếng Anh. Đến năm thứ 9 nầy tôi đã thay đổi địa điểm, vì Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, Phương Trượng chùa Pháp Bảo cùng Tăng Ni và quý Phật Tử đã di dời Đa Bảo về vùng núi đồi Blue Mountains nầy cách xa Pháp Bảo độ 2 tiếng đồng hồ đi bằng xe hơi. Nơi đây thật yên tỉnh và cảnh quan quá đẹp mắt để tôi có thể hoàn thành dịch phẩm nầy. Đến năm thứ 10 (2012) và cũng là lần thứ 2 tại Đa Bảo mới nầy, tôi sẽ cố gắng hoàn thành một dịch phẩm bằng Hán Văn ra Việt ngữ, cũng như viết chung một tác phẩm bằng tiếng Việt với Hòa Thượng Thích Bảo Lạc để trọn vẹn 10 năm đến Úc tịnh tu như đã phát nguyện.

Tịnh Độ vốn là pháp môn tu căn bản của tôi ngoài tu thiền; nên tôi đã chú tâm về cách tu nầy theo các bậc Tổ Sư đã khai sáng. Từ Ngài Long Thọ, Thế Thân (Ấn Độ) đến Ngài Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo (Trung Hoa) và Pháp Nhiên, Thân Loan (Nhật Bản); hoặc các Ngài Đàm Hoằng, Thiền Tâm (Việt Nam), Ngài Thánh Nghiêm (Đài Loan) v.v… Tất cả cũng đều quy về ba kinh Tịnh Độ và 4 cảnh giới Tịnh Độ như:

Thường Tịch Quang Tịnh Độ

Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ

Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ

Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ

Riêng Ngài Thánh Nghiêm, Người Đài Loan ở vào cuối thế kỷ thứ 20; đầu thế kỷ thứ 21 Ngài cũng chủ trương có 4 cảnh giới Tịnh Độ. Đó là:

Nhơn gian Tịnh Độ

Thiên quốc Tịnh Độ

Phật quốc Tịnh Độ

Tự tâm Tịnh Độ

Tịnh Độ mà Ngài Thánh Nghiêm trải qua, dưới cái nhìn của một Thiền Sư thuộc Lâm TếTào Động, nó cũng gần giống với tư tưởng của Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư (Trung Hoa) vào đời nhà Đường về tư tưởng của Thiền Tịnh song tu.

Tôi đã bắt gặp và kinh qua tư tưởng Tịnh Độ của Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Tây Tạng, Âu Mỹ; nên tôi vững tin rằng: giáo lý ấy do Đức Thích Ca Mâu Ni nói ra là giáo lý chân thật và các vị Tổ, chính là những người đã khai sáng và hiển thị rõ ràng giáo nghĩa của Tịnh Độ. Đây là một món ăn tinh thần quá tuyệt diệu, tại sao trong đời mạt pháp nầy vẫn có người còn nghi ngờ và còn phải mất công đi kiếm những pháp môn khác để tu? Do vậy sau khi dịch phẩm nầy xong, tôi sẽ hoàn thành quyển “Tư tưởng Tịnh Độ Tông” để đi sâu vào giáo nghĩa nầy, nhằm xiển dương Tông Tịnh Độ cho những ai muốn thực hành đến, nhất là những người Phật tử Việt Nam đang tu theo pháp môn nầy.

Quả thật chữ nghĩagiới hạn; nhưng niềm tin thì vô cùng. Do vậy với niềm tin ấy, ai ai cũng có thể vãng sanh về Tịnh Độ, nếu chúng ta quyết tâm hạ thủ công phu qua câu Phật hiệu:

Nam Mô A Di Đà Phật bằng tiếng Việt

Nam Mo Amida Butsu bằng tiếng Nhật

Nam Mo A Mi Ta Fo bằng tiếng Hoa

Namo Amidha Buddha bằng tiếng Phạn

dĩ nhiên tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha v.v…vẫn dùng nguyên âm của tiếng Phạn để trì tụng danh hiệu vị Phật Vô Lượng Quang nầy.

Xin niệm ân tất cả những thiện hữu tri thức gần xa; những người Phật tử đã nhiệt tâm đóng góp để ấn tống sách nầy, nhằm loan truyền giáo pháp của Đức Phật, vốn đã có tự ngàn xưa và đây là một công đức không nhỏ. Nếu không có người đọc sách, người phát tâm cúng dường in ấn kinh sách thì bản cảo nầy vẫn còn nằm yên nơi bàn viết. Công đức nầy dịch giả xin hồi hướng đến tất cả pháp giới chúng sanh và xin nguyện cầu tất cả đều trọn thành Phật Đạo.

Ngoài ra dịch giả cũng xin niệm ơn Phật Tử Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp, là một đệ tử thuần thành và đã đi du học ở Đức từ năm 1969. Hơn 40 năm học và tốt nghiệp tại đây, xem lại cũng như đối chiếu giữa câu văn tiếng Đức và tiếng Việt để được chính xác và rõ nét hơn. Đồng thời Đạo Hữu Nguyên Trí Nguyễn Hòa (Phù Vân), chủ bút báo Viên Giác cũng đã hiệu đính lại bảng tiếng Việt lần cuối để cho tác phẩm nầy được hoàn chỉnh hơn.

Viết xong lời cuối sách nầy vào ngày 31 tháng 10 năm 2011 tại Tu viện Đa Bảo vùng Blue Mountains nhân lần tịnh tu thứ 9 tại Úc Đại Lợi.

Dịch giả Thích Như Điển

Kính ghi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14423)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14138)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39691)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15302)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13870)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13914)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37310)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40039)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14629)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14306)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12645)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14817)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19203)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13787)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42600)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13819)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37221)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12658)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11744)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22528)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12503)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12565)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13034)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13101)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17252)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33205)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14824)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11044)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12447)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11948)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11929)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13124)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51242)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12375)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6605)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30397)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13307)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30663)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19337)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12471)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11838)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14754)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13185)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13184)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30659)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12018)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11819)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12711)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31880)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29399)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11777)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11732)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10408)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11544)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9633)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9642)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9964)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35386)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10136)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10090)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10036)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9639)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27788)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15469)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9829)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13658)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9827)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9686)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18304)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12039)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9561)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9678)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8697)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8904)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8405)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11469)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31715)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12327)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13311)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8817)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9430)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11929)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9214)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9067)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9653)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29335)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9062)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9084)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33215)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8418)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30581)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31203)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37094)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32235)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9909)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27074)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8437)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19219)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 12998)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant