Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vu Lan Bồn

10 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 64852)
Kinh Vu Lan Bồn

KINH VU LAN BỒN


kinhvulanbon-vanphatthanhthanh

1. Phật nói Kinh Vu Lan Bồn

Ta từng nghe lời tạc như vầy

Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ
Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung,
Mục-liên mới đặng lục-thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân. 

Công dưỡng-dục thâm-ân dốc trả, 
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu-hạnh vi tiên,
Bèn dùng huệ-nhãn dưới trên kiếm tầm. 

Thấy vong-mẫu sanh làm ngạ-quỷ,
Không uống ăn tiều-tụy hình-hài.
Mục-liên thấy vậy bi-ai,
Biết mẹ đói khát ai-hoài tình thâm

2. Lo phẩm-vật đem dâng từ-mẫu,
Ðặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn. 

Lòng bỏn-xẻn tiền-căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp dựt của bà.
Cơm đưa chưa tới miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu. 

Thấy như vậy âu-sầu thê-thảm,
Mục-kiền-liên bi-cảm xót thương,
Mau mau về đến giảng-đường,
Bạch cùng sư-phụ tìm phương giải nàn. 

3. Phật mới bảo rõ ràng căn-cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần-lực nhiệm-mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu. 

Lòng hiếu-thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu-thiên
Cùng là các bực Thần-kỳ
Tà, ma, ngoại-đạo, bốn vì Thiên-vương 

Cộng ba cõi sáu phương tu-tập,
Cũng không phương cứu-tế mẹ ngươị
Muốn cho cứu đặng mạng người,
Phải nhờ thần-lực của mười phương Tăng. 

4. Pháp cứu-tế ta toan giải nói
Cho mọi người thoát khỏi ách-nàn
Bèn kêu Mục-thị đến gần,
Truyền cho diệu-pháp ân-cần thiết thi 

Rằm tháng bảy là ngày Tự-tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này 
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món trái cây năm màu 

Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu,
Món ăn tinh-sạch báu mầu
Ðựng trong bình-bát vọng-cầu kính dâng 

Chư Ðại-đức mười phương thọ-thực
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thiên
Lại thêm cha mẹ hiện-tiền
Ðặng nhờ phước-lực tiêu-khiên ách-nàn. 
 
 

5. Vì ngày ấy Thánh-tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ-hội về.
Như người Thiền-định sơn-khê
Tránh điều phiền-não chăm về thiền-na 

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu-hành nguyện thỏa vô-sanh
Hoặc người thọ hạ kinh-hành
Chẳng ham quyền-quý ẩn-danh lâm-tòng 

Hoặc người đặng lục-thông tấn-phát
Và những hàng Duyên-giác, Thanh-văn
Hoặc chư Bồ-tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng-sanh 

Ðều trì giới rất thanh, rất tịnh
Ðạo-đức dày, chánh-định chơn-tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Ðồng lòng thọ-lãnh bát cơm lục-hòa 

6. Người nào có sắm ra vật-thực
Ðặng cúng-dường Tự-tứ Tăng thời
Hiện-tiền phụ-mẫu của người
Bà con quyến-thuộc thảy đều nhờ ơn 

Tam-đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh-nhàn hưởng-thọ tự-nhiên.
Như còn cha mẹ hiện-tiền
Ðó nhờ cũng đặng bá niên thọ-trường 

Như cha mẹ bảy đời quá-vãng
Sẽ hóa-sanh về cõi thiên-cung
Người thời tuấn-tú hình-dung
Hào-quang chiếu sáng khắp cùng châu-thân 

7. Phật dạy bảo mười phương Tăng-chúng
Phải tuân theo thể-thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú-nguyện cho người tín-gia.

Cầu thất-thế mẹ cha thí-chủ
Ðịnh tâm-thần quán đủ đừng quên
Cho xong ý-định hành-thiền
Mới dùng phẩm-vật đàn-tiền hiến-dâng. 

Khi thọ-dụng nên an vật-thực
Trước Phật-đài hoặc tự tháp trung:
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự-tiện thọ dùng bữa trưa 

8. Pháp cứu-tế Phật vừa nói dứt
Mục-liên cùng Bồ-tát chư Tăng
Ðồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục-liên cũng hết khóc thương rầu buồn 

Mục-liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ-quỷ được tan
Mục-liên bạch với Phật rằng:
"Mẹ con nhờ sức Thánh-Tăng khỏi nàn 

Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra
Như sau đệ-tử xuất-gia
Vu-lan-bồn pháp dùng mà độ sanh 

Ðộ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể đặng không ?"
Phật rằng: "Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói con dùng hỏi theo 
 
 
 
 
 

9. Thiện-nam-tử, tỳ-kheo nam nữ
Cùng quốc-vương, thái-tử, đại-thần
Tam-công, tể-tướng, bá-quan
Cùng hàng lê-thứ vạn dân cõi trần 

Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện-tại cùng thất-thế tình thâm
Ðến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết-hạ chư Tăng tựu về 

Chính ngày ấy Phật đà hoan-hỉ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Ðựng trong bình-bát tinh-anh
Chờ giờ Tự-tứ chúng Tăng cúng-dường 

Ðặng cầu-nguyện song-đường trường-thọ
Chẳng ốm đau, cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất-thế đồng thì
Lìa nơi ngạ-quỷ sanh về nhơn, thiên 

Ðặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn-sanh Phật-tử ân-cần
Hạnh tu hiếu-thuận phải cần phải chuyên 
 
 
 
 

10. Thường cầu-nguyện thung-huyên an-hảo
Cùng bảy đời phụ-mẫu siêu-sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu-thảo thâm-ân phải đền 

Lễ cứu-tế chí-thành sắp đặt
Ngỏ cúng-dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh-thành dưỡng-dục song-thân buổi đầu 

Ðệ-tử Phật lo âu gìn-giữ
Mới phải là Thích-tử Thiền-môn
Vừa nghe dứt pháp Lan-bồn
Môn-sanh tứ-chúng thảy đồng hỉ-hoan 

Mục-liên với bốn ban Phật-tử
Nguyện một lòng tín-sự phụng-hành ! 

 

 1. The Yu-lan-p'en Sutra 

Thus have I heard. 

Once, the Buddha resided in the kingdom of Sravasti,among the Jetavana trees in the garden of Anathapindika. The Great Mu-chien-lien began to obtain the six penetrations. Desiring to save his parents to repay the kindness they had shown him in nursing and feeding him, he used his divine eye to observethe worlds. 

He saw his departed mother reborn among the hungry ghosts: she never saw food or drink, and her skin hung off her bones.
 
 
 

 2. Mu-lien took pity, filled his bowl with rice, and sent it to his mother as an offering. When his mother received the bowl of rice, she used her left hand to guard the bowl and her right hand to gather up the rice, but before the food entered her mouth it changed into flaming coals, so in the end she could not eat. 

Mu-lien cried out in grief and wept tears. He rushed back to tell the Buddha and laid out everything as it has happened. 
 
 
 
 
 

3. The Buddha said, "The roots of your mother's sins are deep and tenacious. It is not within your power as a single individual to do anything about it. Even though the fame of your filial devotion moves heaven and earth, still spirits of heaven and spirits of earth, harmful demons and masters of the outer paths, monks and the four spirit kings of heaven cannot do anything about it. 
You must rely on the mighty spiritual power of the assembled monks of the ten directions in order to obtain her deliverance.
 
 
 
 
 

4. I shall now preach for you the method of salvation, so that all beings in trouble may leave sadness and suffering, and the impediments caused by sin be wiped away." 

The Buddha told Mu-lien, "On the fifteenth day of the seventh month, when the assembled monks of the ten directions release themselves, for the sake of seven generations of ancestors, your current parents, and those in distress, you should gather food of the one hundred flavors and five kinds of fruit, basins for washing and rinsing, incense, oil lamps and candles, and mattresses and beđing; take the sweetest, prettiest things in the world and place them in a bowl and offer it to the assembled monks, those of great virtue of the ten directions. 
 
 
 
 

5. On this day, the entire assembly of saints - those in the mountains practicing meditation and concentration; those who have attained the fruit of the four paths; those who practice pacing under trees; those who use the six penetrations to be free; those who convert others, hear preaching, and awaken to causality; and the great men, those bodhisattvas of the ten stages who provisionally manifest the form of a bhiksu - all of those who are part of the great assembly shall with one mind receive the patra [bowl] of rice. 

[A monk who] possesses fully the purity of the precepts and the Way of the assembly of saints - his virtue is vast indeed. 
 
 
 
 

6. When you make offerings to these kinds of monks as they release themselves, then your current parents, seven generations of ancestors, and six kinds of relatives will obtain release from suffering in the three evil paths of rebirth; at that moment they will be liberated and clothed and fed naturally. 
If one's parents are living, they will have one hundred years of joy and happiness. If they are deceased, then seven generations of ancestors will be reborn in the heavens; born freely through transformation, they will enter into the light of heavenly flowers and receive unlimited joy." 
 
 
 

 7. Then the Buddha decreed that the assembled monks of the ten directions should first chant prayers on behalf of the family of the donor for seven generations of ancestors, that they should practice meditation and concentrate their thoughts, and that they should then receive the food. 
In receiving the bowls, they should first place them in front of the Buddha's stupa; when the assembled monks have finished chanting prayers, they may then individually partake of the food. 
 
 
 
 
 

 8. At this time the bhiksu Mu-lien and the assembly of great bodhisattvas rejoiced. Mu-lien's sorrowful tears ended and the sound of his crying died out. 

Then, on that very day, Mu-lien's mother gained release from a kalpa of suffering as a hungry ghost. 

Then Mu-lien told the Buddha, "The parents who gave birth to me, your disciple, are able to receive the power of the merit of the Three Jewels because of the mighty spiritual power of the assembly of monks. But all of the future disciples of the Buddha who practice filial devotion, may they or may they not also present yu-lan bowls as required to save their parents as well as seven generations of ancestors?" 

The Buddha said, "Excellent! This question pleases me very much. It is just what I would like to preach, so listen well!
 
 
 
 
 

9. My good sons, if there are bhiksus, bhiksunis, kings of states, princes, sons of kings, great ministers, counselors, dignitaries of the three ranks, any government officials, or the majority of common people who practice filial compassion, then on behalf of their current parents and the past seven generations of ancestors, on the fifteenth day of the seventh month, the day on which Buddhas rejoice, the day on which monks release themselves, they must all place food and drink of the one hundred flavors inside the yu-lan bowl and donate it to monks of the ten directions who are releasing themselves. 

When the prayers are finished, one's present parents will attain long life, passing one hundred years without sickness and without any of the torments of suffering, while seven generations of ancestors will leave the sufferings of hungry ghosthood, attaining rebirth among gods and humans and blessings without limit." 

The Buddha told all of the good sons and good daughters, 
 
 

 10. "Those disciples of the Buddha who practice filial devotion must in every moment of consciousness maintain the thought of their parents, including seven generations of ancestors. Each year on the fifteenth day of the seventh month, out of filial devotion and compassionate consideration for the parents who gave birth to them and for seven generations of ancestors, they should always make a yu-lan bowl and donate it to the Buddha and Sangha to repay the kindness bestowed by parents in nurturing and caring for them. All disciples of the Buddha must carry out this law." 

Upon hearing what the Buddha preached, the bhiksu Mu-lien and the four classes of disciples rejoiced and put it into practice. 

Notes by Minh Quang buddhistI@aol.com: 
vn-buddhism@saigon.com list

Today is the Vu-lan festival, a Buddhist ceremony, but also celebrated by lay people in East Asia as the hungry ghost festival (lễ cô hồn). Ullambana (Vu lan bồn) is also celebrated in other Buddhist countries. 

In Vietnam and China, we used to chant the Yu-lan-p'en Sutra (Kinh Vu-lan-bồn) which had many different translations, although the most popular was the one in Vietnamese poetic style of "two seven, one six, one eight syllables" (song thất lục bát) which most of us have heard at least a few times. 

The Chinese translation was not difficult to find, and usually said to be first translated from Sanscrit to Chinese in the third century by Dharmaraksa (505-313) [Ðàm Ma La Sát, hoặc Pháp Hộ) who originatedfrom Tun-huang (Ðôn Hoàng) and has translated 210 works (or 175 accordingto Chinese source) into Chinese, including the Lotus Sutra (Kinh Diệu PhápLiên Hoa) and the Ullambana Sutra (Kinh Vu Lan Bồn) [cf Lịch Ðại TamBảo Ký].


Bản dịch của Vạn Phật Thánh Thành:
THE SAGELY CITY OF TEN THOUSAND BUDDHAS

Celebration of Ullambana


Ullambana is the day for helping those beings who are suffering so that they can obtain liberation.

The Venerable Mahamaudgalyayana, one of the great disciples of the Buddha, was foremost in spiritual powers. When he obtained the six spiritual penetrations, he searched for his departed mother. He discovered that she had fallen into the hells. Although the Venerable Maudgalyayana had great spiritual powers, he could not save his mother. Thereupon he knelt before his teacher, the Buddha, and beseeched the World Honored One to help.

The Buddha explained that his mother was suffering in the hells because of her deep offenses and so the Venerable Maudgalyayana must rely on the united strength of the Sangha of the ten directions in order to save his mother.

The Buddha said, “On the fifteenth day of the seventh month you should make an offering of the finest vegetarian foods and drinks and offer it to the Buddha and the Sangha. By making this offering, the Way-virtue of the high Sanghans of the ten directions will then be able to save your mother.”

The Venerable Mahamaudgalyayana did as the Buddha had instructed. Due to the strength of the greatly virtuous ones of the ten directions, his mother was reborn in the heavens. Since then, the Ullambana festival has become an annual Buddhist celebration and a day upon which anyone can rescue his or her parents of seven lives past.

The Venerable Master Hsuan Hua taught:

"No teaching is apart from Filiality. Apart from filiality, there is no teaching. When the limitless lessons under the sky are summarized, it is just this one lesson. This lesson encompasses limitless learning. Study this lesson to perfection and other lessons will also be completed."

To read this entire Buddhist text, please click on: The Buddha Speaks the Ullambana Sutra or below text:


The Buddha Speaks the Ullambana Sutra

 

Thus I have heard, at one time, the Buddha dwelt at Shravasti in the Garden of the Benefactor of Orphans and the Solitary. Mahamaudgalyayana had just obtained the six penetrations and wished to cross over his father and mother to repay their kindness for raising him. Thus, using his Way Eye, he regarded the world and saw that his deceased mother had been born among the hungry ghosts. Having neither food nor drink, she was but skin and bones. Mahamaudgalyayana felt deep pity and sadness, filled a bowl with food, and went to provid for his mother. She got the bowl, screened it with her left hand, and with her right hand made a fist of food. But before it entered her mouth, it turned into burning coals which could not be eaten. Mahamaudgalyayana called out and wept sorrowfully, and hastened to return to the Buddy to set forth all of this.

The Buddha said, "Your mother's offenses are deep and firmly rooted. You alone do not have enough power. Although your filial sounds move heaven and earth, the heaven spirits, the earth spirits, twisted demons, and those outside the way, Brahmans, and the Four Heavenly King Gods are also without sufficient strength. The awesome spiritual power of the assembled Sangha of the ten directions is necessary for liberation to be attained. I shall now speak a Dharma of rescue which causes all those in difficulty to leave worry and suffering, and to eradicate obstacles from offenses."The Buddha told Maudgalyayana, "The fifteenth day of the seventh month is the Pravarana Day for the assembled Sangha of the ten directions. For the sake of fathers and mothers of seven generations past, as well as for fathers and mothers of the present who are in distress, you should prepare an offering of clean basins full of hundreds of flavors and the five fruits, and other offerings of incense, oil, lamps, candles, beds, and bedding, all the best of the world, to the greatly virtuous assembled Sangha of the ten directions.

"On that day, all the holy assembly, whether in the mountains practicing dhyana samadhi, or obtaininging the four fruits of the Way, or walking beneath trees, or using the independence of the six penetrations to teach and transform Sound Hearers and Those Enlightened to Conditions, or provisionally manifesting as Bhikshus when in fact they are Great Bodhisattvas on the Tenth Ground-all complete with pure precepts and ocean-like virtue of the holy Way--should gather in a great assembly and all of like mind receive the Pravarana food.

"If one thus makes offerings to these Pravarana Sanghans, one's present father and mother, parents of seven generations past, as well as the six kinds of close relatives will escape from the three paths of suffering, and at that time attain release. Their clothing and food will spontaneously appear. If the parents are still alive, they will have wealth and blessings for a hundred years. Parents of seven generations past will be born in the heavens. Transformationally born, they will independently enter the celestial flower light, and experience limitless bliss."

At that time the Buddha commanded the assembled Sangha of the ten directions to recite mantras and vows for the sake of the donor's fumily, for parents of seven generations. After practicing dhyana concentration, the Sangha accepted the food. When they first received the basin, they placed it before the Buddha in the stupa. When the assembled Sangha had finished the mantras and vows they received the food.

At that time the Bhikshu Maudgalyayana and the assembly of Great Bodhisattvas were all extremely delighted and the sorrowful sound of Maudgalyayana's crying ceased. At that time Maudgalyayana's mother obtained liberation from one kalpa of suffering as a hungry ghost. Maudgalyayana addressed the Buddha and said, "This disciple's parents have received the power of the merit and virtue of the Triple Jewel, because of the awesome spiritual power of the assembled Sangha. If in the future the Buddha's disciples practice filiality by offerins up the Ullambana basins, will they be able to cross over their present fathers and mothers as well us those of seven generations past?"

The Buddha replied "Good indeed! I am happy you asked that question. I just wanted to speak about that and now you have also asked about it. Good man, if Bhikshus, Bhikshunis, kings, crown princes, great ministers, great officials, cabinet members, the hundred ministers, and the tens of thousands of citizens wish to practice compassionate filial conduct, for the sake of the parents who bore them, as well as for the sake of fathers and mothers of seven lives past, on the fifteenth day of the seventh month, the day of the Buddha's Delight, the day of the Sangha's Pravarana, they all should place hundreds of flavors of foods in the Ullambana basins, and offer them to the Pravarana Sangha of the ten directions. They should vow to cause the length of their present fathers' and mothers' lives to reach a hundred years without illnesses, without sufferings, afflictions, or worries, and also vow to cause seven generations of fathers and mothers to leave the sufferings of the hungry ghosts, to be born among humans and gods, and to have blessings and bliss without limit."

The Buddha told all the good men and good women, "Those disciples of the Buddha who cultivate filial conduct should in thought after thought, constantly recall their present fathers and mothers when making offerings, as well as the fathers and mothers of seven lives past, and for their sakes perform the offering of the Ullambana basin to the Buddha and the Sangha and thus repay the loving kindness of the parents who raised and nourished them."

At that time the Bhikshu Maudgalyayana and the four-fold assembly of disciples, hearing what the Buddha said, practiced it with delight.

End of the Buddha Speaks the Ullambana Sutra.

The Ullambana Sutra translated by The Buddhist Text Translation Society
Nguồn: http://www.cttbusa.org/ullambana/ullambana.asp
Copyright © Buddhist Text Translation Society
Ý kiến bạn đọc
24 Tháng Mười Hai 201813:07
Khách
Nam Mô Sakyamuni Buddha
17 Tháng Chín 201714:01
Khách
được hay ok
21 Tháng Tám 201714:20
Khách
hay ko thể tin nổi
12 Tháng Tám 201713:59
Khách
hay và bổ ich
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11717)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11227)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11948)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10275)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29267)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11965)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11962)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10964)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19640)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7357)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11383)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35347)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12875)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17373)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11492)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22131)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11854)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15947)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12129)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14119)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12628)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13231)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13681)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20027)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14430)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13566)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12366)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11909)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34766)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13426)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13741)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32002)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13224)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13078)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13438)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18058)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14942)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15750)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14889)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15868)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20816)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21338)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35180)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27557)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43969)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37930)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15153)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15082)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13008)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12671)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15633)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27763)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14991)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11428)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53221)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16551)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13192)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20716)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12640)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15619)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15527)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14808)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15629)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13063)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11786)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12320)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12595)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13504)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12493)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25005)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11997)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12777)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11627)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13770)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14128)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12935)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12762)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13029)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13942)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13017)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13636)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12477)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14462)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13319)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13797)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14649)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11889)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12735)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28311)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11818)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12665)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15080)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12023)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11789)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12895)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12001)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11534)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
(Xem: 10309)
Mỗi mùa Xuân đến, mọi người đều in thiệp chúc Tết nhau. Trong nhà chùa nói chung, nhất là Phật giáo Bắc tông, hầu hết đều chúc nhau một mùa Xuân Di-lặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant