Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Công án Trần Nhân Tông nhân chuyến đi Yên Tử

20 Tháng Chín 201200:00(Xem: 20158)
08. Công án Trần Nhân Tông nhân chuyến đi Yên Tử

Đã lâu, mỗi khi về Việt Nam, tôi thường ngỏ ý với bạn bè muốn đi thăm chùa Đồng và leo núi Yên Tử, nơi cội nguồn của dòng Thiền Trúc Lâm Việt Nam.

 Cứ mỗi lần như thế, bạn bè ở Huế cũng như người quen ở Hà Nội đều gạt phăng bảo rằng khó lắm, đường đi hiểm trở và phải có thì giờ, phải mất hai ngày trời mới leo lên tới chùa Đồng nằm trên đỉnh núi Yên Tử, không đi được đâu.
 Và tôi, kẻ ở xa, khi thấy nét hốt hoảng của mọi người về nỗi ngăn sông cách núi như thế, cũng đâm ra ngần ngại, lo cho thân mình, và ngoan ngoãn bỏ ý định leo núi Yên Tử.
 
 Mùa đông vừa rồi, nhân về Hà Nội do lời mời của Viện Goethe ở Hà Nội, tôi tự nhủ lần này phải leo lên được núi Yên Tử mới cam lòng và

thaikimlan
Tiến Sĩ Thái Kim Lan

GS.TS Thái Kim Lan là một người con của xứ Huế, sang Đức từ 1965, dạy triết học tại Đại học tổng hợp Ludwig - Maximilian, thành phố Munich, Cộng hòa Liên bang Đức.

Bà là chủ tịch Trung tâm Giao lưu Đức - châu Á và là phó chủ tịch Hội Thân hữu Phật tử châu Âu.

nhất định không nghe ai can ngăn việc đường đi hiểm trở mà nản chí. Tính thì giờ, tôi chỉ có một ngày để leo núi. Cũng được thôi, ta tính chuyện đi, trong một ngày?
 Suốt cả đêm vừa thấp thỏm chờ sáng lên đường, vừa thú vị vì cuộc đi sắp được thực hiện, trong đầu tôi âm vang câu châm ngôn đắc chí đã học từ hồi lớp năm trong sách Quốc văn Giáo Khoa Thư “đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”, một câu thường dùng như một loại cẩm nang thuộc lòng, dù đúng cho muôn đời và đúng trong trường hợp của chuyến đi Yên Tử này, nhưng hôm nay nghe bóng bẩy trơn tru như một sáo ngữ nhàm, chán tai quá, tôi lắc đầu, xua đuổi âm vang của câu ấy ra khỏi trí óc. Chỉ biết ngày mai sẽ lên đường đi Yên Tử… một ước ao đã nuôi dưỡng từ mấy năm sắp thành sự thật, một ước ao thật ra rất tầm thường, rất nhỏ bé, không phải loại dời núi lấp sông, nhưng một ước ao dù cho nhỏ bé, cũng có quyền đòi thành sự thật…
 
 Không ngủ được, tôi mở cuốn sách “Trần Nhân Tôn” mới nhận được của Thầy Lê Mạnh Thát tặng và bắt gặp một cách nói khác, cũng cùng một chân lý nhưng mộc mạc hơn, Việt Nam hơn và lạ lùng hơn: “Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông”… “Miễn cứ một lòng, thì rồi mọi hoặc”. Cách đặt câu hình như còn gai góc, khó khăn, cái câu được viết lần đầu tiên bằng tiếng Nôm trong lịch sử văn học của nước ta trong bài phú “Cư Trần Lạc Đạo” của một vị vua quyết tâm dùng tiếng Việt làm chủ ngữ trong Văn học của đất nước Việt Nam.
 Đọc lên nghe vấp váp, từ cú còn thô thiển nhưng hình như ở nơi mỗi vấp ngã lại làm cho ta dừng lại để thâm nhập vào trong chiều sâu của chữ nghĩa và “Lắng lòng mình” để chiêm nghiệm “lòng người”.
 
 Một ông vua nước Nam, cách đây đã 800 trăm năm đặt chữ Tâm, chữ Lòng lên hàng đầu trong mỗi công cuộc xây thành dựng nước, bảo vệ bờ cõi, thao luyện nhân cách làm người Việt Nam, một ông vua có đủ quyền lực trong tay nhưng sẵn sàng rũ bỏ hết quyền uy, giàu sang tột đỉnh để làm một vị sư “nệm cỏ giường Thiền”, “giữ giới sạch”, “giữ lòng trong”.
 Giấc ngủ chập chờn đến với những ý tưởnghình ảnh loanh quanh quay tròn theo chữ TÂM, mà thời đại Trần Nhân Tôn đã gọi rất nôm na, rất tiếng Việt “Lòng ta” như một “cách sống, cách nghĩ” của một thời, khi Việt Nam bước vào giai đoạn phát huy tự chủ tự cường sau khi đã dựng nước và giữ nước…

 
 “Có phải Sông Nhị ngày mai mờ khói nước
 Rượu đào tươi mát rửa lòng trong”
 (Trần Nhân Tôn, Hoạ thơ Kiều Nguyên Lãng)
 

 Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc
 
 Xe đi từ Hà Nội lúc 4 giờ sáng, băng qua sông Nhị, còn mờ hơi sương, đến chân núi lúc 8 giờ, ăn sáng nơi một quán gió có nồi bún riêu bốc hơi ngào ngạt, bún riêu và bánh cuốn nóng, trong một sớm mai mùa đông se lạnh ở một làng quê miền Bắc cách Hà thành 100 cây số, có một chút chi đầy cá tính Việt NamViệt Nam hơn Hà Nội hay Sài Gòn ồn ào náo nhiệt – trong cung cách của cô bán bánh cuốn, đôi tay thoăn thoắt cuốn bánh, không nhìn khách là ai, thỉnh thoảng ngước đôi mắt đảo nhanh một cái, đôi má hồng vì hơi nước của nồi hấp bánh toả ra, nhưng cô biết ai là người ăn bún ai là người ăn bánh, còn chi thú vị hơn?
 
 Phong cảnh buổi sáng nơi miền quan tái hoang sơ như trong một bức tranh cổ. Tôi cúi mặt nhìn đĩa bánh cuốn, những chiếc bánh trắng tinh láng mượt mà, cho ta biết là bột vừa dẻo, óng ánh màu nước mắm ửng hồng, “bánh cuốn như hồng ngọc” là đây! Dung dị, nhưng đầy ý vị, đơn sơ nhưng đậm đà hương vị lúa gạo Việt Nam, cho nên quí giá như Hồng Ngọc.
 Viên ngọc của Việt Nam tôi đó! người sứ giả phương Bắc kia!
 Trong một thoáng tôi như thấy lại quang cảnh lịch sử của ngày xưa. Cũng nơi miền quan tái này, cách đây không xa mấy nơi chốn biên cương, rộn ràng ngựa xe tiễn sứ giả Bắc triều, bụi tung mờ đàng trước, nơi một doanh trại nào đó, tiệc tiễn đưa sứ giả diễn ra, với “Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc” và một lời nhắn nhủ ý nhị “Phong tục từ xưa của nước Nam” của vua Trần Nhân Tôn. Lấy một món dân dã ra mà đãi quốc khách, bản lĩnh tự chủ của vị Vua này thực vững chãi có một không hai!

 
 “Xong mùa giá chi thử áo xuân,
 Hôm nay luống gặp tiết cỏ xanh
 Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc
 Phong tục từ xưa của nước Nam”
 (Trần Nhân Tôn, bài thơ tiễn sứ giả Tàu Trương Lập Đạo, bản dịch Lê Mạnh Thát)

 
 Tự chủ với một nền văn hoá Việt Nam, mà món ăn là một nét khởi đầu của cái Đạo làm người Việt Nam “Nhu dã ẩm thực chi đạo dã!” (Kinh Dịch). Sau khi đã ổn định trời đất (chiến thắng quân Nguyên giành lại độc lập cho đất nước) thì không thể khônggiáo dụcnuôi dưỡng, hai yếu tố chủ yếu của văn hoá, tạo nên bản sắc văn hoá – nếu không nói là bản sắc văn hoá dân tộc, những danh từ mà tôi bỗng e dè khi dùng tới trong cuộc hành trình này…
 Mời người trước kia là địch thủ nay là sứ giả hoà bình nếm món bánh cuốn của trời Nam, để biết ăn chơi không chỉ là cao lương mỹ vị, mà là sự tinh tế tài hoa của người biết nấu và người biết ăn, phong tục của nước Nam!
 
 Tôi đã thưởng thức món bánh cuốn dưới chân núi Yên Tử không với một niềm hoài cảm mà với một sự chiêm nghiệm thích thú đã gặp được “khẩu vị” của một đấng anh hùng nước Nam, và cũng là vị sáng lập một thế đứng tư tưởng Việt Nam ngẩng mặt đối diện với phương Bắc, mà từng bước từng bước tôi đang sắp sửa đi trên một quãng đường mà Người đã để lại.
 

 “Mình ngồi thành thị
 Nết dụng sơn lâm”

 
 Yên Tử trong mùa đông rét mướt thường vắng khách vãng lai, vả chăng Yên Tử vẫn còn là một nơi hẻo lánh khó đi, nên Yên Tử chưa bị nhiễm độc như Chùa Hương bởi những hàng quán rối rít hai bên đường.
 Đường lên núi rợp bóng cây, lau lách, tre sậy và các thứ cây miền nhiệt đới um tùm hai bên đường, đường núi dốc đá quanh co, có nơi bằng phẳng nhưng cũng lắm chỗ gập ghềnh.

 

yentu-01

Khách leo bộ lên Yên Tử vào mùa trẩy hội. (Ảnh Wiki.)

 
 Khí núi cùng với mùi hoa lá lạnh mát bay phả vào mặt làm cho người đi thấy lòng dịu hẳn, những bước đi trên con đường dốc thoạt chốc bớt nặng nề. Yên Tử có một không gian thanh thản thâm u nhưng không huyễn hoặc như Động Hương Tích.
 
 Từng bước từng bước một, tôi biết mình đang dẫm chân lên những dấu vết sơn lâm lịch sử.
 
 Yên Tử còn “lạ hơn ba mươi sáu thiền thiên”, có lẽ bởi Yên Tử không chỉ là nơi “náu ẩn” như Huyền Quang nói, mà là thánh địa của “nết dụng sơn lâm” như Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tôn đã hoạch định. Thăng Long và Yên Tử, một bên là “mình ngồi” một bên là “nết dụng”, một bên là “xác” một bên là “hồn”, Thăng Long mà không có Yên Tử thì Thăng Long rốt cùng chỉ là nơi buôn danh bán tước, một chốn thị phi tranh tài tranh sức, nhân nghĩa thực dụng để chìm đắm trong bể khổ, Thăng Long với lầu vàng điện ngọc đã bao lần dâu bể trong “cuộc mất còn” của lịch sử, Thăng Long đã bao lần đá nát vàng phai nhưng Yên Tử vẫn còn đó, vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”, bởi vì Yên Tử chẳng có chi vật chất để mà “thành trụ hoại diệt”, Yên Tử vẫn là cứ địa của một nền tư tưởng, đạo đức Việt Nam, vẫn là sơn lâm sâu thẳm của “thể tính” “an nhàn” Việt Nam như một điểm tựa vững chãi cho những gì có ý nghĩa cho hiện sinh Việt Nam, cho nên là “nết dụng sơn lâm”. Sống ở thị thành là chân lý tương đối, dụng tâm ở sơn lâm là chân lý tuyệt đối, thị thành không có sơn lâm thì sẽ mất ý nghĩađiểm tựa tinh thần.
 


 yentu-02

 Khách thập phương lên núi Yên Tử mùa lễ hội. (Ảnh Wiki.)

 


 Trần Nhân Tôn đã không lên Yên Tử để trốn đời. Trần Nhân Tôn lên Yên Tử để làm “tròn” cuộc đời của một con người Việt Nam. Cả một cơ nghiệp đời Trần, như ai cũng thừa nhận đã là giai đoạn lịch sử vàng son nhất của Việt Nam, nếu không có “nết dụng sơn lâm” của Yên Tử thì Trần Cảnh đã không thể đứng vững trên mặt đạo lý để là một vị vua cho quần thần mến phục. Có thể nói Yên Tử đã cứu Trần Cảnh ra khỏi phong ba bão táp loạn luân của Trần Thủ Độ và Yên Tử từ đó là cơ sở đạo đức thiết lập niềm tin cho một bản sắc Việt Nam:

 

 Mình ngồi thành thị
 Nết dụng sơn lâm
 Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
 Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
 Tham ái nguồn dừng chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quí
 Thị phi tiếng lặng được đầu nghe yến thốt oanh ngâm…

 
 Trên ngọn núi Yên Tử tùng trúc rào rạt trong gió, ngẩng mặt lên nhìn mảnh trời xanh lạ lùng của ngày mùa đông hôm ấy đã thành những bông hoa xanh biếc được những lá tùng nhọn như những mũi kim thêu lốm đốm. Một câu hỏi chợt đến trong đầu, sau ba tiếng đồng hồ leo núi:
 
 Trần Nhân Tôn, người là ai?
 

 Câu hỏi có vẻ lẩn thẩn, bởi lẽ từ khi cắp sách đến trường, bắt đầu học lịch sử dân tộc, ai là người Việt Nam mà chẳng biết qua hơn một lần trang sử đời Trần và trang sử Trần Nhân Tôn?
 
 Ai là người Việt Nam đã không tự hào về những chiến thắng quân Nguyên vẻ vang của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài ba của vị vua anh minh lỗi lạc Trần Nhân Tôn? Không những là một vị vua anh dũng nơi các chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết của Việt Nam vào thế kỷ 13, vị hoàng đế “Kim Phật” này lại là một nhà lãnh đạo tư tưởng văn hoá tôn giáo ưu việt đã đem lại cho thời đại của mình và cho đời sau một niềm tự tin vững chắc và sâu đậm “Nam quốc sơn hà nam đế cư” hơn tất cả những vị anh quân của lịch sử Việt Nam, không những võ công mà chính là văn trị đã đưa Trần Nhân Tôn thành một nhà lãnh đạo tư tưởng Việt Nam đầy nhân áisáng tạo: với Trần Nhân Tôn tiếng Việt được đưa vào văn học chính qui và với Trần Nhân Tôn tư duy triết lý và đạo đức Việt Nam trên cơ sở Thiền học được thành lập.
 
 Từ lớp tiểu học cho đến đại học, qua nhiều lần thi cử, chính tôi đã thuộc nằm lòng những trang sử sáng ngời Trần Nhân Tôn như thế, cho đến khi xuất ngoại du học, những năm tháng xa quê hương sống nơi đất khách, mỗi khi trình bày về lịch sử và văn hoá Việt Nam, mỗi khi lý luận về bản sắc dân tộc về văn hoá dân tộc, những trang sử Trần Nhân Tôn luôn luôn là bằng chứng hùng hồn của ý thức độc lập thực sự Việt Nam và là điểm tựa cho niềm tự hào và nỗi hãnh diện của tôi về văn hoá ưu việt của đất nước đối với người ngoại quốc.
 
 Nhưng thực tình và thực sự mà nói, thì hình như trải qua mấy mươi năm đọc, học, nghe, và lặp lại những điều sử sách viết về Trần Nhân Tôn, Trần Nhân Tôn đối với tôi chỉ là một trang sử mở sẵn hay gấp lại để trên bàn hay trong tủ không hơn không kém, tôi chưa hề biết Trần Nhân Tôn là ai?

 

 Hoa Yên Tự – Trần Nhân Tôn: “Ta (thật tận tình) là Ta”


 
yentu-03
Chùa Hoa Yên - Núi Yên Tử. (Ảnh Wiki.)

 
 Chùa Hoa Yên, nơi thờ vị tổ sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm vua Trần Nhân Tôn, mở ra từ những bậc đá từ dưới nhìn lên thoạt tiên quen

thuộc như… “vườn nhà” với các bụi chuối hai bên lối đi, sau khi đã quanh co với những cây cổ thụ, bạch tùng, xích tùng lạ kỳ hiếm có, bỗng nhiên gặp lại vườn chuối tiêu điều, như ngõ sau quê mẹ…thế này?

 Khác với Hoa Yên của tam tổ Huyền Quang (sách đã dẫn):

 
 Hồ sen trương tán lục
 Suối trúc phiếm đàn tranh…

 
 Nhưng rồi vượt hết các bực đá, Hoa Yên bỗng chơi vơi trên không với một tầm nhìn sơn hà bao quát lồng lộng, núi non rừng cây trùng điệp mấy tầng nâng Yên Hoa lên trong thế rồng ngồi với một kiến trúc vườn cây lăng miếu hài hoà thuần tuý Việt Nam.
 
 Tôi đứng trên bậc cấp cuối cùng giữa hai cây “trượng phu tùng” (Huyền Quang, sách đã dẫn), gió lộng bốn bề trước cảnh non nước gấm vóc, rồi quay mặt trực diện với bệ thờ Điều Ngự Giác Hoàng, trong một giây cảm xúc tôi có cảm tưởng thấy được chân dung thực sự của Trần Nhân Tôn.
 Như chia với nhau cùng một ấn tượng, chúng tôi ba người đều thấy cùng một lúc chưa có nơi nào trên đất nước Việt Nam “Việt Nam” hơn Yên Hoa của Yên Tử với lối kiến trúc khiêm tốn nhưng thâm u, thiên nhiên thô sơ nhưng không thô kệch, tinh vi nhưng không phù phiếm.
 
 Trần Nhân Tôn đó, có thể ngẩng mặt nhìn sang Bắc để nói “Ta cũng như người”, để hướng về phương Đông mà nói “Ta khác với người”, nhìn về Tây mà nói “Ta không thua người”, nhìn về Nam mà nói “Ta cùng với người”. Đã thấy lăng tẩm các vị vua chúa triều Nguyễn, mới thấy Trần Nhân Tôn “Việt Nam” ngay từ từng viên đá, không một chút ảnh hưởng của Trung Hoa trong sự khiêm tốn nhân ái ngược với kiến trúc tráng lệ đến vô nhân, Hoa Yên lại khác với Nhật trong chất đá thiên nhiên, với Nam Dương trong nghệ thuật tinh vi.
 
 Tôi bỗng hiểu được tại sao người Nhật mê và tìm học kỹ thuật đồ gốm đời Trần. Chén gốm đời Trần có một sắc thái tinh vi trong chất đá thô kệch, không hào nhoáng bóng bẩy như của Tàu, cho biết nghệ nhân có một bản lĩnh cao cường trong lúc sáng tạo, vừa thấu hiểu bản chất sự vật để gìn giữ bản chất ấy đồng thời nâng sự vật lên thành tác phẩm nghệ thuật. Chẳng khác chi bản sắc của một dân tộc mà Trần Thái Tôn trong trách nhiệm cầm cân nảy mực phải dùi mài trau chuốt, vừa gìn giữ để không bị đồng hoá vừa phát huy để đừng bị thoái hoá.
 
 Và trong trăm ngàn trách nhiệm, chưa thấy vị vua nào như những vị vua đời Trần đã miệt mài nói về chữ Tâm Việt Nam như một lời tuyên ngôn làm kim chỉ nam để phát huy bản chất Việt Nam như thế, nói về chữ Tâm Việt Nam bằng ngôn ngữ Việt Nam, cho nên không ngại đi ngược lại với thời thượng và mặc cảm của sĩ phu Việt Nam sau một ngàn năm đô hộ của Tàu.
 Cần phải đi ngược để khẳng định cho được phong cách con người Việt Nam với giá trị văn hoá đạo đức phương Nam.
 
 Từ Trần Thái Tôn trở về sau, chữ Tâm đã được thay thế bằng chữ Lòng trong những tác phẩm văn chương đời Trần viết bằng chữ Nôm. “Thay đổi cách hành văn là thay đổi tư duy, thay đổi tư duy là thay đổi cách hiện hữu, cách sống”, Nietzsche đã có lý khi nói như thế.
 
 Có thể nói Trần Nhân Tôn đã tiếp tục sứ mạng “làm người Việt Nam” toàn vẹn nhất, tận tình nhất, hùng hồn và sâu thẳm, sáng tạo và đôn hậu trong sự nhất quán, trong sự thấu suốt cuộc đời bên ngoài, cuộc đời thành thị và cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần nơi chốn sơn lâm. Nghĩa hãy nhớ đạo chẳng quên…
 

 “Hãy xá vô tâm tự nhiên hợp đạo
 Sạch giới lòng, dồi giới tướng nội ngoại nên Bồ Tát Trang Nghiêm
 Ngay thờ chúa thảo thờ cha Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu”
 (Trần Nhân Tôn, Cư Trần Lạc Đạo)

 Tôi lùi lại phía sau, đến cạnh bệ thờ có tượng Trần Nhân Tôn, nhìn ra phía trước.

 Tôi muốn biết Trần Nhân Tôn từ chỗ ngồi này đã nhìn gì, thấy gì khi người còn sống “am mây một sập Thiền”, khi người đã chết, từ hơn 800 năm trước cho đến bây giờ… Có phải “Ta nay: ngồi đỉnh Vân Tiêu, cỡi chơi Cánh Diều” “Coi Đông Sơn tựa hòn kim lục/Xem Nam Hải tựa miệng con ngao” như Tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang ngày trước đã tả không, thì thấy rừng cây trùng điệp mà chúng tôi đã đi qua như những cánh phượng hoàng phấp phới trong gió, núi mờ núi đậm tiếp vai nhau ở chân trời xa thẳm, làng mạc nằm chơi vơi trong màu nắng thanh lam như trôi lững lờ vào trong màu xanh vô tận của bầu trời, khói nước từ biển khơi lung linh giữa thinh không mờ ảo,như thật như hư, con đường ngoằn ngoèo dưới chân núi như một vệt sáng lấp lánh xuyên hút qua lòng núi…
 
 Phong ba hay thái bình, Trần Nhân Tôn “ngồi” đây với “non nước… nghìn thu” ấy như một chiêm nghiệm sâu thẳm về hiện hữu vật chấttinh thần, ngoại tâm và nội tâm của một con người Việt Nam. Tuy “ngồi” nhưng đã “đi” thẳng vào đạo tâm của cả non sông, dân tộc.

 “Dựng cầu đò, dồi chiền tháp ngoại trang nghiêm tự tướng hãy tu;
 Săn hỷ xả, nhuyển từ bi nội tự tại Kinh Lòng hằng đọc”
 (Trần Nhân Tôn, Cư Trần Lạc Đạo)
 

 Đứng trên đỉnh núi với ngôi Chùa Đồng bé tí như một món đồ chơi – khác hẳn một ngôi Chùa Đồng vĩ đại trong tưởng tượng khi nghe bạn bè nói về Chùa Đồng Yên Tử – đỉnh núi cheo leo, lởm chởm đá, những tảng đá thi gan, khổ hạnh, đã mấy trăm hay mấy ngàn năm, như một bình phong tròn đứng chắn gió cho bốn phương cảnh vật nhu hoà, nhân ái quyện dưới chân núi. Bỗng thấy núi Yên tử như một thiền sư, Trần Nhân Tôn là núi Yên Tử, thân tâm vững như núi:

 
 Nhìn lên càng cao
 Dùi càng bền cứng
 Chợt ở phía sau
 Thấy liền trước đứng…
 (Trần Nhân Tôn, Ca ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ)
 

 Buổi xế trưa gió núi vun vút không ngừng bay về trời trên đỉnh Yên Tử nghe trong gió tiếng núi vang vọng câu trả lời: “Hiểu theo lối trước lại chẳng phải”.
 (Trần Nhân Tôn, Tại sao về núi giới lòng? Đáp: ”Hiểu theo… “Bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm, sách đã dẫn).
 
 Yên Tử mà tôi đã đi qua, Yên Hoa mà tôi đã dừng lại, Chùa Đồng mà tôi đã đứng cheo leo, Vân Tiêu, Cánh Diều mà tôi đã chắp cánh bay theo, nếu hiểu như tôi đã hiểu theo sách vở lại là CHẲNG PHẢI! Vậy thì “Dùng công án cũ để làm gì? Đáp: Mỗi lần nêu ra một lần mới”. (Trần Nhân Tôn, bài giảng cuối đông năm Giáp Thìn 1304 tại chùa Sùng Nghiêm, sách đã dẫn)
 
 Trần Nhân Tôn là một công án cho tôi!

 
 Đường về “Cư Trần Lạc Đạo”
 
 Xuống núi thật nhanh. Trời mới xế chiều. Lên xe. Nằm dài trên ghế. Chúng tôi chỉ ba người, xe rộng thênh thang. Tôi đã ngủ một giấc ngủ “cư trần lạc đạo”: mệt ngủ liền!
 

 Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên
 Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
 Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
 Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
 (Trần Nhân Tôn, Cư Trần Lạc Đạo phú, sách đã dẫn)

Nguồn: http://phatphap.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 21727)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
(Xem: 20429)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22340)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18764)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27027)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18729)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19951)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38071)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20151)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28327)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46335)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15453)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65680)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13735)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18637)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15547)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14575)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18733)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12641)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17662)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25489)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38736)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17713)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11250)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18612)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17415)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13222)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13319)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17549)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24316)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12385)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13804)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12998)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12892)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14171)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14634)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21110)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22635)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29983)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13872)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18243)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17060)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12634)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30732)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14651)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13005)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12744)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12521)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13063)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16311)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15213)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23851)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16185)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29008)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20297)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15570)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37252)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45047)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36908)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant