Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khyentse - Từ biTrí tuệ

09 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15893)
Khyentse - Từ bi và Trí tuệ
KHYENTSE – TỪ BITRÍ TUỆ 
Dzongsar Khyentse Rinpoche
Tuệ Tạng dịch

 

dzongsar_jamyang_khyentse_rinpoche-01Sau lễ đăng ngôi của vị tulku của ngài Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpohe ở Nepal, tháng 12 năm 1997, Đức Dzongsar Khyentse Rinpoche đã ban một bài Pháp thoại về ý nghĩa của từ “Khyentse.”

Trong Kim Cương thừa, ý tưởng về một Guru [Đạo sư] rất đặc biệt. Và rất nhiều người trong số chúng tađệ tử của Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, và đây là buổi lễ đăng ngôi của hóa thân ngài. Một cách ngắn gọn, mọi hóa thân Khyentse được xem là hóa thân của Đức Vimalamitra và Vua Trisong Deutsen.

Ngài Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại là một trong các bậc tiên phong quan trọng nhất trong Phật giáo nói chung và Kim Cương thừaTây Tạng nói riêng, không chỉ bởi ngài là một ông lớn với địa vị cao mà bởi sự chứng ngộ tâm linh của ngài. Cùng với Jamgon Kongtrul, Chogyur Lingpa và Jamyang Loter Wangpo, ngài thực sự đã bắt đầu phong trào Rime [Bất bộ phái]. Ngài không chỉ là một học giả, một vị thánh, mà còn được coi là một trong năm Đại Khai tạng mật vương. Ngài có năm hóa thân – [về] thân, khẩu, ý, phẩm tính và hoạt động. Và hóa thân về tâm là Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, người cũng có những phẩm tính tương tự như Jamyang Khyentse Wangpo vĩ đại.

 

Từ “khyentse” nghĩa là trí tuệtừ bi: Và với những ai đã gặp Đức Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche, hóa thân trước kia, tôi chắc chắn bạn sẽ nhớ ngài là hiện thân về trí tuệtừ bi và ngài thực sự đại diện cho điều đó. Thật khó cho chúng ta, những kẻ ngu dốt, mặc dù có thể hiểu trí tuệtừ bi một cách máy móc, thực sự nhận ra tấm gương của trí tuệtừ bi này. Vô cùng hiếm có. Nhưng rất nhiều người trong số chúng ta đã có cơ hội gặp được hóa thân trước kia, và bây giờ chúng ta có cơ hội lớn lao gặp được bậc tái sinh của ngài, bởi các hành động nghiệp trong quá khứ. Và mặc dù tôi bị kéo vào buổi Pháp thoại này bởi Tulku Pema Wangyal, tôi đoán rằng mình nên coi bản thân là ai đó rất may mắn có được cơ hội tích lũy công đức bằng cách nói ra vài lời về Pháp.

Bởi vậy tôi quyết định rằng tôi sẽ nói vài lời về từ “khyen” và “tse” bởi vì chúng ta đều biết có rất nhiều các vị Khyentse và chúng ta cũng biết có rất nhiều quan niệm được gọi là trí tuệtừ bi. Bây giờ, như tôi đã nói, từ “khyen” liên quan đến trí tuệ hay sự hiểu biết. Ở đây chúng ta không nói về kiểu trí tuệ thông thường hay cách hiểu bình phàm. Trí tuệ ở đây là tâm biết được chân lý tối thượng của mọi hiện tượng. Tôi sẽ đưa ra vài ví dụ tại sao trí tuệ lại cần thiết, nhìn chung các vấn đề của chúng ta xảy ra bởi vì chúng ta không biết thứ gì đó. Sự hiểu lầm nhỏ bé của ta xảy đến khi chúng ta không thấu hiểu hoàn toàn. Chúng ta có rất nhiều nhầm lẫn. Chúng ta có kiểu ngu dốt này bởi vì các thói quen trong quá khứ.

Mặc dù một vài người có thể hiểu chút ít về trí tuệ, thật khó để có trí tuệ bởi vì trong Đạo Phật, khi chúng ta nói về trí tuệ, chúng ta đang nói đến trí tuệ giải thoát bản thân khỏi mọi vô minh. Và rất nhiều lần, những điều mà chúng ta cho là trí tuệ, trên thực tế không phải trí tuệ. Trong Đại thừa, trí tuệ là tâm hiểu được vô ngã hay tâm hiểu được khía cạnh trống rỗng của ngã. Nhưng mặc dù cũng dễ dàng để nghiên cứu điều đó, thực sự rất khó để trải nghiệm nó. Điều này là bởi sự bám chấp nhiều đời vào ngã.

Trong Đạo Phật, chúng ta nói về luân hồiniết bàn. Luân hồi là nơi có tất cả vô minh. Khi chúng ta nói về ngu dốt hay vô minh như là bám chấp vào ngã, chúng ta không nói đến một lỗi lầm thực sự tồn tại trong ta và rằng sau đó chúng ta phải tịnh hóa. Trên thực tế, mọi vô minh này, tất cả ngu dốt, đều không tồn tại. Nhưng bởi vì sự bất cẩn của ta, ta nghĩ chúng tồn tại. Chúng ta quá tham luyến với sự tồn tại của ngã và chúng ta bận rộn như là nô lệ của ngã. Nhưng như tôi đã nói nhiều lần, người ta có thể hiểu một cách không chính xác về trí tuệ thông qua nghiên cứu và thọ nhận giáo lý, nhưng để thực sự hiểu trí tuệ, họ cần rất nhiều công đức.

Điều này đúng với cả lòng sùng mộ. Khá dễ để hiểu lòng sùng mộ là gì, nhưng để có lòng sùng mộ, người ta cũng cần nhiều công đức. Một người không thể có lòng sùng mộ cho đến khi họ có công đức. Tôi nghĩ rằng không chỉ các phẩm tính giác ngộ, tâm linh như là trí tuệ, từ bi hay sùng mộ, mà thậm chí hạnh phúc đơn thuầnchúng tatrong đời sống hàng ngày cũng phụ thuộc vào công đức.

Ví dụ, … bây giờ tôi sẽ thoải mái một chút. Nếu ai đó như như người thông dịch của tôi nói với vị ni này, “Sư thật đẹp!,” nó phụ thuộc rất nhiều vào công đức mà vị ni này có. Nếu bà có công đức để có được một thời gian dù ngắn ngủi hạnh phúc, lời tán dương đó sẽ mang đến nhiều hạnh phúc. Nếu bà ấy không có hạnh phúc, lời đánh giá này của người thông dịch sẽ chỉ gây ra các vấn đề. Ví dụ như, nó có thể khơi lên sự mong chờ [nhưng] có thể anh ta [người thông dịch] chỉ lịch sự mà nói vậy. Nhưng bởi vì không có đủ công đức để hiểu lời đánh giá chính xác, vị ni có thể mong chờ và có thể theo anh ta đi bất cứ đâu! Và nếu anh ta là kiểu người kiên nhẫn hay khéo léo, nó có thể ổn thỏa. Nhưng tôi không nghĩ anh ta có thể nói rằng bà ấy đẹp mỗi ngày. Bởi vậy, công đức, Sonam trong tiếng Tạng, là một trong những phẩm tính quan trọng nhất, thực sự ảnh hưởng đến rất nhiều thứ. Tôi chắc rằng bạn đã trải qua trong cuộc đời một điều gì chắc chắn, khiến bạn không vui, và đó là bởi công đức.

Bạn có thể băn khoăn, “Làm sao người ta có được công đức?” Một cách kỳ lạ, để có được công đức, bạn cần có công đức. Công đức là nguồn gốc của công đức. Đây là phần khó khăn trong thực hành Đạo Phật. Một mặt, có một ý tưởng trọn vẹn về trí tuệ, vượt khỏi mọi quan niệm, vượt khỏi mọi tập khí. Nhưng để có được trí tuệ này, chúng ta nói về công đức đến cùng với những cảm xúc. Điều này cũng đúng với tánh không. Đó là thứ chúng ta phải chứng ngộ. Nhưng để chứng ngộ chúng ta cần công đức, như là hát hay và cúng dường lên bậc Đạo sư [điều mà những người bên ngoài đang làm] và như một vài người trong các bạn kiên nhẫncố gắng lắng nghe điều tôi nói và cùng lúc không bị xao lãng bởi những tiếng trống ngoài kia. Họ có thể tích lũy công đức theo cách này.

Có hai cách lớn để tích lũy công đức. Từ bi với hữu tình chúng sinh và sùng mộ với Phật, Pháp, Tăng và Đạo sư. Trên thực tế, chúng ta có thể cô đọng điều này thành một lòng từ bi bởi vì, khi chúng ta nói về Đại thừa, chúng ta nói đến lòng từ bi.

lòng từ bi như vậy cũng là sùng mộ trong Kim Cương thừa. Bởi vậy đây là khía cạnh của từ Khyentse, tsewa hay từ bi. Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên. Đó là từ bi. Nhưng với nhiều người trong số chúng ta thật khó để khởi lên từ bi. Có rất nhiều chướng ngại cho từ bi và những điều đối nghịch với nó, như là ích kỷ, bám chấp vào ngã lại rất mạnh mẽ. Và có rất nhiều thuận duyên cho bám chấp đó.

Tôi không thể nói về các bạn, mà nếu tôi nói về những kinh nghiệm của bản thân, thật khó để có lòng từ bi chân chính dù chỉ vài giây. Nhưng nếu tôi đọc giới nguyện, những lời cầu nguyện và khẩn nguyện Bồ đề tâm hay bất cứ thứ gì, và mặc dù tôi hiểu ý nghĩa, luôn ẩn đằng sau là sự ích kỷ. Bạn biết rằng, trong Kinh điển Đại thừa, có rất nhiều kiểu Bồ đề tâm khác nhau. Nhưng kiểu tối thượng nhất là bồ đề tâm, mong muốn giác ngộ cho tất thảy hữu tình chúng sinh, người mong muốn đạt đến giác ngộ sau khi tất thảy hữu tình đạt giác ngộ. Đó là kiểu bồ đề tâm rất khó chứng ngộ.

Tôi không biết liệu rằng bạn có như vậy không. Nhưng tôi thì có. Tôi không quan tâm nhiều đến người khác. Và tôi thường coi bản thân là tốt, thậm chí chỉ muốn đạt đến giác ngộ. Rất nhiều người thậm chí không muốn giác ngộ. Nhưng ít nhất tôi muốn giác ngộ. Mặc dù, chỉ với tôi! Nó cũng có thể xảy ra với bạn. Khi chúng ta cúng dường lên Phật, Pháp và Tăng, mặc dù chúng ta nói rằng điều này là vì hữu tình chúng sinh, tâm chúng ta luôn hướng đến một kết quả cho bản thân. Bởi vậy từ bi với hữu tình chúng sinh khá khó với tôi. Do đó tôi đoán đây là nguyên nhân tôi thích Kim Cương thừa, ở đó lòng sùng mộ được dạy là kiểu từ bi cao hơn.

Ít nhất là một người mới, một chúng sinh vô minh, khi bạn bắt đầu thực hành lòng sùng mộ, bạn có thể bắt đầu với một người như Đạo sư của bạn. Sẽ dễ hơn nhiều để ngưỡng mộ ai đó thay vì chịu trách nhiệm cho mọi người. Và tôi đoán tôi phải được tẩy não bởi mọi người như là ngài Jigme Lingpa. Tổ Jigme Lingpa nói rằng nhiều năm trì tụng thần chú và đọc các nghi quỹ cũng như làm lễ puja là rất tốt, nhưng không là gì so với một phút thiền định bởi thiền định hòa tâm chúng ta nhiều hơn. Sau đó ngài nói rằng nhiều năm thiền định không là gì với một giây nhớ đến Đạo sư. Và đây là lý do tôi nghĩ rằng thực hành lòng sùng mộ rất mạnh mẽ và tràn khắp.

Nhưng tôi hiểu rằng rất nhiều người gặp khó khăn với lòng sùng mộ. Với những người đã gặp các bậc đạo sư vĩ đại như Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche (như chính tôi, đã may mắn gặp ngài), tôi đoán chúng ta ít khó khăn hơn trong việc có quan điểm linh thiêng này. Nhưng với những ai phải kết thúc với nhiều người như tôi, tôi hiểu tại sao lòng sùng mộ lại khó thế! Bởi vì trước hết ngày nay, bạn thậm chí không có sự tin tưởng nhiều vào Đạo sư.

Một lần nữa, tôi sẽ nói với bạn về vài trải nghiệm của tôi, nhưng tôi biết rất nhiều người ở đây là đệ tử Pháp lâu năm, bởi vậy bạn đã nghe những điều này nhiều lần. Tôi nói rằng, niềm tin tưởng trọn vẹn nơi Đạo sư là khá khó khăn. Ví dụ, gần đây khi tôi đang thực hành Đạo sư Du già [Guru Yoga], tôi thực hành Pháp này theo bản văn, quán tưởng Đạo sư phía trước mặt và nhiều điều khác, và lúc thỉnh cầu sự gia trì, cả gia trì thông thường và siêu việt, … Dĩ nhiên, với gia trì siêu việt, chúng ta thỉnh cầu sự giác ngộ, phát triển trí tuệ, xua tan ngu dốt, … Điều này là mục tiêu tối thượng của Đạo sư Du già. Và sau đó, để làm lợi lạc người khác, chúng ta cũng thỉnh cầu sự gia trì để họ có được sự trường thọ, không ốm đau và các gia trì thế tục khác.

Tôi nhận ra rằng tôi kiếm tìm sự gia trì xuất thế gian ít hơn nhiều so với thế gian. Tôi không thỉnh cầu thoát khỏi cái ngã nhiều như việc cầu mong trường thọ, thành công trong các đề án, và tương tự. Như thế, tôi nhận ra điều này – rằng tôi thực sự vẫn bám chấp vào cuộc đời tầm thường này. Trên thực tế, tôi sử dụng Đạo sư như một vị trời để thỉnh cầu ngài những món quà nhất định. Ngay khi tôi nhận ra đây không phải ý nghĩ vĩ đại, tôi nghĩ rằng việc nhận ra lỗi lầm đó cũng là sự gia trì của Đạo sư. Đôi lúc, khi tôi cố gắng nhận ra những lỗi lầm, từ đâu đó, kiêu mạn và ngã xuất hiện, nghĩ rằng, “Ồ, tôi đã nhận ra lỗi lầm, thật tốt!” Bởi vật mọi thứ tiếp tục như thế. Sau đó tôi lại đổ lỗi như thế, nói rằng, “Không, tôi không nên có kiểu ngã đó.”

Và sau đó một ngày … Bạn thấy, tôi đang thích thú trong việc viết các kịch bản và làm phim. Và một ngày, tôi thấy mình đang cầu nguyện Đạo sư, “Xin hãy gia trì để con viết được kịch bản hay, để dự án phim thành công.” Sau đó ngay lập tức tôi nghĩ, “Không, Pháp vương Dilgo Khyentse Rinpoche thậm chí không biết làm phim. Làm sao tôi có thể thỉnh cầu ngài như thế?” Lúc đó, tôi đang đọc tiểu sử của ngài Jamyang Khyentse Wangpo và Khyentse Chokyi Lodro. Và trong đó, các ngài đề cập nhiều đến lòng sùng mộ của ngài giành cho Đạo sư và thứ các ngài tìm kiếm từ bậc thầy như sự gia trìgiác ngộ, lợi ích cho hữu tình chúng sinh, đầy đủ các phẩm tính giác ngộ. Tôi thấy xấu hổ khi thỉnh cầu những thứ tầm thường như vậy. Nhưng sau đó bởi vì tôi đọc đủ sách Phật giáo, tôi có thể mang lại tất cả điều này… Tâm tôi, ngã của tôi, sự ích kỷ của tôi thông minh đến mức nó khéo léo nói ra những lời hối lỗi tốt lành. Kế đó, tôi nghĩ tôi có thể thỉnh cầu gia trì để viết kịch bản hay cho hữu tình chúng sinh!

Một lần nữa tôi tự nói với bản thân rằng, “Không. Bây giờ điều mình đang làm thực sự giúp đỡ cho ngã và sự ích kỷ, sử dụng mọi kiểu sám hối của Đại thừa.” Dẫu sao, quay trở lại với khi tôi khẩn cầu ngài, để ngài gia trì cho những bộ phim của tôi … Sau đó tôi nghĩ, “Không, không, ngài không biết viết kịch bản. Ngài không biết sử dụng máy quay. Ngài chẳng biết dùng mấy thứ đồ đó.” Và sau đó tôi nhận ra rằng, “Hãy xem này, tôi đang không tin tưởng ngài. Ngài là Phật. Ngài biết mọi thứ. Tôi đã coi ngài là người không biết một thứ đơn giản, tầm thường như là dùng máy quay, thứ chỉ cần hai ngày hay một tuần để học.” Và điều này cho thấy tôi vẫn phải phát triển lòng sùng mộ, phát triển sự tin tưởng.

Sau đó tôi cố gắng chắc chắn rằng tôi giành nhiều thời gian để cầu nguyện và khẩn nguyện hơn, để ngài gia trì cho trí tuệ của tôi phát triển và mọi phẩm tính giác ngộ tăng trưởng. Và tôi có thểm một chút niềm tin, bởi vậy những ngày này, tôi không thấy xấu hổ khi thỉnh cầu sự gia trì cho thứ gì, như là viết các kịch bản thành công. Tôi nghĩ nó ổn.

Đây là điều tôi đang cố gắng nói với các bạn. Chúng tavấn đề là không tập trung vào một điểm, như Đạo sư như một vị thầy, nhưng nếu bạn muốn trường thọ và bạn tình cờ biết Phật Amitayus, Phật trường thọ, thì bạn sẽ thỉnh cầu sự gia trì từ ngài. Hoặc nếu bạn muốn tăng trưởng trí tuệ, thì bạn thỉnh cầu sự gia trì từ ngài Văn Thù. Mọi thứ như thế. Điều này cũng cho thấy chúng ta thiếu đi sự hiểu rằng Đạo sưhiện thân của mọi đối tượng quy y. Điều này cho thấy chúng ta vẫn còn rất nhiều tâm nhị nguyên. Chừng nào chúng ta còn sự yếu kém này, chúng ta sẽ không thể có lòng dũng cảm để đạt được trí tuệ.

Chúng ta gọi những người có bồ đề tâmBồ Tát. Và tên gọi Bồ Tát có ý ám chỉ đến người dũng cảm, không chỉ dũng cảm giúp đỡ hữu tình chúng sinh, mà dũng cảm đối mặt với chân lý, dũng cảm đối mặt với mặt ảo mộng của cuộc đời. Bởi vậy để có khyen hay trí tuệ, chúng ta cần có từ bi. Và không có từ bi, người ta không có trí tuệ. Con đường nhanh nhất để có hai sự chứng ngộ này, Khyentse hay trí tuệtừ bi, tôi nghĩ, là nhờ sùng mộ, tinh túy của từ bi. Bởi vậy theo cách này, lòng sùng mộ có rất nhiều cấp độ. Chúng ta bắt đầu lòng sùng mộ đơn giản từ các cảm xúc như kính ngưỡng và khát khao. Và cuối cùng khi chúng ta có thể phát triển lòng sùng mộ này, lòng sùng mộ của chúng ta trở thành trí tuệ. Khi đó chúng ta không sợ hãi việc phải phụ thuộc vào ai đó mọi lúc. Bạn biết rằng, phụ thuộc vào ai đó là điều rất lạ. Tâm chúng ta muốn phụ thuộc lúc này, nhưng lúc khác, việc đó lại trở thành phiền hà lớn. Tôi nghĩ rằng đó là tất cả.

Nguồn: http://www.siddharthasintent.org/gentle/GVMay98.htm

Việt dịch: Tuệ Tạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23029)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14050)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12977)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55109)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9166)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14443)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14202)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13883)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36321)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19883)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19223)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19156)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20287)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17637)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31534)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15938)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15021)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46173)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35935)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21049)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21601)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23399)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34382)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18946)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22941)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20192)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18368)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19841)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33415)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54519)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37725)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21133)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17879)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63650)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17388)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27440)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23033)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18892)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17921)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20937)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17365)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14472)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16372)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17474)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21980)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15101)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13505)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14366)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15395)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14986)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12698)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13349)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14486)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16237)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12409)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12869)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12204)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13201)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21648)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11280)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46183)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22452)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14581)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18904)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14737)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43862)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13837)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47499)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13655)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14575)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29013)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33316)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38385)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15404)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12528)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43419)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46664)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14417)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant