Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tông Và Kinh Viên Giác

14 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 10121)
Thiền Tông Và Kinh Viên Giác

THIỀN TÔNG VÀ KINH VIÊN GIÁC 


thienTâm Thái

Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật. Để giúp cho những người muốn tìm hiểu Thiền tông so với kinh điển có gì khác biệt nên cần đem so sánh pháp tu của Thiền tông với các lời Phật dạy ghi trong kinh điển, để thấy rõ các tổ đã y cứ vào kinh điển để thấu nghĩa lời Phật dạy mà thấy rõ con đường tu hành để đạt được mục đích tối cao của đạo Phật là đến chỗ giác ngộ.

Pháp tu của Thiền tông

Thiền tông đã được đức Phật Thích Ca truyền cho Tổ Ca Diếp tại hội Linh Sơn. Từ Tổ Ca Diếp, tức Sơ Tổ, Thiền tông được nối tiếp truyền tại Ấn Độ cho đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó vào đầu thế kỷ thứ 6 thì tổ Bồ Đề Đạt Ma rời Ấn Độ qua Trung Hoa để truyền tông phái này và được coi là sơ tổ Thiền tông tại Trung Hoa.

 Ý chỉ của tổ Bồ Đề Đạt Ma về pháp tu của Thiền tông được ghi gọn trong bốn câu kệ :

"Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật." (Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Bốn câu đó trình bầy rõ đường lối tu hành của Thiền tông.

Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền

Hai câu đầu: "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền" là hai câu mà đức Phật truyền cho tổ Ca Diếp trong hội Linh Sơn: khi đó khi đức Phật tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật nói: " Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay ta giao phó cho ngươi." (Trích: 33 Vị tồ Thiền tông)

Hai câu đó có thể gây ra sự hiểu lầmThiền tông không kính trọng kinh điển ghi những lời dạy của Phật. Nhưng trong kinh Kim Cang Phật có nói:

" Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có nói pháp chăng?

Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói.

Trong kinh Viên Giác Phật có nói: " Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết rõ ngón tay rốt ráo không phải là mặt trăng. Tất cả ngôn giáo của Như Lai khai thị cho Bồ-tát cũng như thế" (Chương 6: Bồ tát Thanh Tịnh Huệ thưa hỏi)

Đến chỗ cứu cánh thì không có thể nói hết được, không nói nên không có "văn tự". Kinh điển ghi lời Phật dạy chỉ là phương tiện để cứu độ chúng sinh, cho nên cần "y nghĩa bất y ngữ" vậy.

Pháp tu của Thiền tông, cũng có nơi gọi là Tổ Sư Thiền, nếu đem so sánh với các kinh điển thì đều có thể thấy những điểm tương ưng với nhau. Những vị tu Thiền tông, một khi đã chứng đắc thì khi đọc kinh điển đều thấu nghĩa kinh và thấy được cốt tủy của kinh. Thiền tông theo đúng lời Phật dậy "y nghĩa bất y ngữ", tìm hiểu nghĩa của kinh điển, thay vì chấp vào văn tự.

Bằng chứng là Lục tổ Huệ Năng là người không biết chữ nhưng một khi đã ngộ thì có thể thấu nghĩa của rất nhiều kinh. Trong cuốn Pháp bảo đàn kinh (viết tắt là kpbd), phẩm Cơ Duyên ghi nhiều vị tăng đã tụng niệm nhiều bộ kinh nhưng không hiểu được nghĩa của kinh và đến gặp Lục tổ để trình bầy những thắc mắc thì đều được tổ giảng giải rất thâm hậu. Thí dụ chuyện tăng Pháp Đạt, người đã tụng bộ kinh Pháp Hoa đến ba ngàn lần, rất kiêu hãnh khi đến gặp tổ, nhưng khi tổ Huệ Năng hỏi tăng:

" Ông tụng kinh này, lấy cái gì làm tông ?”

Pháp Đạt thưa: “Học nhân căn tánh ám độn, từ trước đến nay chỉ y văn mà tụng niệm, đâu có biết tông thú.”

Tổ bảo: “Tôi không biết chữ, ông thử lấy kinh tụng một biến, tôi sẽ vì ông giải nói.”

Sau khi Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Thí Dụ thì tổ bảo ngưng, chỉ cho Pháp Đạt biết là "tụng rỗng chỉ theo tiếng" và giảng cho vị tăng này hiểu tông thú của bộ kinh thì vị tăng thấu rõ nghĩa của kinh, " Pháp Đạt nghe kệ rồi bất giác rơi lệ dầm dề, ngay lời nói liền đại ngộ".

Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật

Pháp tu của tổ Bồ Đề Đạt Ma là nhìn thẳng vào tâm mình (nhân tâm) để thấy rõ tánh mình (kiến tánh) thì được "thành Phật" tức là được giác ngộ.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma giảng:

"Tâm là cội gốc của muôn pháp. Tất cả các pháp chỉ do tâm mà sanh ra. Nếu hay liễu được tâm thì muôn pháp đều đầy đủ, ví như cây to có những cành lá và hoa quả thảy đều y nơi cái gốc mà sanh ra.

"Nếu liễu được tâm mà tu hành thì tỉnh lực mà dễ thành (tỉnh lực tức là ít tốn công lực). Còn không liễu được tâm mà tu hành thì phí công nhiều mà vô ích. (Trích: Sáu cửa vào động Thiếu Thất)

Điểm trọng yếu của Thiền tông là "kiến tánh".

Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói rõ: "Nếu muốn tìm Phật thì phải thấy tánh của mình. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy tánh thì niệm Phật, tụng kinh, trì trai, giữ giới, đều vô ích cả."

Nếu chẳng thấy tánh mà nói được mười hai bộ kinh, trọn là ma nói nhà ma và quyến thuộc của ma, không phải là nhà Phật và đệ tử của Phật.

Nếu người thấy tánh tức là Phật. Chẳng thấy tánh tức là chúng sanh.

Tánh của tham, sân, si tức là Phật tánh. Ngoài tham, sân, si không riêng có Phật tánh.

(Trích: Sáu cửa vào động Thiếu Thất)

Vậy tổ nói rõ "tánh" có nghĩa là Phật tánh, chỉ thẳng tới chỗ rốt ráo của sự vật. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã chỉ rõ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Đến chỗ thực tại tuyệt đối thì không có ngôn từ nào diễn giải được, nên tùy trường hợp mà có những danh từ khác nhau để diễn tả, như Phật tánh, Chân tâm, tánh Viên giác, Bát nhã ba la mật, Bản thể, Bản tánh, Bản nguyên, Bản lai diện mục

Trong kpbd có ghi lục tổ Huệ Năng sau khi chứng ngộ đã trình kệ lên ngũ tổ Hoằng Nhẫn:

Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Đâu ngờ Tự tánh vốn không sanh diệt,

Đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ,

Đâu ngờ Tự tánh vốn không dao động,

Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp!

"Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được Bản tánh mới bảo: “Chẳng biết Bản tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời người, là Phật.” Tổ liền truyền pháp đốn giáoy bát, nói rằng: “Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu, khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng hữu tình, truyền khắp đời sau, không khiến cho đoạn tuyệt.

Nói "thành Phật" không có nghĩa là sau khi kiến tánh thì sẽ có 32 tướng tốt như đức Phật Thích Ca Mâu Ni. "Thành Phật" nên hiểu là người đã giác ngộ viên mãn.

Kinh Kim Cang có ghi:

"Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?

- Bạch Thế Tôn không vậy! Không thể do ba mươi hai tướng được thấy Như Lai.

-Nếu do sắc thấy ta,

Do âm thanh cầu ta,

Người ấy hành đạo tà,

Không thể thấy Như Lai.

 

Kinh Viên Giác

Nguồn gốc

Kinh Viên Giác nói đủ là "Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-Đa-La Liễu Nghĩa". Tên kinh rất dài, nhưng gần đây chúng ta thường đọc gọn là Viên Giác. Kinh này nguyên văn chữ Phạn, khi truyền sang Trung Hoa được dịch ra chữ Hán. Kinh Viên Giác được dịch là The Sutra of Perfect Enlightenment (Trung hoa: Yuanjue jing 圓覺經,Nhật bản: 円覚経 Engaku-kyo, tiếng Sanskrit: Mahāvaipulya pūrṇabuddha-sūtra prasannārtha-sūtra).

"Viên-Giác: Viên tức là Viên-mãn, (đầy-đủ, trọn-vẹn); Giác tức là Bồ-đề. Viên-mãn Bồ-đề tức là Phật-Quả. Tính Viên-Giác, tức là một Tính tất-cả các Pháp đều Bình-Đẳng Chân-Như, cũng là một Tính Chân-Như Bình-Đẳng của tất cả Chúng-Sinh. (Thái hư đại sư giảng)

Theo Thái Hư đại sư thì kinh này đã được nhiều vị chú thích, giảng giải. Những nhà chú giải phần nhiều thuộc về Thiền tông, Hiền thủ (Hoa nghiêm tông), và Thiên thai (Pháp hoa tông).

Tại Trung hoa, bản chú giải được nhiều người biết đến là bản của Khuê phong Tông Mật (780-841). Còn tại Triều tiênthiền sư Kihwa (có nơi dịch là Gihwa) ( Kỉ Hòa 己 和) 1376-1433) viết bản chú giải rất đầy đủ. Bản này đã được Charles Muller dịch ra tiếng Anh: " The Sutra of Perfect Enlightenment".

Đặc điểm

Bản kinh này có đặc điểmchỉ thẳng về Giác ngộ, mục đích trọng yếu và cốt tủy của đạo Phật. Kinh này nói đến cảnh giới của Phật, vì chỉ có Phật mới đạt được giác ngộ viên mãn, còn Bồ tát chỉ mới đạt được phần giác. "Các bộ kinh khác khi thiết lập nền tảng, hoặc y vào tâm, hoặc y vào chúng sanh, hoặc y vào ngũ ấm, lục trần, nhẫn đến y vào Bát Nhã. Bộ kinh này y vào tâm cảnh của Phật quả, đây là ý nghĩa đầu tiên cần phải biết."(Thái Hư đại sư)

"Kinh Viên Giác thuộc về kinh liễu nghĩa, vì kinh Viên Giác nói tột lý cứu cánh không qua một phương tiện nào." (ht Thích Thanh Từ)

 Đặc điểm thứ hai là kinh này trước tiên chỉ rõ nghĩa lý, rồi sau đó lại chỉ rõ hành trì cụ thể, chi tiết để có thể thực hành pháp tu, là điều hiếm thấy ở các kinh khác. Kinh chỉ rõ phương tiện thứ lớp tu tập, nên tuy trước hết dành cho các bồ tát căn cơ viên đốn, nhưng cũng còn chỉ dẫn cho cả những người độn căn. Kinh Viên Giác gồm có 12 chương, mỗi chương có một vị bồ tát đứng ra thưa hỏi. Theo thiền sư Kihwa thì 3 chương đầu dành cho những người thượng căn, 7 chương kế dành cho những người trung căn, 2 chương cuối dành cho những người hạ căn.

Những điều trọng yếu

Sau đây là tóm tắt mấy điều quan trọng của kinh.

1. Nơi thuyết pháp:

Trong những kinh khác, thường nói rõ Phật thuyết pháp ở đâu, có địa danh rõ ràng, nhưng trong kinh này lại nói Phật thuyết pháp ở nơi siêu việt:

" Tôi nghe như vầy: Một hôm Thế Tôn nhập chánh định Thần Thông Đại Quang Minh Tạng, là nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như lai, cũng là giác địa thanh tịnh của chúng sanh, thân tâm đều lặng lẽ, bản tế bình đẳng, tròn đầy cả mười phương, tùy thuận không hai, ở cảnh giới không hai này mà hiện các cõi tịnh độ."

Lần này Phật thuyết pháp tại "nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như lai" và chỉ có các vị bồ tát làm thượng thủ. Như vậy không phải là nơi nào trong thế giới này hoặc trên các cung trời. Phải chăng chỉ các Như lai mới tới được nơi đó, nhưng thật ra đó "cũng là giác địa thanh tịnh của chúng sanh". Nơi an trụ của tất cả Như laigiác địa thanh tịnh của chúng sanh là một, nơi đó "tròn đầy cả mười phương" nên không phải là một địa điểm nào.

2. Vô minh

Về câu hỏi: Như lai và các bồ tát đã tu theo hạnh nào để phát tâm thanh tịnh đạt Phật quả, thì Phật đã dậy:

" Này thiện nam, Vô thượng Pháp vương có môn Đại Đà-la-ni tên là Viên giác, lưu xuất tất cả pháp thanh tịnh: Chân như, Bồ-đề, Niết-bàn và Ba-la-mật, (nay ta) dạy trao cho các Bồ-tát, nhân địa tu hành của tất cả chư Phật đều y nơi tướng giác thanh tịnh viên chiếu, hằng đoạn vô minh mới thành Phật đạo."

" Thế nào là vô minh? Này thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị các thứ điên đảo như người mê lầm lộn bốn phương, vọng nhận tướng tứ đại là thân mình, chấp cái duyên theo dáng sáu trần là tâm mình."

" Này thiện nam, cái vô minh này không có thật thể. Như người trong mộng, khi mộng chẳng phải không có và đến khi thức dậy rõ ràng chẳng có."

Như vậy muốn thành Phật đạo thì cần phải đoạn vô minh.

3. Như huyễn

" Bạch Thế Tôn, nếu chúng sanh biết các pháp như huyễn, thân tâm cũng huyễn, làm sao dùng huyễn để tu huyễn?"

Phật dậy pháp tu lìa huyễn:

" Này Thiện nam, tất cả chúng sanhmọi vật huyễn hóa đều sanh từ Viên giác Diệu tâm Như Lai.

" Tâm huyễn của chúng sanh lại y nơi pháp huyễn mà diệt. Pháp huyễn tâm huyễn diệt hết thì tánh giác bất động. Y pháp huyễn mà nói giác cũng gọi là huyễn nữa. Nếu nói “có giác” vẫn chưa lìa huyễn, còn nói “không giác” cũng lại như thế. Cho nên pháp huyễn (có và không) diệt hết gọi là bất động."

" Này thiện nam, tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời sau phải xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Do chấp cứng cái tâm xa lìa, tâm ấy là huyễn cũng phải xa lìa, lìa cái lìa huyễn cũng lại xa lìa, được không chỗ lìa tức là trừ các huyễn.

Trong kinh Kim Cang, Phật dậy nên khởi quán là tất cả các pháp hữu vi đều như huyễn:

"Tất cả pháp hữu vi,

 Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

 Như sương cũng như điện,

 Nên khởi quán như thế."

Nhưng kinh Viên giác còn nói rõ là nếu y theo pháp huyễn mà nói " giác" cũng vẫn chưa lìa huyễn.

Chúng sanhmọi việc huyễn hóa đều sanh ra từ tâm Viên giác, cho nên có thể dùng pháp huyễn mà xa lìa tâm huyễn, rồi sau đó cũng phải lìa luôn pháp huyễn. Tuy lìa hết nhưng tâm Viên giác vẫn không mất.

Nhưng Phật dậy thêm là tuy xa lìa cảnh giới huyễn hóa, mà còn chấp cứng cái tâm xa lìa thì vẫn chưa đủ, phải xa lìa luôn cái tâm xa lìa đó, vì nó vẫn là huyễn. Rồi còn phải xa lìa cái tâm huyễn đó cho đến khi không còn chỗ lìa nữa mới được gọi là trừ các huyễn, đạt được giác ngộ. Có người sau khi đã xa lìa được cảnh giới huyễn hóa thì đắc ý cho rằng mình đã đắc đạo, sinh ra kiêu ngạo, nhưng không biết rằng còn giữ cái tâm chứng đắc đó thì vẫn chỉ là tâm huyễn, chưa đạt được tánh viên giác.

4. Những sai biệt về chứng, đắc

Về câu hỏi: "sở chứng, sở đắc của chúng sanh, Bồ-tát và chư Phật sai biệt như thế nào"

Kinh phân chia có 4 thứ lớp tu chứng sai biệt: phàm phu, bồ tát chưa nhập địa, bồ tát đã nhập địaNhư lai:

 - Lại, nếu có người hằng đoạn các lao lự thì ngộ được pháp giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên giác chưa được tự tại, vì còn bị “cái biết tịnh” làm chướng ngại, những người ấy gọi là phàm phu tùy thuận tánh Viên giác.

- Này thiện nam, tất cả Bồ-tát bị kiến giải làm ngại, tuy đã đoạn được cái ngại của kiến giải, nhưng vẫn còn trụ ở kiến giác, do kiến giác làm ngại nên không tự tại. Những vị này gọi là Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.

- Này thiện nam, còn chiếu còn giác đều còn chướng ngại, thế nên Bồ-tát thường giác mà chẳng trụ, năng chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng… Này thiện nam, còn chiếu còn giác đều còn chướng ngại, thế nên Bồ-tát thường giác mà chẳng trụ, năng chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng… Đây gọi là Bồ-tát đã nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.

- Này thiện nam, tất cả chướng ngại tức là cứu cánh giác; chánh niệm, thất niệm đều là giải thoát; giữ giới, phá giới đều là Niết-bàn; trí tuệ, ngu si đều là Bát-nhã; pháp của Bồ-tát và ngoại đạo thành tựu đồng là Bồ-đề; vô minh, chân như đồng một cảnh giới; giới, định, tuệ và dâm, nộ, si đều là phạm hạnh; chúng sanh quốc độ, đồng một pháp tánh; địa ngục, thiên cung đều là tịnh độ; hữu tình, vô tình đều thành Phật đạo; tất cả phiền nãogiải thoát rốt ráo, vì biển tuệ pháp giới soi rõ các tướng như hư không. Đây gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.

Như vậy cần biết thế nào là "tùy thuận tánh giác":

"Này thiện nam, các vị Bồ-tát và những chúng sanh đời sau ở trong tất cả thời chẳng khởi vọng niệm, đối với vọng tâm cũng không cần dứt trừ, ở cảnh vọng tưởng mà không thêm phân biệt, đối với cái không hiểu biết chẳng biện chân thật, các chúng sanh kia nghe được pháp môn này tin hiểu thọ trì không sanh kinh sợ. Ấy gọi là tùy thuận tánh giác.

Tuy kinh nói phân chia thứ lớp như vậy mà không có nghĩa rằng phải bắt buộc tiến từng bực một. Kết quả việc tu hành tùy thuộc cơ duyên gặp được đạo sư chánh hay tà, nếu gặp đạo sư tà thì không thể nào đạt được thứ lớp cao hơn, còn nếu gặp được đạo sư chân chánh thì mới có thể đạt được Phật đạo. Điều này rất quan trọng trong việc "tìm thầy học đạo", nếu gặp tà sư thì chỉ uổng công tu tập.

Phật nói rõ: "Này thiện nam, tất cả chúng sanh đều chứng Viên giác".

"Nếu các chúng sanh tuy cầu bạn lành, lại gặp người tà kiến chưa được chánh ngộ, ấy gọi là chủng tánh ngoại đạo. Đây là do lỗi lầm của tà sư, chớ không phải lỗi nơi chúng sanh ấy.

"Nếu gặp được pháp tu hành chân chánh vô thượng Bồ-đề của Như Lai thì đều thành Phật quả.

5. Pháp tu hành

Phật dậy: "Biết huyễn tức ly huyễn, không cần đến phương tiện; ly huyễn tức giác cũng không có thứ lớp trước sau", nhưng tùy thuận thì cần lập phương tiện để dẫn dắt chúng sinh. Kinh chỉ ra phương tiện trong việc tu hành để đạt tánh Viên giáctu thiền.

 Ba phương tiện chánh là: pháp tu chỉ, quán và thiền.

- Này thiện nam, nếu Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, dùng tâm giác thanh tịnh giữ cái lặng lẽ làm hạnh, rồi y đó lắng các vọng niệm và biết thức phiền động, thì trí tuệ lặng lẽ phát sanh, thân tâm khách trần từ đây diệt hết. Nội (tâm) liền phát ra lặng lẽ khinh an. Do vì lặng lẽ nên tâm của các đức Như Laimười phương thế giới hiển hiện rõ trong đó, như bóng hiện trong gương. Phương tiện này gọi là Xa-ma-tha. (chỉ, tiếng phạn: samatha)

- Này thiện nam tử, nếu các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, dùng giác tâm thanh tịnh nhận biết tâm tánh cùng với căn trần đều là huyễn hóa, liền khởi trí huyễn để trừ pháp huyễn, biến hiện các hạnh huyễn mà khai hóa chúng sanh như huyễn. Do khởi pháp quán huyễn nên nội tâm phát đại bi khinh an. Tất cả Bồ-tát từ đây khởi hạnh tu quán, dần dần tăng tiến. Người quán huyễn không đồng với cảnh huyễn, không đồng với pháp quán huyễn, vì đều là huyễn nên tướng huyễn hằng lìa. Các vị Bồ-tát này ở nơi hạnh viên diệu như đất làm cho mầm được tăng trưởng, phương tiện ấy gọi là Tam-ma-bát-đề (quán, samapatti).

- Này thiện nam, nếu các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, dùng giác tâm thanh tịnh không thủ pháp quán huyễn và tướng lặng lẽ. Rõ biết thân tâm đều là vật ngăn ngại, còn cái vô tri giác minh thì không bị các pháp làm chướng ngại, hằng siêu vượt các pháp chướng ngại và không chướng ngại. Thọ dụng các tướng thế giớithân tâmcõi trần này, cũng như âm thanh từ đồ vật thoát ra ngoài, phiền não Niết-bàn chẳng lưu ngại nhau, nội tâm liền được lặng lẽ khinh an, diệu giác tùy thuận cảnh giới tịch diệt tự tha, thân tâm không còn có thể kịp nữa. Chúng sanh, thọ mạng đều là cái tưởng phù hư. Phương tiện tu này gọi là Thiền-na. (dhyana)

Điều nên chú ý là muốn khởi đầu cả ba pháp tu đó thì điều kiện trước hết phải là: " Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi", sau đó "dùng giác tâm thanh tịnh" đó để tu hành mới có kết quả. Cho nên cần biết là phải "ngộ" trước rồi tu hành mới đạt đạo.

Quan niệm thông thường là phải tu hành để được chứng ngộ, nay kinh lại nói là phải ngộ được tánh Viên giác rồi mới tu tập, cho nên phần nào khó hiểu. Thiền sư S. Suzuki, theo pháp môn Thiền tông Tào động, đã lập nhiều thiền viện tại Mỹ, đã giảng là đã giác ngộ rồi mới tu tập. Sư giảng là căn bản của Thiền tông là phải thấy tánh, tin mình có Phật tánh. Như vậy cũng đúng vời lời Phật dạy trong kinh Viên giác là các chúng sanh đã thành Phật. Có thấy như vậy thì công phu tu tập mới đạt kết quả, vì nếu không thấy như vậy thì việc tu hành chỉ mới là phương tiện, đem lại những lợi ích tương đối, không phải con đường cứu cánh của đạo Phật.

Sau đó kinh còn chỉ rất rõ ràng, thực tiễn về cách áp dụng các pháp tu. Có thể dùng 1 trong 25 cách, căn cứ theo 3 pháp nói trên. Hoặc là chỉ dùng 1 trong 3 pháp, hoặc là phối hợp 2 hoặc cả 3, nhưng khác nhau về thứ tự. Thí dụ: "trước tu thiền, sau mới tu quán", " trước tu quán, giữa tu chỉ và sau tu thiền", "đồng thời tu thiền và quán, sau mới tu chỉ" …(xin xem chi tiết đầy đủ trong kinh)

6. Bốn tướng

Phật dậy lý do tại sao chúng sanh vốn có Viên giác tánh thanh tịnh mà rồi lại bị ô nhiễm khiến chúng sanh không vào được Viên giác tánh. Lý do là vì chúng sanh vọng tưởng chấp có bốn tướng là ngã, nhân, chúng sanhthọ mạng. Đó là bốn chướng trên đường tu tập.

a. Ngã tướng

”Nghĩa là các chúng sanh tâm còn có sở chứng. Này thiện nam, như có người toàn thân điều hòa an ổn chợt như quên mình, tay chân thư thả, nhưng khi điều dưỡng trái nghịch, có sự châm đốt nhỏ liền thấy có ngã. Vì thế mà chứng biết có cái Ta."

" Này thiện nam, cho đến tâm kia chứng quả Như Lai hoặc biết rõ Niết-bàn thanh tịnh rốt ráo đều là tướng ngã."

b. Nhân tướng

"Nghĩa là trong tâm chúng sanh ngộ cái chứng đó. Này thiện nam, ngộ có ngã, lại chẳng nhận là ngã, chỗ ngộ chẳng phải ngã, ngộ cũng như thế. Ngộ này vượt hơn tất cả cái chứng, đều là nhân tướng. Này thiện nam, cho đến tâm kia viên ngộ Niết-bàn cũng đều là ngã. Tâm còn một chút ngộ cho rằng chứng lý đầy đủ đều gọi là nhân tướng."

c. Chúng sanh tướng

"Nghĩa là các chúng sanh chỗ tâm tự chứng ngộ không đến kịp. Này thiện nam, ví như có người nói như thế này, ta là chúng sanh ắt biết người nói chúng sanh đó chẳng phải ngã chẳng phải bỉ (nhân). Thế nào chẳng phải ngã? Vì ta là chúng sanh ắt không phải ngã. Thế nào chẳng phải bỉ? Vì ta là chúng sanh nên chẳng phải ngã của người khác (bỉ). Này thiện nam, nhưng các chúng sanh liễu chứng liễu ngộ đều là ngã nhân, mà tướng ngã nhân người khác không đến kịp, còn có sở liễu gọi là chúng sanh tướng."

d. Thọ mạng tướng

" Nghĩa là các chúng sanh tâm chiếu thanh tịnh đã giác được cái sở liễu, tất cả nghiệp trí không thể tự thấy ví nhưmạng căn."

" Này thiện nam, chúng sanh đời sau không rõ bốn tướng, tuy trải qua nhiều kiếp cần khổ tu hành chỉ gọi là hữu vi, trọn không thể thành tựu được tất cả thánh quả. Cho nên gọi là chánh pháp mạt thế."

"Này thiện nam, những chúng sanh đời sau tu đạo Bồ-đề, do đã chứng chút ít mà tự cho thanh tịnh nhưng vẫn chưa đoạn tận gốc ngã tướng.

" Này thiện nam, người tu kia không đoạn trừ được ngã tướng nên không nhập được tánh Viên giác thanh tịnh.

Pháp môn của tổ Huệ Năng lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm bản. Tổ chỉ rõ: " Này Thiện tri thức, ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là Pháp thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể." Nếu không lìa tướng thì không thể thấy được tự tánh thanh tịnh.

7. Bốn bệnh

Phật dậy muốn thành tựu Phật đạo thì cần phải tìm cầu thiện tri thức: "những chúng sanh đời sau sắp phát đại tâm cầu thiện tri thức để tu hành, phải cầu tất cả người có chánh tri kiến, tâm không trụ tướng, chẳng chấp cảnh giới Thanh văn Duyên giác, tuy hiện trong trần lao mà tâm hằng thanh tịnh, dù có thị hiện những lỗi lầm mà vẫn tán thán hạnh thanh tịnh. Cầu được người như thế tức được thành tựu pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."

Kinh nói rõ thế nào là thiện tri thức: " vị thiện tri thức kia đã chứng diệu pháp nên lìa bốn bệnh." Bốn bệnh là: Tác, Nhậm, Chỉ và Diệt.

- Một là bệnh Tác. Nếu có người nói như thế này: “Bản tâm của tôi làm các thứ hạnh để cầu Viên giác.” Song, tánh Viên giác kia chẳng phải do làm mà được, ấy gọi là bệnh.

- Hai là bệnh Nhậm. Nếu có người nói thế này: “Nay chúng ta không đoạn sanh tử chẳng cầu Niết-bàn, Niết-bàn sanh tử không niệm khởi diệt, mặc cho tất cả kia tùy các pháp tánh” để cầu Viên giác. Song, tánh Viên giác kia chẳng phải mặc tình mà có, nên nói là bệnh.

- Ba là bệnh Chỉ. Nếu có người nói thế này: “Nay ta tự tâm hằng dứt các niệm, được tất cả tánh lặng lẽ bình đẳng” để cầu Viên giác. Song, tánh Viên giác kia chẳng phải do dừng chỉ mà có, nên nói là bệnh.

- Bốn là bệnh Diệt. Nếu có người nói như thế này: “Nay ta nên đoạn hẳn tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn không, không sở hữu, huống là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng” để cầu Viên giác. Song, tánh Viên giác kia chẳng phải tướng tịch diệt, nên nói là bệnh.

"Bốn bệnh" đó không những để giúp việc tìm cầu đạo sư chân chánh, mà còn giúp các hành giả biết những điều lầm lỗi cần phải tránh.

Thiền tông qua lăng kính kinh Viên giác

Nếu so sánh đường lối tu hành của Thiền tông qua những lời Phật dậy trong kinh Viên giác thì có thể thấy nhiều điểm tương ứng.

Như trên đã trình bầy, kinh Viên giác là kinh được gọi là kinh Liễu nghĩa, tức kinh chỉ dậy đến chỗ tột lý của đạo Phật. Theo Charles Muller, kinh này dậy pháp tu để đạt đến chỗ giác ngộ viên mãn, còn hơn cả những kinh giác ngộ từng phần, như kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật

- Kinh nói cảnh giới Viên giác là "nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như lai" nhưng cũng là cảnh giới ở ngay nơi chúng sanh, cảnh giới đó trong kinh này gọi là Viên giác thanh tịnh. Từ cảnh giới đó "lưu xuất tất cả pháp thanh tịnh như Chân như, Bồ đề, Niết bànBa la mật.", " tất cả chư Phật đều y nơi tướng giác thanh tịnh viên chiếu, hằng đoạn vô minh mới thành Phật đạo", " Bản tánh vốn viên mãn", " Mới biết chúng sanh xưa nay đã thành Phật".

Lục tổ Huệ Năng trình kệ cho Ngũ tổ, trong đó có 2 câu:" Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh,", "Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp". Trong kinh Pháp bảo đàn, tổ nói: "tất cả trí Bát-nhã đều từ Tự tánh sanh, chẳng từ bên ngoài vào", " nếu biết Tự tánh một phen ngộ tức đến quả vị Phật". Đó là tông chỉ của Thiền tông mà tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đề ra: "Kiến tánh thành Phật".

Ngũ tổ Hoằng Nhẫn nói: "Chẳng biết Bản tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời, người, là Phật."

Như vậy cho thấy các tổ Thiền tông nói pháp không xa lời Phật dậy.

- Kinh nói: "Y pháp huyễn mà nói giác cũng gọi là huyễn", "biết pháp huyễn hóa tức lìa, chẳng khởi phương tiện, lìa pháp huyễn hóa liền giác, cũng không có thứ lớp".

Thiền sư Huệ Hải bảo học chúng :"Tôi chẳng hội thiền, trọn không có một pháp có thể dạy người, không phiền các ngươi đứng lâu, hãy tự đi đi!" Tuy vậy mà học chúng dần dần thêm đông, ngày đêm thưa hỏi. Sư bất đắc dĩ vì hỏi giải đáp, biện tài không ngại." (Đốn ngộ nhập đạo yếu môn- Thích Thanh từ).

- Kinh Viên giác lập phương tiện để tu hành là pháp thiền. Trong khi tu tập pháp thiền có bốn bệnh cần phải lìa là Tác, Nhậm, Chỉ và Diệt. Vậy cần biết là Thiền tông có lìa được bốn bệnh đó không.

1. bệnh Tác.

Kinh nói: "tánh Viên giác kia chẳng phải do làm mà được", "làm" ở đây nói là "làm các thứ hạnh". Tánh Viên giác sẵn có ở mọi chúng sanh, nếu cho rằng phải làm hạnh nào để có tánh Viên giác là điều sai lầm, là bệnh phải nên xa lìa.

Thiền sư Thần Hội nói: " Dụng tâm là pháp điều phục. Nếu pháp điều phục làm sao được giải thoát?"

Thiền tông chỉ rõ là " tánh tự thanh tịnh", vậy nếu nói phải tu theo pháp nào để đạt được tánh thanh tịnh thì chưa biết thế nào là "tự tánh". Kinh Viên giác cũng nói: "Này thiện nam, tất cả chúng sanh đều chứng Viên giác" nên không thể cho rằng phải làm hạnh nào để chứng Viên giác.

kpbd có kể việc chứng ngộ của tổ Huệ Năng như sau. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn muốn tuyển người để truyền chánh pháp nên hội họp các đệ tử và nói là ai làm được bài kệ tỏ ra đã kiến tánh thì sẽ trao y pháp làm tổ thứ sáu thiền tông. Thượng tọa Thần Túgiáo thọ sư của thiền viện trình bài kệ: "Thân là cội bồ-đề, Tâm như đài gương sáng. Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm."

Còn Huệ Năng trình kệ: " Bồ-đề vốn không cây, Gương sáng cũng chẳng đài. Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi bặm?"

Sau đó Huệ Năng được nhận pháp làm Lục tổ. Thần Tú còn thấy phải "lau chùi" gương sáng là còn có bệnh Tác vậy, không thấy được chỗ " Xưa nay không một vật" nên chưa thấy được "tự tánh".

2. bệnh Nhậm.

Nếu cho rằng không cần đoạn sanh, tử, không cần cầu Niết bàn, thì sẽ đắc Viên giác. Kinh gọi đó là bệnh Nhậm. Đó là " mặc kệ không làm gì hết, cứ tự nhiên mặc tình đói ăn mệt ngủ cũng được tánh Viên giác".

Có người dậy rằng không cần làm gì hết, không cần tu tập, tìm cầu, dụng công khổ nhọc rồi cũng thành Phật, thành tổ. Đó là dậy thiền mục đích để thâu được nhiều người theo, vì ai thấy nói tu thiền không cần làm gì hết thì đều ham thích.

Thiền tông không có dậy như thế. Tổ Huệ Năng dậy chúng: "Này Thiện tri thức, trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân vì tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh". Theo Thiền tông, muốn thấy tánh, cần phải tự ngộ, nếu không tự ngộ thì phải nhờ thầy chỉ đường, và dĩ nhiên, sau khi biết đường thì còn phải tu tập, không thể mặc kệ, không cần tu tập mà được thấy tự tánh.

3. bệnh Chỉ.

Kinh nói rằng nếu tự tâm hằng dứt các niệm để cầu Viên giác là mắc bệnh Chỉ.

kpbd: "Lại có người mê, để tâm rỗng không, ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ", đó là tà kiến.

kpbd: "Người mê chấp Pháp tướng, chấp nhất hạnh tam-muội, chỉ nói ngồi không động, tâm vọng không khởi tức là nhất hạnh tam-muội, người khởi hiểu thế này tức là đồng với vô tình, trở lạinhân duyên chướng đạo."

Thiền sư Thần Hội nói: " Nếu có người ngồi “tâm si nhập định, trụ tâm khán tịnh, khởi tâm chiếu bên ngoài, nhiếp tâm lắng lặng bên trong”, đây là chướng Bồ-đề, chẳng cùng Bồ-đề tương ưng, do đâu có thể được giải thoát?"

4. bệnh Diệt

Kinh nói nếu phải: "đoạn hẳn tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn không, không sở hữu, huống là cảnh giới hư vọng của căn trần"  để đạt Viên giác là mắc bệnh Diệt.

kpbd: "Này Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề".

kpbd: : "Phiền não tức là Bồ-đề, không hai, không khác, nếu dùng trí tuệ chiếu phá phiền não, đây là kiến giải của hàng Nhị thừa".

kpbd: "Lại có người mê, để tâm rỗng không ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ tự gọi là đại, một bọn người này không nên cùng họ nói chuyện vì là tà kiến."

Kinh Viên giác nói: " tất cả phiền nãogiải thoát rốt ráo", nên nếu cho rằng phải đoạn tất cả phiền não thì rõ là không thể thấy được tánh Viên giác.

Đoạn nói về bốn bệnh này trong kinh Viên giác rất hữu ích cho những người tu tập theo Thiền tông. Viên giác tánh cũng là Phật tánh, cũng là tự tánh, theo danh từ của tổ Huệ Năng. Có người cho rằng muốn "Thấy Tánh" thì phải lau chùi cho gương sáng, phải dẹp hết, diệt trừ mọi niệm, mọi suy tư, mọi phiền não, giữ tâm lặng lẽ. Như vậy vẫn là mắc phải bốn bệnh "Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt" đã nói trong kinh Viên giác. Tuy bước đầu cần phải tu tập như vậy nhưng nên biết đó chỉ là phương tiện, không thể nói tu như vậy để Thấy Tánh được.

Tuy đã có nhiều giải nghĩa thế nào là Tánh, nhưng đều là tạm nói thôi vì đó là điều mà các kinh thường nói là "không thể nghĩ bàn". Nhưng có thể nói cụ thể là nếu theo kinh Viên giác, thì Thiền tông cũng có thể nói rằng người Thấy Tánh tức là người đã đạt được "tùy thuận tánh Viên giác" nói ở phần trên bài này: " chánh niệm, thất niệm đều là giải thoát, trí tuệ, ngu si đều là Bát-nhã; vô minh, chân như đồng một cảnh giới; địa ngục, thiên cung đều là tịnh độ; tất cả phiền nãogiải thoát rốt ráo …"

Tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng nói không khác: "Chẳng thấy phiền não khác với Niết- bàn, ấy gọi là bình đẳng. Vì cớ sao? Phiền não cùng với Niết-bàn đồng một tánh.

- Người Tiểu thừa vọng đoạn phiền não, vọng nhập Niết-bàn là bị dính mắc Niết-bàn.

 - Bồ-tát cùng Phật chưa từng sanh tâm mà cũng chưa từng diệt tâm.

- Không có mê, ngộ mới gọi là chánh giải, chánh kiến." (Sáu cửa vào động Thiếu thất)

 

Ghi chú

- Những đoạn chữ nghiêng trong bài này đều được trích từ những bài dịch và giảng của hòa thượng Thích Thanh Từ như: Kinh Viên giác, Kinh Pháp bảo đàn, Sáu cửa vào động thiếu thất,… Ngoài ra nếu trích từ các tài liệu khác thì đều có ghi riêng.

- Kinh Viên giác được dịch và giảng do nhiều vị: Thích Thanh Từ, Thích Thiện Hoa, Thích Trung Quán, Thích Duy Lực, Thích Thông Huệ, Thích Giải Năng, Thích Hằng Đạt … Tuy vậy nếu xem kỹ thì mỗi bản dịch đều có khác nhau nên quý độc giả có thể thấy rõ. Ngoài ra bài giảng của hòa thượng Thích Huyền Vi về kinh Viên giác cũng rất là đầy đủ.

- Tài liệu tiếng Anh: The Sutra of Perfect Enlightenment ([SPE] Yuan chueh ching) của Charles Muller.

 

Seattle, tháng 1- 2014
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20433)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22345)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18767)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 27028)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18736)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19953)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 38074)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20154)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28335)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46339)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15456)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65683)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13737)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18639)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15550)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14580)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18739)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12644)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17662)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25489)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38737)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17715)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11250)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18614)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17417)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13224)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13319)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17549)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24316)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12385)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13805)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12999)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12895)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14172)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14634)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21110)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22635)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29985)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13873)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18251)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 17063)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12634)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30733)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22810)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14653)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 13005)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12744)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12522)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 13063)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16311)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15214)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23851)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16188)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 29008)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20298)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15570)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37253)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 45047)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36911)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant