Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tara - Đấng giải thoát chúng sinh

10 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 14644)
Tara - Đấng giải thoát chúng sinh

TARA – ĐẤNG GIẢI THOÁT CHÚNG SINH

Lama Zopa Rinpoche - Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

 Từ hai giáo lý được giảng vào Tháng Năm 1987 tại Tu viện Kopan và Viện Himalayan Yogic, Nepal. Nhà Xuất bản Wisdom xuất bản lần đầu tiên năm 1993 như một Bản Ghi chép Trí tuệ.

 Ý nghĩa tối hậu của cuộc đờitara-danggiaithoatchungsinh

 Trước hết tôi chân thành cảm ơn mọi người đã tới tham dự khóa thiền định này. Tôi vô cùng hoan hỉ vì các bạn muốn làm cho đời mình lợi lạc cho chúng sinh bằng cách phát triển tâm thức các bạn, vì các bạn quan tâm tới hạnh phúc của người khác. Tôi chân thành cảm ơn tất cả các bạn.

 Bạn không tham dự những khóa thiền địnhthực hành tâm linh để có một thân thể khỏe mạnh, và thậm chí không phải để được an bình nhất thời trong tâm thức. Bạn thực hành tâm linh để có sự an bình vĩnh cửu, với sự giải thoát tối hậu khỏi những phiền não hay những tư tưởng náo động. Vào lúc này bạn đã có một thân người quý báu. Ngay cả việc sử dụng thân người này để đạt được hạnh phúc tối hậu của sự giải thoát vĩnh cửu khỏi mọi vấn đề và những nguyên nhân của chúng – những tư tưởng náo động và kết quả của hành động, hay nghiệp – vẫn không phải là mục đích tối hậu của việc bạn có thân người quý báu này. Mục đích thực sự của việc mang thân người quý báu vào lúc này là để tránh làm tổn hại chúng sinh; và trên nền tảng của điều đó, làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, mỗi chúng sinh trong đó đều mong muốn hạnh phúc và không muốn đau khổ. (Hình bên: Đức Tara Xanh)

 Khi ở tận đáy lòng, bạn đã có thái độ thuần tịnh là không muốn làm hại chúng sinh, khi ấy bạn hành động để làm lợi ích cho họ mà không có sự phân biệt. Bạn không thừa nhận một vài người, chẳng hạn như những người thân và bạn hữu, là thân thiết và giúp đỡ họ, nhưng lại coi những người khác là kẻ thù và không giúp đỡ họ - hay thậm chí còn làm hại họ. Hơn là những tư tưởng phân biệt này, bạn có một thái độ thuần tịnh của lòng từ ái, nghĩ tới việc làm lợi lạc tất cả chúng sinh bao la như không gian vô hạn. Với thái độ từ ái và bi mẫn này đối với tất cả chúng sinh, bạn cũng nên hành động để làm lợi lạc cho họ một cách bình đẳng. Đây là mục đích chính của việc chúng ta mang thân người quý báu này. Đây là ý nghĩa tối hậu của cuộc đời.

 Hạnh phúc Vĩnh cửu

 Bạn nên sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, để thành tựu mục đích tối hậu này. Đây là lý do tại sao bạn nỗ lực để được khỏe mạnh và trường thọ. Mục đích của mọi việc bạn làm – ngủ, thức dậy, mặc quần áo, ăn uống, đi đứng, nằm ngồi, chữa bệnh – là để phát triển thiện tâm đối với mỗi chúng sinh, và để hành động mang lại lợi ích đồng đều cho họ. Những sinh loài khác hoàn toàn giống bạn trong việc mong muốn ngay cả sự an nhàn nhỏ bé nhất và không muốn chút ưu phiền nào, ngay cả trong giấc mơ. Họ hoàn toàn giống như bạn.

 Cũng như bạn muốn tiệt trừ mọi nỗi khổ của bạn và đạt được hạnh phúc, mỗi sinh loài khác cũng vậy. Họ hoàn toàn giống như bạn. Vì thế, bạn cần tiệt trừ nỗi khổ của họ và giúp họ đạt được hạnh phúc.

 Và một lần nữa, cũng như bạn, những sinh loài khác mong muốn hạnh phúc vĩ đại nhất, vĩnh cửu nhất. Khi bạn đi mua sắm, bạn cố gắng mua được món hàng có chất lượng tốt nhất, những món hàng bền nhất mà bạn có thể. Giống như thế, mỗi chúng sinh ước muốn có được hạnh phúc vĩ đại nhất, vững bền nhất – và hạnh phúc đó có nghĩa là sự đại giải thoát. Đại giải thoát có nghĩa là giải trừ hai che chướng: che chướng của những tư tưởng náo động thô nặng và những che chướng của các dấu vết vi tế trong tâm. Khi sự ngừng dứt những che chướng này được thiết lập trên tâm thức thì đây là hạnh phúc thuần tịnh nhất của sự toàn giác.

 Vì sao hạnh phúc của sự toàn giác thì vĩnh cửu? Đó là bởi một khi những che chướng, nguyên nhân của đau khổ, đã được hoàn toàn giải trừ thì đau khổ không thể tái diễnhạnh phúc không thể bị hủy hoại. Bởi nguyên nhân của đau khổ đã bị tiệt trừ nên đau khổ không thể quay đầu trở lại.

 Để ví dụ, vì sao hiện nay tâm thức chúng ta bị những tư tưởng náo động như tham, sân và si sai khiến? Tâm chúng ta bị những độc chất này ngăn che là bởi chúng là sự tiếp tục của những phiền não trong tâm, hay những tư tưởng náo động, đã hiện hữu ngày hôm qua. Bởi chúng ta không tẩy trừ những tư tưởng náo động của ngày hôm qua nên sự tiếp tục của những tư tưởng này – những tư tưởng náo động của ngày hôm nay – đã phát khởi.

 Đời trước của chúng ta cũng tương tự như thế: Nếu trong đời trước chúng ta đã hoàn toàn giải trừ những tư tưởng náo động bằng cách thực hiện biện pháp chữa trị của con đường trong tâm ta, thì trong đời này chúng ta không thể bị sinh ra với những phiền não này trong tâm. Không thể có sự tiến hóa như thế nếu chúng ta đã ngừng dứt sự tiếp tục của những tư tưởng náo động. Không có gì gây ra những tư tưởng náo động trong đời này thì sẽ không có những tư tưởng náo động – và không có bất hạnh hay những vấn đề trong đời này.

 Chẳng hạn như nếu một miếng vải bị dơ trong nhiều ngày và hôm qua đã được giặt sạch thì không có sự tiếp tục của bụi bẩn ngày hôm qua. Cũng thế, một khi những che chướng của tư tưởng náo động hoàn toàn được giải trừ thì chúng không thể lại phát sinh bởi không có nguyên nhân, và không thể xảy ra việc kinh nghiệm đau khổ một lần nữa. Đây là hạnh phúc vĩnh cửu của giải thoát. Như tôi đã đề cập ở trên, mục đích tối hậu của việc có được thân người quý báu này là để giải thoát tất cả các sinh loài khỏi các che chướng, hay những dấu vết trong tâm, và dẫn dắt họ tới giải thoát vĩ đại nhất của sự toàn giác, là hạnh phúc vĩnh cửu, vô song.

  Phát triển tâm

 Bây giờ, để thành tựu công trình vĩ đại này cho chúng sinh, bạn phải phát triển tâm bạn bằng cách nỗ lực lắng nghe, quán chiếuthiền định về các giáo lý. Và để bạn có thể dẫn dắt chúng sinh tới hạnh phúc vô song này của sự toàn giác, họ phải đi theo con đường. Vì thế, để dẫn dắt chúng sinh trong con đường dẫn tới sự toàn giác, bạn phải biểu thị các giáo lý cho họ. Để biểu thị các giáo lý, phương tiện dẫn dắt chúng sinh trong con đường đi tới sự toàn giác, bản thân bạn phải thật thấu suốt, không chút sai lầm, mức độ của tâm, những đặc điểm và nghiệp của mỗi một chúng sinh. Bởi chúng sinh có những mức độ và đặc điểm tâm thức khác nhau nên các phương pháp mà bạn biểu thị cho họ cũng phải có những loại khác nhau. Một lần nữa bạn phải nhận thức thật rõ ràng, không chút sai lầm, tất cả những phương tiện để dẫn dắt chúng sinh.

 Tâm duy nhất có thể nhận ra tất cả những điều này một cách viên mãn là tâm toàn trí. Vì thế, để thành tựu công trình vĩ đại này cho chúng sinh, lợi ích tối hậu này của sự giải thoát, là điều chúng sinh cần và thiếu, bản thân bạn cần có tâm toàn trí.

 Chẳng hạn như một vị thầy – dù ở trong một trường học, Đại học hay Tu viện – giảng dạy những đề tài khác nhau cho những lớp học khác nhau để dạy học viên kiến thức khoa học, toán học, kỹ sư, sinh học, y học, tâm lý học hay bất kỳ môn gì. Mọi người thường chấp nhận rằng một học sinh càng có giáo dục thì càng dễ tìm việc làm, kiếm sống và có một đời sống dễ chịu. Mục đích tổng quát của giáo dục là để có một cuộc sống dễ chịu hơn. Và để giáo dục người khác, bản thân vị thầy phải được giáo dụcam hiểu mọi vấn đề mà ông giảng dạy. Bạn càng ít hiểu biết – hay càng nhiều vô minh – thì khả năng giáo dục và giúp đỡ người khác của bạn càng bị giới hạn. Bạn càng hiểu biết thì bạn càng có thể đáp ứng những ước muốn của người khác.

 Nếu bạn bị mù, bạn không thể dẫn dắt người khác tới nơi họ muốn. Nếu bạn không có tay thì bạn không thể cứu giúp mẹ của bạn đang gặp nguy hiểm vì bị rơi xuống một vách núi, hay bị một con sông cuốn trôi và bị chết đuối. Giống như thế, để hướng dẫn chúng sinh một cách hoàn hảo tới hạnh phúc vô song của sự toàn giác, trước hết bạn nên có tâm toàn trí.

 Bởi có tâm toàn trí, bạn cũng có năng lực toàn hảo và lòng đại bi đối với mọi chúng sinh. Nhờ có lòng đại bi không phân biệt này, bạn sẽ không bị lâm vào tình cảnh là cứu giúp người này mà không giúp đỡ người khác. Hành động của bạn không có sự phân biệt. Và với tâm toàn trí, bạn sẽ có năng lực khám phá mọi phương tiện thiện xảo để hướng dẫn chúng sinh.

  Phát triển lòng bi mẫn

 Làm thế nào để có thể phát triển lòng bi mẫn? Làm thế nào để sự tương tục tâm thức này trở thành tâm toàn trí? Thậm chí bạn có thể hình dung điều này nhờ ví dụ đơn giản này: Khi bạn học thuộc lòng điều gì, vào lúc đầu tâm bạn hoàn toàn không biết gì hết. Ngay lúc bắt đầu, thậm chí bạn không biết mẫu tự abc; nhưng với sự giúp đỡ của một thầy giáo và nhờ nỗ lực, dần dần bạn bắt đầu học tập. Khi bạn tiếp tục, bạn học càng ngày càng nhiều hơn. Tâm có bản tánh là có thể phát triển sự hiểu biết. Tâm có khả năng hiểu biết những hiện tượng thô sơ và ngay cả những điều vi tế nếu bạn cố gắng làm việc này một cách đúng đắn.

 Giờ đây bạn có lòng bi mẫn đối với một vài chúng sinh, mặc dù bạn không hoàn toàn phát triển lòng bi mẫn, có nghĩa là lòng bi đối với mọi sinh loài. Tuy nhiên, bạn có thể phát triển lòng bi nhỏ bé hiện có đối với những chúng sinh này để lòng bi ấy trở nên mỗi lúc một to lớn hơn. Bạn có thể phát triển lòng bi đối với những chúng sinh này. Bằng cách thấu hiểu các giáo lýthực hành thiền định, bạn cũng có thể phát triển lòng bi đối với chúng sinh mà hiện nay bạn không cảm thấy bi mẫn. Theo cách này lòng bi có thể phát triển.

 Với lòng bi mẫn bạn có đối với người khác, với sự hiểu biết trong hiện tại về những ước muốn của họ và các phương pháp để đáp ứng những ước muốn đó, bạn có một vài khả năng để giúp đỡ chúng sinh. Thậm chí vào lúc này, với thân người này, với sự hiểu biết và lòng bi bạn đã có, bạn có một vài năng lực để giúp đỡ những người khác. Bởi sự hiểu biết của bạn về tất cả chúng sinh và bởi lòng bi đối với họ phát triển nhờ thực hiện phương cách chữa trị của con đường trong tâm bạn, dần dần những che chướng của bạn mỗi lúc một ít đi, và càng lúc bạn càng hiểu biết hơn. Khi tiến trình này hoàn tất, bạn sẽ có năng lực toàn hảo và viên mãn để hướng dẫn chúng sinh.

 Phát triển tâm toàn trí

 Làm thế nào để có thể tách rời tâm thức khỏi những phiền não? Trong đời sống hàng ngày của bạn, bạn có thể nhận ra rằng cho dù vào buổi sáng tâm bạn tràn ngập sân hận, sự sân hận này không kéo dài; tâm bạn không bị sân hận áp đảo liên tục. Buổi sáng bạn có thể giận dữ với người nào đó, nhưng vào buổi chiều thì sự giận dữ không còn nữa – thay vào đó bạn có thể bám luyến hay dửng dưng đối với người đó.

 Thậm chí bạn không thiền định thì những tư tưởng náo động cũng phát khởichuyển hóa. Điều này chứng tỏ bản tánh của tâm không đồng nhất với tham, sân, si, kiêu ngạo hay ganh tị. Tâm bị những độc chất này tạm thời ngăn che, nhưng tự nó không đồng nhất với các độc chất ấy. Nếu tự thân tâm thức đồng nhất với sân hận thì nó phải có tính chất của sân hận một cách tự nhiênliên tục. Hoặc tâm có tính chất của tham luyến một cách tự nhiênliên tục. Như thế, đối với một đối tượng, sân hậntham luyến phát khởi đồng thời.

 Nếu một tấm gương hoàn toàn đồng nhất với bụi bám trên đó thì bụi không thể bị lau sạch – điều này giống như lau bụi cho sạch bụi. Bởi gương không đồng nhất mà chỉ bị bụi che phủ nhất thời nên bạn có thể lau sạch gương bằng nước và một mảnh vải. Càng lau sạch bụi thì phản chiếu của gương càng trong sáng hơn. Tương tự như thế, khi bạn lắng nghe, quán chiếuthiền định về con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ, khi bạn phát triển thêm nữa những nhận thức về con đường này, trước tiên những che chướng của bạn dần dần càng lúc càng yếu đi, và sau đó hoàn toàn bị giải trừ.

 Mahayana, hay Đại thừa, con đường dẫn tới giác ngộ có năm con đường: đó là con đường công đức, chuẩn bị, chánh kiến, thiền định và vô-học. Và con đường Ba la mật có mười cấp độ hay mười bhumi (địa). Những che chướng nào đó được tẩy trừ khi bạn thành tựu cấp độ thứ ba, con đường chánh kiến; và những che chướng lớn hơn nữa được giải trừ khi bạn đạt được con đường thiền định. Khi một Bồ Tát đạt tới địa thứ tám của con đường Ba la mật, che chướng tư tưởng náo động thô sơ hoàn toàn được giải trừ. Nhờ phát triển tâm tới địa thứ chín và mười, Bồ Tát tẩy trừ ngay cả những che chướng vi tế, những vết nhơ trong tâm, hay những dấu vết để lại trong tâm do những che chướng của tư tưởng náo động như sự vô minh bám chấp vào cái tôi thì hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó.

 Trong khi cái tôi chỉ đơn thuần được quy gán cho các uẩn bởi tư tưởng, vô minh bám chấp vào cái tôi như cái gì độc lập, hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó. Do bởi những dấu vết để lại trên tâm thức, mọi sự xuất hiện như hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó. Tuy nhiên, ngay cả những che chướng vi tế này cũng hoàn toàn bị giải trừ khi tâm được phát triển tới địa thứ chín hay thứ mười. Khi phương thức chữa trị của con đường hoàn toàn ở trong tâm thì ngay cả một vết nhơ mỏng manh nhất cũng không còn. Vào lúc này, sự tương tục của tâm trở thành tâm toàn trí, hoàn toàn thấu suốt tất cả quá khứ, hiện tạivị lai không chút sai lầm; thấu suốt mọi tâm thức và ước muốn của chúng sinh; và thấu suốt mọi phương tiện khác nhau để hướng dẫn chúng sinh một cách hoàn hảo.

 Những chướng ngại cho sự thành công

 Để thành tựu điều này, chúng ta phải hoàn tất những chứng ngộ của con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ, hay lam rim. Việc phát triển tâm bạn trong con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ là điều quan trọng nhất và lợi lạc nhất đối với bạn, và đặc biệt là đối với những chúng sinh khác. Tuy nhiên, ngay cả việc thành tựu một vài hạnh phúc nhỏ bé trong đời này cũng gặp nhiều trở ngại. Ngay cả việc tìm một việc làm cũng mất nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Ngay cả trong việc kinh doanh, là công việc nhỏ bé để đạt được hạnh phúc chỉ cho cuộc đời này, cũng có nhiều chướng ngại. Vì thế dĩ nhiên là việc phát triển tâm bạn và thành tựu sự giải thoát vĩnh cửu của tâm toàn trílợi lạc của tất cả chúng sinh phải có nhiều chướng ngại. Do đó tất nhiên là có nhiều chướng ngại trong việc phát triển tâm bạn và thành tựu giải thoát vĩnh cửu của tâm toàn trí vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Có nhiều chướng ngại bên trong do những tư tưởng náo động gây ra: tâm bất mãn; tâm ích kỷ; tâm của những bận tâm thế tục, sự bám níu vào cuộc đời này và những toàn thiện trong sinh tử.

 Bận tâm thế tục mang lại rất nhiều vấn đề trong đời này: sợ hãi, lo lắng, ngã lòng, thậm chí tự tử. Tâm bám chấp này không cho phép những hoạt động hàng ngày của bạn trở thành đức hạnh, nguyên nhân của hạnh phúc. Hơn nữa, khi sự bận tâm thế tục xen vào việc bạn tìm kiếm hạnh phúc trong những đời sau, có nghĩa là nhận một tái sinh tốt lành, thậm chí sự bận tâm thế tục này không để cho bạn có đươc hạnh phúcan bình trong tâm từ giờ này sang giờ khác trong đời sống hiện tại của bạn.

 Cho dù bạn nỗ lực thực hành Pháp, sự bận tâm thế tục không cho phép việc thực hành của bạn trở thành Pháp thuần tịnh. Việc bám níu vào những toàn thiện trong sinh tử cũng khiến cho bạn tái sinh một lần nữa, vì thế bạn liên tục trải nghiệm nỗi khổ của cái chết và kinh nghiệm mọi vấn đề này. Nó không cho phép bạn thành tựu giải thoát vĩnh cửu khỏi đau khổ và những nguyên nhân của đau khổ.

 Nói chung, sự vô minh tin rằng cái ta, là cái chỉ đơn thuần được tư tưởng quy gán cho các uẩn, hiện hữu từ khía cạnh riêng của nó, là nguyên nhân chính của đau khổ. Vô minh này là cội gốc của mọi đau khổ. Nhưng cũng có tâm thức ích kỷ không cho phép bạn có chút bình an trong tâm. Chừng nào bạn còn liên tục theo đuổi thái độ ích kỷ, bạn sẽ không có bất kỳ sự buông xả nào, hạnh phúc nào. Ngoài việc làm hại bạn, thái độ ích kỷ liên tục mang tai họa đến cho tất cả chúng sinh khác – từ ngày này sang ngày khác, tháng ngày sang tháng khác, năm này sang năm khác, và đời này sang đời khác. Nó không cho phép những hoạt động của đời sống hàng ngày của bạn trở thành nguyên nhân khiến bạn thành tựu sự toàn giác, tâm toàn trí, vì chúng sinh. Tương tự như thế, sự tham luyến bám chấp vào những toàn thiện trong sinh tử không cho phép những hành động hàng ngày của bạn trở thành nguyên nhân của giải thoát.

 Cái nhìn đầy ảo tưởng tin rằng có một cái ta độc lập, mặc dù đó là một lẽ duyên sinh, không cho phép bạn nhận ra bản tánh tuyệt đối của cái tôi. Chừng nào bạn còn bám chấp vào cái tôi như hiện hữu thực sự, bạn không thể nào nhận ra bản tánh tuyệt đối của cái tôi. Theo cách này, bạn không có cách nào thoát khỏi đau khổ, thoát khỏi sinh tử. Việc theo đuổi vô minh bằng cách này không cho phép những hành động trong đời sống hàng ngày của bạn trở thành một phương cách chữa trị cho sinh tử, cho nguyên nhân của đau khổ và mọi vấn đề về hậu quả.

 Nương tựa Đức Tara

 Có rất nhiều chướng ngại bên trong đối với việc phát triển tâm thức của bạn, và những chướng ngại bên trong này tạo ra nhiều chướng ngại bên ngoài. Vì thế, để bạn có thể thành công trong việc thực hành Phápthể nhập con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ, bạn phải nương tựa vào một Bổn Tôn đặc biệt hay một vị Phật, chẳng hạn như Đức Tara. Mọi công hạnh của chư Phật đã hiển lộ trong Đức Tara, Đấng Giải Thoát chúng sinh - phương diện nữ của chư Phật – để giúp chúng sinh hoàn thành mỹ mãn hạnh phúc nhất thờitối hậu.

 Nhiều yogi Ấn Độ đã nương tựa Đức Tara. Nhờ nương tựa Đức Tara, họ đã hoàn tất con đườngthực hiện những tác phẩm vĩ đại cho việc giảng dạy và cho chúng sinh, dẫn dắt vô số chúng sinh trong con đường dẫn tới hạnh phúc nhất thờitối hậu. Chẳng hạn như đại học giả Lạt ma Atisha, người đã hoàn tất toàn bộ con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ, đã nương tựa Đức Tara.

 Lạt ma Atisha được Yeshe O, vị vua Pháp của Tây Tạng thỉnh mời để thiết lập lại và truyền bá Phật PhápTây Tạng. Lạt ma Atisha cũng biên soạn Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ,(1) là tác phẩm đã lập ra thuật ngữ con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ. Nhờ lắng nghe, quán chiếuthiền định về Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ, rất nhiều người đã đạt được giác ngộ.

 Ngoài việc làm lợi lạc cho những hành giả Tây Tạng đang thực nghiệm và thành tựu con đường dẫn tới giác ngộ, ngày nay, thậm chí bản văn của Lạt ma Atisha cũng mang lại lợi ích rộng rãiTây phương. Ánh sáng của giáo lý lam rim này đã xua tan rất nhiều vô minh, ngay cả trong tâm thức của nhiều ngàn người đang sống ở Tây phương. Bởi Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ hợp nhất mọi giáo lý của Đức Phật thành một thực hành tuần tự mà nhờ đó ai cũng có thể đạt được giác ngộ và nhiều hành giả đã có thể sử dụng nó để tu hành tâm thức trong con đường dẫn tới giác ngộ.

 Mặc dù Lạt ma Atisha đã thị tịch rất lâu ở Tây Tạng, ngài vẫn làm lợi lạc chúng ta bằng cách cho ta cơ hội để hiểu biết những giáo lý của con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ. Việc thấu hiểu và thực hành con đường này mang lại cho bạn lòng tin và nhiều hạnh phúc. Nhờ hiểu biết nguyên nhân của hạnh phúc, bạn có cơ hội để đạt được bất kỳ hạnh phúc nào bạn ước muốn. Đây là những công hạnh của Lạt ma Atisha làm lợi lạc tất cả chúng sinh.

 Lạt ma Atisha có thể hiến tặng những lợi lạc bao la này cho chúng sinh và các giáo lý nhờ tin tưởng vào Đức Tara. Trong suốt cuộc đời của Lạt ma Atisha, Đức Tara luôn luôn cho ngài những lời chỉ dạy. Khi Lạt ma Atisha phải quyết định về việc thực hiện những công trình cho chúng sinh – chẳng hạn như du hành sang Tây Tạng - ngài luôn luôn cầu xin Đức Tara, và sau đó làm theo những chỉ dẫn của Tara. Giống như thế, thời nay ngay cả những yogi Tây Tạng đang thể nhập con đường tuần tự dẫn tới giác ngộ, đạt được thành công to lớn trong việc phát triển tâm thức của họ, cũng nương tựa vào Đức Tara.

  Những lợi ích của thực hành Tara

 Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc; nó ngăn cản một tái sinh đau khổ trong đời sau của bạn; bạn nhận nhập môn từ hàng triệu vị Phật; và bạn thành tựu giác ngộ. Tuy nhiên, bên cạnh những điều này, thực hành Tara có nhiều lợi lạc khác. Việc trì tụng lời cầu nguyện Hai mươi mốt Đức Tara (2) với lòng sùng mộ vào lúc bình minh hay chạng vạng tối – hay tưởng nhớ Đức Tara, hát tụng những bài nguyện và tụng các thần chú bất kỳ lúc nào vào ban ngày hay đêm – che chở bạn khỏi nỗi sợ và những hiểm nguy, và đáp ứng mọi ước nguyện của bạn. Nếu bạn cầu nguyện Đức Tara, Ngài sẽ đặc biệt cứu giúp bạn thật nhanh chóng.

 Cũng có nhiều lợi lạc nhất thời nhờ thực hành Tara, hoặc bằng cách trì tụng thần chú Tara hay lời cầu nguyện Hai mươi mốt Đức Tara. Đức Tara có thể giải quyết nhiều vấn đề trong đời bạn: cứu bạn khỏi bị chết sớm; giúp bạn khỏi bệnh; khiến bạn thành công trong việc kinh doanh; giúp bạn tìm được việc làm; làm bạn giàu có. Khi bạn có một vấn đề thực sự nghiêm trọng, chẳng hạn như một chứng bệnh đe dọa sinh mạng, nếu bạn nương tựa Đức Tara, thì rất thường là bạn sẽ được gỡ ra khỏi vấn đề đó; bạn sẽ khỏi chứng bệnh đó. Nếu bạn ăn phải chất độc, nếu bạn nương tựa Đức Tara, chất độc sẽ không làm tổn hại bạn. Nhờ thực hành các lời cầu nguyệnthần chú của Đức Tara, những cặp vợ chồng khó có con sẽ có thể có một đứa con – trai hay gái như họ mong muốn. Đây là những kinh nghiệm hết sức thông thường. Nhờ các thực hành Tara, bạn có thể có được mọi hạnh phúc của đời này mà bạn ước muốn.

 Nếu bạn tụng lời cầu nguyện Hai mươi mốt Đức Tara mỗi buổi tối một lần thì không thể xảy ra việc bạn bị chết đói – tôi có thể bảo đảm điều này! Đó cũng là một kinh nghiệm hết sức thông thường đối với các cư sĩ, tăng và ni khó khăn về tài chánh và gặp những vấn đề như thế đã được cứu thoát nhờ thực hành Tara. Trong kinh nghiệm riêng của tôi, tôi đã từng thấy nhiều trường hợp những người đã trì tụng và nương tựa Đức Tara và được cứu thoát khỏi nguy cơ chết sớm vì bệnh tật mà không cần dùng thuốc.

 Ý nghĩa của TARE

 Thần chú Tara là OM TARE TUTTARE TURE SOHA. Để giải thích ý nghĩa của TARE TUTTARE TURE: TARE có nghĩa là giải thoát khỏi samsara (sinh tử). Từ Samsara này có nghĩa là những uẩn: sắc uẩn, hay thân thể vật lý; thọ uẩn; tưởng uẩn, hành uẩn, và thức uẩn. Những uẩn này mà cái tôi được quy gán, được tạo nên bởi những chủng tử ô nhiễm của nghiệp và những tư tưởng náo động (tư tưởng rối loạn). Dưới sự sai khiến của nghiệp và những tư tưởng náo động, thức uẩn trong đời trước xoay tròn tới đời này. Bởi những uẩn này bị ô nhiễm do chủng tử nghiệp và những tư tưởng náo động, trong việc gặp gỡ những đối tượng ưa thích và không đáng ưa, những tư tưởng náo động khác nhau như tham và sân xuất hiện. Khi chủng tử của những tư tưởng náo động hiện diện, một lần nữa bạn tạo nghiệp. Nghiệp và những tư tưởng náo động lại tạo nên thức uẩn để xoay vòng, hay kết hợp với các uẩn trong đời sau.

 Mặc dù thân thể thô nặng này không tiếp tục sang đời sau, nhưng thức uẩn thì đi tiếp tới đời sau. Từ đời này sang đời khác, nó liên tục xoay tròn (luân hồi). Từ đời này sang đời sau, từ đời trước tới đời hiện tại, thức uẩn xoay tròn. Nó kết hợp với những uẩn này trong hiện tại, sau đó hợp nhất với những uẩn trong đời sau. Đây là lý do tại sao những uẩn này được gọi là samsara (sinh tử), hay hiện hữu luân hồi.

 Vì thế, TARE cho thấy Mẹ Tara giải thoát chúng sinh khỏi sinh tử, khỏi nỗi khổ thực sự, hay thoát khỏi những vấn đề. Bạn có thể liên kết điều này với những nỗi khổ đặc biệt của nhân loại: sinh, lão, bệnh và tử; gặp những đối tượng không ưa thíchkinh nghiệm sự thù ghét; không tìm được những đối tượng ưa thích hay tìm được chúng nhưng không hài lòng. Cho dù bạn vui hưởng bao nhiêu lạc thú chăng nữa thì cũng không có sự mãn nguyện. Cho dù bạn theo đuổi dục vọng tới đâu chăng nữa thì bạn cũng chẳng mãn nguyện chút nào.

 Cũng thế, chẳng có gì là chắc chắn trong sinh tử. Bạn phải liên tục lìa bỏ thân xác, và liên tục nhận thân thể khác. Cũng giống như thế, bạn liên tục kinh nghiệm nỗi khổ của việc kết hợp với một thân thể khác.

 Bà mẹ trong đời hiện tại của bạn đến từ mẹ của bà, tức bà của bạn; bà của bạn đến từ bà mẹ khác; và bà mẹ đó đến từ bà mẹ khác. Cha của bạn thì cũng thế. Bạn có thể thấy thân thể mà bạn đang có này là một tập hợp của tất cả tinh dịch và máu huyết đã tiếp tục từ cha mẹ cho tới con cái trong vô số thế hệ không thể tưởng tượng nổi từ khi trái đất này tiến hóa, từ khi nhân loại bắt đầu. Tập hợp của tinh dịch này đi tới bạn qua cha bạn, ông của bạn, ông cố của bạn, và v.v.. Máu huyết thì cũng thế, nó đến với bạn qua mẹ bạn, bà của bạn, và v.v.. Bởi thân thể mà bạn hiện có này là một tiếp nối của toàn bộ tinh dịch và máu huyết từ tất cả những chúng sinh này, do đó không có chút thực chất nào để bám chấp, không có lý do gì để dính mắc vào thân thể này, vào sinh tử này. Chất thừa thãi từ mọi nhà vệ sinh trong một thành phố lớn đều tập trung vào một ống cống lớn – thân thể chúng ta cũng giống như ống cống lớn này.

 Bởi liên tục kết hợp với thân xác như thế, bạn liên tục kinh nghiệm những vấn đề. Nếu bạn ở địa vị cao, bạn rơi xuống địa vị thấp. Điều này liên tục xảy ra. Khi bạn sinh ra, bạn sinh ra một mình không có ai làm bạn đồng hành; khi bạn chết, bạn cũng chết một mình. Ngay cả thân thể này cũng không đồng hành với tâm thức; tâm thức phải đi một mình sang đời sau. Tất cả những điều này là những vấn đề của nỗi khổ thực sự. Nếu bạn nương tựa vào Đức Tara bằng cách quy y Ngài và làm những thực hành Tara – chẳng hạn như trì tụng thần chú hay các bài tán thán – với TARE, Đức Tara sẽ giải thoát bạn khỏi tất cả những đau khổ thực sự này.

  Ý nghĩa của TUTTARE

 Từ thứ hai, TUTTARE, giải thoát bạn khỏi tám nỗi sợ hãi. Có tám nỗi sợ liên quan tới những nỗi nguy hiểm bên ngoài đến từ lửa, nước, không khí, đất, và cũng từ những việc chẳng hạn như những kẻ trộm cướp và thú vật nguy hiểm. Tuy nhiên, những hiểm nguy chính yếu đến từ tham, sân, si, kiêu ngạo, ganh tỵ, bủn xỉn, nghi ngờtà kiến. Tám tư tưởng náo động này mà bạn có trong tâm là những nguy hiểm chính yếu. Nhờ nương tựa Đức Tara và thực hành Tara, bạn được giải thoát khỏi tám nguy hiểm bên trong này, tám tư tưởng náo động này. Theo cách này, bạn cũng được giải thoát khỏi những nguy hiểm bên ngoài, bởi những nguy hiểm bên ngoài này đến từ những tư tưởng náo động bên trong.

 Từ thứ hai, TUTTARE, giải thoát bạn khỏi tám nỗi sợ, giải thoát bạn khỏi nguyên nhân thực sự của đau khổ: nghiệp và những tư tưởng náo động hoàn toàn-sinh khởi. Hoàn toàn-sinh khởi có nghĩa là những tư tưởng náo động mang lại mọi khổ đau. Bằng cách nương tựa Đức Tara và thực hành Tara, bạn được giải thoát khỏi nguyên nhân thực sự của đau khổ: đây là ý nghĩa của TUTARE.

 Ý nghĩa của TURE

 Từ thứ ba, TURE, giải thoát bạn khỏi bệnh tật. Trong Bốn Chân lý Cao quý (Tứ Diệu Đế), TURE biểu thị sự ngừng dứt của đau khổ (Đạo Đế), là Pháp tối hậu. Về mặt giải thoát khỏi bệnh tật, bệnh tật thực sự mà ta có là sự vô minh (si) không biết bản tánh tuyệt đối của cái ta, và mọi tư tưởng náo động phát khởi từ sự vô minh này. Đây là những bệnh tật thực sự, trầm trọng mà ta mắc phải. Với sự ngừng dứt tất cả những bệnh tật này của những tư tưởng náo động, mọi đau khổ thực sự, mọi vấn đềhậu quả, cũng được ngừng dứt. Bởi giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật, TURE thực sự giải thoát chúng ta khỏi nguyên nhân thực sự, những tư tưởng náo động, và cũng giải thoát ta khỏi những đau khổ thực sự.

 Làm thế nào chúng ta có thể thành tựu Pháp tối hậu này, sự ngừng dứt thực sự nguyên nhân và kết quả của đau khổ? Điều gì có thể dẫn dắt ta tới trạng thái này, sự ngừng dứt đau khổ, là ý nghĩa của TURE? Bạn thành tựu điều này bằng cách thực hành con đường chân chính. Như được biểu lộ trong những con đường của Thừa Thấp của các vị Thanh VănĐộc Giác, và trong con đường Đại Thừa, con đường chân chínhtrí tuệ trực tiếp nhận thức tánh Không. Đây là Pháp tuyệt đối. Việc thể nhập trí tuệ này trong tâm ta dẫn ta tới trạng thái ngừng dứt đau khổ. Con đường chân chính này được bao hàm trong TUTARE, giải thoát ta khỏi tám nỗi sợ hãi – từ giải thoát gián tiếp biểu thị con đường chân chính. Và như tôi vừa giải thích, từ thứ ba, TURE, giải thoát bạn khỏi bệnh tật thực sự, là những tư tưởng náo động.

 Để kết luận, nhờ nương tựa (quy y) Đức Tara, làm các thực hành Tara chẳng hạn như trì tụng thần chú Tara, và thực hành con đường được bao hàm trong thần chú đó, bạn có thể thành tựu trạng thái toàn giác với bốn kaya (thân), là sự ngừng dứt, giải thoát khỏi hai che chướng. Tóm lại, OM TARE TUTTARE TURE SOHA có nghĩa là “Con đảnh lễ Đấng Giải thoát, Mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng.” Tara là mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng, hay chư Phật. Tại sao chư Phật được gọi là các Đấng Chiến Thắng? Đó là bởi các Ngài chiến thắng hai che chướng.

 Mẹ Tara

 Đức Tara được gọi là Mẹ là bởi bà mẹ sinh ra những đứa con. Ý nghĩa thực sự của Tara là trí tuệ siêu việt của đại lạctánh Không bất-nhị, là trí tuệ thấu suốt chân lý tuyệt đốitương đối của mọi sự hiện hữu. Đây là guru (Đạo sư) tuyệt đối, guru đích thực – và chúng ta nên thấu hiểu ý nghĩa đích thực này của guru. Mặc dù chư Phật có những phương diện (diện mạo, hình tướng) khác nhau và những danh hiệu khác nhau, nhưng tất cả chư Phật đều được sinh ra từ trí tuệ siêu việt của đại lạctánh Không bất-nhị này, là Pháp thân. Trong thực tế, mỗi vị Phật là hiện thân của guru tuyệt đối này: một hiển lộ trong nhiều; nhiều hiển lộ trong một. Guru tuyệt đối hiển lộ trong tất cả những phương diện khác nhau này của Phật; tinh túy của tất cả chư Phật là guru tuyệt đối. Ý nghĩa thực sự của guru, guru tuyệt đối, hiển lộ trong diện mạo (hình tướng) bình thường là guru chân lý-tương đối, vị Lạt ma mà từ ngài bạn trực tiếp nhận những giáo lý.

 Như Khedrup Sangye Yeshe đã giải thích: “Trước guru, thậm chí danh hiệu ‘Phật’ cũng không có.” Toàn bộ Guru Puja biểu lộ rằng nền tảng là guru, Pháp thân, trí tuệ siêu việt của đại lạctánh Không bất-nhị. Ngay từ lúc khởi đầu, trong khi kinh nghiệm đại lạc, chúng ta hiển lộ như guru-deity (Bổn Tôn-Đạo sư). Ngay cả việc tiền-phát triển ruộng công đức cũng xuất phát từ đại lạctánh Không bất khả phân, và từ ruộng công đức này chúng ta nhận lễ nhập môn; chúng ta khẩn cầu được ban phước (gia trì) để phát triển những chứng ngộ của con đường tuần tự tới giác ngộ từ lúc bắt đầu cho tới khi chấm dứt; và chúng ta cũng thực hiện bốn loại cúng dường (ngoài, trong, bí mậttuyệt đối). Chúng ta tu hành tâm thức với những thiền định này, là những gì xuất phát từ đại lạctánh Không bất-nhị.

 Trước tiên chúng ta gặp guru bên ngoài và riêng rẽ. Sau khi nhận giáo lý, ta lắng nghe, quán chiếuthiền định về con đường do guru này biểu lộ. Trên nền tảng của lòng sùng mộ đúng đắn đối với guru, dần dần chúng ta thể nhập phương cách chữa trị của con đườnggiải trừ những che chướng của ta. Khi những che chướng của ta hoàn toàn được giải trừ, chúng ta gặp gỡ guru trong tâm thức.

 Trên nền tảng thể nhập Ba nguyên lý của Con Đường, chúng ta nhận lãnh bốn nhập môn viên mãn Yoga Tantra Tối thượng, là những nhập môn chắc chắn gieo trồng những chủng tử của bốn thân trong tâm thức chúng ta. Điều này cho phép ta thực hành sự hợp nhất tịnh quang và huyễn thân. Bằng cách dần dần thể nhập con đường này, chúng ta có thể hoàn toàn cắt đứt ngay cả quan điểm nhị nguyên vi tế, ngừng dứt ngay cả những tâm thô nặng của những thị kiến trắng, đỏ và tăm tối, là những thị kiến còn vi tế hơn những tâm thức thô nặng vừa đề cập nhưng thô lậu hơn khi so sánh với tâm vi tế của tịnh quang.

 Khi bạn thành tựu Pháp thân, trí tuệ siêu việt của đại lạctánh Không bất-nhị, bạn đã thành tựu guru (Đạo sư). Bạn đã thành tựu ước muốn được biểu lộ trong lời nguyện hồi hướng thường dùng của chúng ta: “Nhờ tất cả những công đức này cầu mong con nhanh chóng thành tựu sự giác ngộ của Đức Phật-Đạo sư, và dẫn dắt mỗi một chúng sinh tới sự giác ngộ của Đức Phật-Đạo sư.” Trong thực tế, nhờ tu hành tâm thức của bạn trong những thiền định này, phát triển tâm bạn trong con đường, dòng tương tục của tâm bạn trở thành dòng tương tục của guru. Trong tương lai, bạn thực sự trở thành guru mà bạn đã quán tưởng.

 Vì thế, tất cả chư Phật đều sinh ra từ guru tuyệt đối, trí tuệ siêu việt của đại lạctánh Không bất-nhị, là ý nghĩa thực sự của Mẹ. Trí tuệ siêu việt này, tâm vi tế hoàn toàn thuần tịnh này, hiển lộ trong phương diện (hình tướng, diện mạo) nữ nhân này, là vị được quy gán là “Tara”.

 Thường thì trẻ con cảm thấy gần mẹ hơn cha. Khi chúng gặp rắc rối gì, hầu hết trẻ con kêu đòi mẹ chúng. Tôi không hiểu biết về phương Tây, nhưng ở phương Đông thì ngay cả những người trưởng thành, khi bị đau khổ hay gặp những vấn đề nghiêm trọng, họ đều nương tựa mẹ của họ.

 Cha tôi chết khi tôi còn nhỏ, và tôi không nhớ chút gì về diện mạo của ông. Người ta nói ông có một bộ râu ở cằm, ông đọc các bản văn rất hay và ít nói. Tất cả những gì tôi có thể nhớ rõ ràng là chiếc chuba (áo choàng dài) bằng da cừu của cha tôi. Mọi người trong gia đình ngủ dưới chiếc chuba vĩ đại ấy – nó là chiếc mền của chúng tôi. Cả nhà cố gắng để nằm dưới nó. Tôi có thể nhớ điều đó thật rõ ràng. Tôi được giới thiệu với chiếc chuba của cha tôi – đó là tất cả những gì tôi nhớ.

 Vì thế mẹ tôi là người lớn duy nhất trong nhà. Chị tôi, vì lớn hơn một chút, có thể giúp đỡ mẹ tôi chút ít bằng cách đưa súc vật của chúng tôi ra núi và dẫn chúng về nhà. Nếu không, những đứa trẻ khác trong nhà – tất cả có ba đứa, kể cả tôi – thật là vô dụng. Bởi chị tôi phải trông coi súc vật nên một mình mẹ tôi phải cáng đáng mọi công việc khó nhọc.

 Một hôm mẹ tôi phải đi vào rừng để lấy củi. Chúng tôi chờ ở ngoài cửa. Bởi không đứa nào trong chúng tôi có thể nấu nướng, chúng tôi ra ngoài chờ bà về và cho chúng tôi ít thức ăn. Bà từ rừng trở về thật muộn với một gánh củi rất nặng. Sau khi về tới nhà, bà không đốt nổi một ngọn lửa vì bà bị bệnh, rất đau đớn. Lò không có lửa và không có thực phẩm. Bà nằm xuống cạnh lò sưởi, kêu gào mẹ của bà: “Ama! Ama!” Lúc đó bà tôi vẫn còn sống, ở khá gần chúng tôi, có lẽ khoảng năm hay mười phút đi bộ.

 Ba đứa chúng tôi – tôi, anh Sangye, và một đứa em khác có bím tóc nhỏ sau lưng, và sau này đã chết – không biết phải làm gì. Chúng tôi chỉ ngồi quanh lò sưởi nhìn mẹ tôi. Không có lửa; không ai trong chúng tôi có thể nhóm lửa. Chúng tôi chỉ ngồi và nhìn mẹ.
 Cũng giống như thế, bằng cách này hay cách khác, ngay cả những người đã trưởng thành cũng kêu cầu mẹ của họ khi họ đau khổ hay gặp vấn đề thật sự nghiêm trọng. Tuy nhiên, Đức Tara thì còn gần gũi, thân thiết với chúng ta hơn mẹ của ta.

 Ý nghĩa của OM TARE TUTTARE TURE SOHA

 Phương diện nữ này, Đức Tara, Mẹ của tất cả các Đấng Chiến Thắng, dẫn dắt bạn và chúng sinh thoát khỏi hiểm nguy của việc bị rơi vào sinh tử hay Niết bàn thấp, và dẫn dắt bạn tới trạng thái viên mãn của sự giác ngộ, là trạng thái được bảo đảm bằng năm trí tuệ siêu việt và bốn thân.

 Nghĩa thô của ba từ TARE TUTTARE TURE này là: “Đối trước Ngài, hiện thân những công hạnh của tất cả chư Phật, dù con ở trong hoàn cảnh hạnh phúc hay bất hạnh, con luôn luôn đảnh lễ với thân, ngữ và tâm con.”

 Mọi con đường (Thừa Thấp, Đại Thừa, Ba la mật Thừa, Mật Thừa) từ lúc khởi đầu cho tới khi giác ngộ đều được bao hàm trong TARE TUTTARE TURE. Phương cách chữa trị của con đường và mọi che chướng mà nó giải trừ đều bao hàm trong TARE TUTTARE TURE. Đối với lam rim, TARE là con đường tuần tự của chúng sinh hạ căn; TUTTARE, con đường tuần tự của chúng sinh trung căn, và TURE, con đường tuần tự của chúng sinh thượng căn. Mọi đặc điểm chính của những thiền định lam rim được bao hàm trong thần chú này. Trong thần chú TAYATA OM MUNI MUNI MAHAMUNIYE SOHA, MUNI MUNI MAHAMUNIYE cũng có thể có quan hệ với lam rim theo cách này.

 Từ cuối cùng SOHA có nghĩa là thiết lập cội gốc của con đường trong tim bạn. Nói cách khác, bằng cách nương tựa Đức Tara và làm thực hành Tara, bạn nhận lãnh những sự ban phước của Đức Tara trong trái tim bạn. Điều này cho bạn không gian để thiết lập cội gốc của con đường, được biểu thị bởi TARE TUTTARE TURE, trong tim bạn. Bằng cách thiết lập con đường của ba căn cơ chúng sinh trong tim bạn, bạn tịnh hóa mọi bất tịnh của thân, ngữ và tâm bạn, và thành tựu thân linh thánh, ngữ linh thánh, và tâm linh thánh của Đức Tara, được biểu thị bằng OM. Thân, ngữ và tâm bạn được chuyển hóa thành thân linh thánh, ngữ linh thánh và tâm linh thánh của Đức Tara. Đây là ý nghĩa thô của OM TARE TUTTARE TURE SOHA.

  Quán tưởng Đức Tara

 Khi bạn trì tụng thần chú, hãy quán tưởng Đức Tara trong không gian trước mặt bạn, ngang với trán bạn, ở một khoảng cách vừa phải - khoảng bề dài một thân người. Như tôi đã đề cập khi giảng nghĩa thần chú, trước tiên hãy nghĩ tới trí tuệ siêu việt của đại lạc của tất cả chư Phật, trí tuệ ấy hoàn toàn thấu suốt mọi sự hiện hữu. Hãy nghĩ tới tâm linh thánh này của Pháp thân, guru (đạo sư) tuyệt đối. Bởi tâm linh thánh của tất cả chư Phật, guru tuyệt đối, được ràng buộc bởi lòng đại bi đối với bạn và tất cả chúng sinh, những người bị ngăn che và đau khổ dưới sự sai khiến của nghiệp và những tư tưởng náo động, tâm linh thánh ấy hiển lộ trong thân tướng nữ nhân đặc biệt này của Đức Tara. Điều này xảy ra là nhờ lòng bi mẫn. Giống như bạn hành động dưới sự sai khiến của sân hậntham luyến, chư Phật làm việc vì bạn và chúng sinh dưới sự hướng dẫn của lòng bi.

 Tâm linh thánh của tất cả chư Phật hiển lộ trong Đức Tara, phương diện (hình tướng) nữ nhân này. Diện mạo của Ngài ra sao? Đức Tara mang tính chất của ánh sáng xanh lục, với một mặt và hai tay. Ngài có vẻ mặt thật an bình và hơi mỉm cười. Tóc Ngài đen tuyền, một nửa được búi lên và một nửa buông chùng, và tô điểm một hoa utpala (hoa sen xanh) trên đỉnh đầu. Đức Tara trang điểm những vật trang sức quý giá gồm chuỗi hạt, xuyến, băng tay, và v.v.. Đôi mắt Ngài tràn đầy thương yêu và bi mẫn, không mở lớn nhưng hơi tròn và trong sáng. Đôi mắt của Đức Tara biểu lộ lòng bi mẫn đối với bạn, giống như cái nhìn thương yêu mà một bàn mẹ gởi cho đứa con thân yêu duy nhất của bà. Bàn tay phải Ngài cầm một cành hoa utpala, trong ấn ban những chứng ngộ siêu việt. Bàn tay trái cầm một cành hoa utpala khác, ba ngón tay hướng thẳng lên biểu thị sự nương tựa Phật, Pháp và Tăng đoàn.

 Với bộ ngực hoàn toàn bày lộ, Đức Tara trang điểm một chuỗi hạt quý giá, ngoài ra còn có những vòng hoa quý báu và những khăn choàng cổ khác nhau. Chân phải của Ngài duỗi ra, và chân trái co lại. Phía sau Ngài là một đĩa mặt trăng. Đức Tara tô điểm những dấu hiệu thiêng liêng viên mãn và những minh họa của một vị Phật. Trên trán Ngài có một chữ OM trắng, tinh túy của thân kim cương linh thánh; ở cổ Ngài, một chữ AH đỏ, tinh túy của ngữ kim cương linh thánh; và ở tim Ngài, một chữ HUNG xanh dương, tinh túy của tâm kim cương linh thánh.

 Từ chữ OM, những tia cam lồ trắng phóng ra, đập mạnh vào trán bạn, và đi vào người bạn để tịnh hóa mọi che chướng và nghiệp tiêu cực bạn đã tích tập với thân bạn từ những tái sinh tự vô thủy cho tới bây giờ. Từ chữ AH ở cổ họng của Đức Tara, những tia cam lồ đỏ được phóng ra và đập vào cổ họng của bạn; mọi che chướng và nghiệp tiêu cực được tích tập với ngữ của bạn được hoàn toàn tịnh hóa. Kế đó, từ chữ HUNG nơi tim Đức Tara, những tia cam lồ xanh dương được phóng ra và đi vào tim bạn; mọi che chướng và nghiệp tiêu cực được tích tập với tâm bạn từ những tái sinh tự vô thủy tới nay được tịnh hóa. Nhờ lòng bi mẫn đối với bạn và tất cả chúng sinh, Mẹ Tara đã tịnh hóa bạn. Hãy tập trung vào điều này khi bạn trì tụng thần chú OM TARE TUTTARE TURE SOHA. Hoặc nếu bạn muốn, bạn có thể quán tưởng Đức Tara trên đỉnh đầu bạn như trong sadhana Tara ngắn gọn. (2)

 Khi bạn chấm dứt việc thiền định, hãy cầu nguyện Đức Tara: “Không trì hoãn ngay cả một giây, cầu mong con trở thành Đức Tara và trong mỗi giây giải thoát vô số chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ của họ và dẫn dắt họ tới sự toàn giác.”

 Hãy cầu nguyện được thành tựu ước nguyện này bằng việc phát triển Bồ đề tâm, ước nguyện thành tựu Tara vì lợi lạc của chúng sinh. Bởi bạn không theo đuổi tâm ích kỷ mà đã chuyển hóa thái độ của bạn thành thái độ sử dụng đời bạn để phụng sự chúng sinh, giúp họ đạt được hạnh phúc nhất thờitối hậu, Đức Tara hết sức hài lòng bạn. Việc bạn thực hành tư tưởng từ bi của Bồ đề tâmgiới hạnh, có nghĩa là giữ gìn giới nguyện của bạn, đã làm Đức Tara vui lòng hơn hết. Những thực hành Đại thừa cốt tủy này là những món cúng dường tuyệt vời nhất bạn có thể dâng lên Đức Tara; những thực hành này đưa bạn tới gần Đức Tara hơn, khiến Ngài nhanh chóng trợ giúp để mọi hoạt động của bạn được thành công. Việc Đức Tara cứu giúp bạn nhiều hay ít thì tùy thuộc vào việc bạn thực hành cốt tủy của giáo lý Đại thừa tới mức độ nào.

 Như thế, do bởi thái độ Bồ đề tâm của bạn, Đức Tara hết sức hài lòng bạn; Ngài tan thành ánh sáng xanh lục, đi vào trán bạn, và thấm nhập vào trái tim bạn. Hãy nghĩ: “Thân, ngữ và tâm tôi đã được ban phước (gia trì) để trở thành thân linh thánh, ngữ linh thánh và tâm linh thánh của Đức Tara.” Nhờ nhận lãnh những sự ban phước của Đức Tara với một tâm an tĩnh, sùng mộ, bạn gieo trồng chủng tử để phát triển tâm bạn và thực sự thành tựu Tara.

 Sau khi thấm nhập, nếu bạn muốn, hãy tập trung nhất tâm vào bản tánh của tâm linh thánh của Đức Tara. Sau đó hãy kết thúc thực hành của bạn bằng cách hồi hướng công đức cho sự phát triển Bồ đề tâm và việc thành tựu Tara của bạn, để dẫn dắt mọi chúng sinh đạt được giác ngộ của Đức Tara càng nhanh càng tốt.

 Để truy cập một bản in Những Lời Tán thán 21 Đức Tara bằng Tạng ngữ và Anh ngữ, xin đọc website của FPMT. (2)

 Nguyên tác: “Tara The Liberator” by Lama Zopa Rinpoche
 http://www.lamayeshe.com/lamazopa/tara.shtml
 Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

 Chú thích:
 (1) Xin đọc: “Ngọn Đèn Soi Đường Giác ngộ”, bản dịch Việt ngữ của Hồng Như:
 (2) Xin đọc:
 - “Tán Dương 21 Đức Quan Âm Tara”, Việt, Anh và Tạng ngữ, bản dịch Việt ngữ của Hồng Như:
 - “Phương pháp Hành trì Lục Quan Âm, Suối nguồn của Vạn Pháp”, bản dịch Việt ngữ của Tâm Bảo Đàn và Chơn-Pháp Nguyễu Hữu Hiệu:
 - “Giọt Bất tử Tuyệt vời: Pháp Hành trì Mạn đà la Trường thọ của Đức Bạch Quan Âm” bản dịch Việt ngữ của Tâm Bảo Đàn:
 - “Hai mươi mốt Đoản kệ Tán thán Quan Âm” bản dịch Việt ngữ của Tâm Bảo Đàn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23030)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14050)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12977)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55109)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9168)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14443)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14204)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13883)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36321)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19883)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19223)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19156)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20287)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17638)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31534)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15939)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15021)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46174)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35936)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21049)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21601)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23399)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18946)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20192)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18368)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19842)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33415)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54519)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21133)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17879)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63650)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17388)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27441)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23034)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18892)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17921)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20937)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17365)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14472)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16372)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17474)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21980)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15101)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13505)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14366)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15396)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14986)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12698)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13350)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14486)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16237)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12409)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12869)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12204)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13201)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21649)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11280)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46184)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14582)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18904)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14737)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43863)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13837)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13655)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14575)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29013)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33318)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38386)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15404)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12528)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43420)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46665)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14418)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant