Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Tông Và Kinh Viên Giác

14 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 10155)
Thiền Tông Và Kinh Viên Giác

THIỀN TÔNG VÀ KINH VIÊN GIÁC 


thienTâm Thái

Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật. Để giúp cho những người muốn tìm hiểu Thiền tông so với kinh điển có gì khác biệt nên cần đem so sánh pháp tu của Thiền tông với các lời Phật dạy ghi trong kinh điển, để thấy rõ các tổ đã y cứ vào kinh điển để thấu nghĩa lời Phật dạy mà thấy rõ con đường tu hành để đạt được mục đích tối cao của đạo Phật là đến chỗ giác ngộ.

Pháp tu của Thiền tông

Thiền tông đã được đức Phật Thích Ca truyền cho Tổ Ca Diếp tại hội Linh Sơn. Từ Tổ Ca Diếp, tức Sơ Tổ, Thiền tông được nối tiếp truyền tại Ấn Độ cho đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma. Sau đó vào đầu thế kỷ thứ 6 thì tổ Bồ Đề Đạt Ma rời Ấn Độ qua Trung Hoa để truyền tông phái này và được coi là sơ tổ Thiền tông tại Trung Hoa.

 Ý chỉ của tổ Bồ Đề Đạt Ma về pháp tu của Thiền tông được ghi gọn trong bốn câu kệ :

"Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật." (Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật). Bốn câu đó trình bầy rõ đường lối tu hành của Thiền tông.

Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền

Hai câu đầu: "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền" là hai câu mà đức Phật truyền cho tổ Ca Diếp trong hội Linh Sơn: khi đó khi đức Phật tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca Diếp mỉm cười. Đức Phật nói: " Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay ta giao phó cho ngươi." (Trích: 33 Vị tồ Thiền tông)

Hai câu đó có thể gây ra sự hiểu lầmThiền tông không kính trọng kinh điển ghi những lời dạy của Phật. Nhưng trong kinh Kim Cang Phật có nói:

" Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Như Lai được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có nói pháp chăng?

Tu-bồ-đề thưa: Như con hiểu qua nghĩa Phật nói, không có pháp nhất định tên là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có pháp nhất định Như Lai có thể nói.

Trong kinh Viên Giác Phật có nói: " Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết rõ ngón tay rốt ráo không phải là mặt trăng. Tất cả ngôn giáo của Như Lai khai thị cho Bồ-tát cũng như thế" (Chương 6: Bồ tát Thanh Tịnh Huệ thưa hỏi)

Đến chỗ cứu cánh thì không có thể nói hết được, không nói nên không có "văn tự". Kinh điển ghi lời Phật dạy chỉ là phương tiện để cứu độ chúng sinh, cho nên cần "y nghĩa bất y ngữ" vậy.

Pháp tu của Thiền tông, cũng có nơi gọi là Tổ Sư Thiền, nếu đem so sánh với các kinh điển thì đều có thể thấy những điểm tương ưng với nhau. Những vị tu Thiền tông, một khi đã chứng đắc thì khi đọc kinh điển đều thấu nghĩa kinh và thấy được cốt tủy của kinh. Thiền tông theo đúng lời Phật dậy "y nghĩa bất y ngữ", tìm hiểu nghĩa của kinh điển, thay vì chấp vào văn tự.

Bằng chứng là Lục tổ Huệ Năng là người không biết chữ nhưng một khi đã ngộ thì có thể thấu nghĩa của rất nhiều kinh. Trong cuốn Pháp bảo đàn kinh (viết tắt là kpbd), phẩm Cơ Duyên ghi nhiều vị tăng đã tụng niệm nhiều bộ kinh nhưng không hiểu được nghĩa của kinh và đến gặp Lục tổ để trình bầy những thắc mắc thì đều được tổ giảng giải rất thâm hậu. Thí dụ chuyện tăng Pháp Đạt, người đã tụng bộ kinh Pháp Hoa đến ba ngàn lần, rất kiêu hãnh khi đến gặp tổ, nhưng khi tổ Huệ Năng hỏi tăng:

" Ông tụng kinh này, lấy cái gì làm tông ?”

Pháp Đạt thưa: “Học nhân căn tánh ám độn, từ trước đến nay chỉ y văn mà tụng niệm, đâu có biết tông thú.”

Tổ bảo: “Tôi không biết chữ, ông thử lấy kinh tụng một biến, tôi sẽ vì ông giải nói.”

Sau khi Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa đến phẩm Thí Dụ thì tổ bảo ngưng, chỉ cho Pháp Đạt biết là "tụng rỗng chỉ theo tiếng" và giảng cho vị tăng này hiểu tông thú của bộ kinh thì vị tăng thấu rõ nghĩa của kinh, " Pháp Đạt nghe kệ rồi bất giác rơi lệ dầm dề, ngay lời nói liền đại ngộ".

Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật

Pháp tu của tổ Bồ Đề Đạt Ma là nhìn thẳng vào tâm mình (nhân tâm) để thấy rõ tánh mình (kiến tánh) thì được "thành Phật" tức là được giác ngộ.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma giảng:

"Tâm là cội gốc của muôn pháp. Tất cả các pháp chỉ do tâm mà sanh ra. Nếu hay liễu được tâm thì muôn pháp đều đầy đủ, ví như cây to có những cành lá và hoa quả thảy đều y nơi cái gốc mà sanh ra.

"Nếu liễu được tâm mà tu hành thì tỉnh lực mà dễ thành (tỉnh lực tức là ít tốn công lực). Còn không liễu được tâm mà tu hành thì phí công nhiều mà vô ích. (Trích: Sáu cửa vào động Thiếu Thất)

Điểm trọng yếu của Thiền tông là "kiến tánh".

Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói rõ: "Nếu muốn tìm Phật thì phải thấy tánh của mình. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy tánh thì niệm Phật, tụng kinh, trì trai, giữ giới, đều vô ích cả."

Nếu chẳng thấy tánh mà nói được mười hai bộ kinh, trọn là ma nói nhà ma và quyến thuộc của ma, không phải là nhà Phật và đệ tử của Phật.

Nếu người thấy tánh tức là Phật. Chẳng thấy tánh tức là chúng sanh.

Tánh của tham, sân, si tức là Phật tánh. Ngoài tham, sân, si không riêng có Phật tánh.

(Trích: Sáu cửa vào động Thiếu Thất)

Vậy tổ nói rõ "tánh" có nghĩa là Phật tánh, chỉ thẳng tới chỗ rốt ráo của sự vật. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã chỉ rõ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Đến chỗ thực tại tuyệt đối thì không có ngôn từ nào diễn giải được, nên tùy trường hợp mà có những danh từ khác nhau để diễn tả, như Phật tánh, Chân tâm, tánh Viên giác, Bát nhã ba la mật, Bản thể, Bản tánh, Bản nguyên, Bản lai diện mục

Trong kpbd có ghi lục tổ Huệ Năng sau khi chứng ngộ đã trình kệ lên ngũ tổ Hoằng Nhẫn:

Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Đâu ngờ Tự tánh vốn không sanh diệt,

Đâu ngờ Tự tánh vốn tự đầy đủ,

Đâu ngờ Tự tánh vốn không dao động,

Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp!

"Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được Bản tánh mới bảo: “Chẳng biết Bản tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời người, là Phật.” Tổ liền truyền pháp đốn giáoy bát, nói rằng: “Ngươi là vị Tổ đời thứ sáu, khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng hữu tình, truyền khắp đời sau, không khiến cho đoạn tuyệt.

Nói "thành Phật" không có nghĩa là sau khi kiến tánh thì sẽ có 32 tướng tốt như đức Phật Thích Ca Mâu Ni. "Thành Phật" nên hiểu là người đã giác ngộ viên mãn.

Kinh Kim Cang có ghi:

"Này Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có thể do ba mươi hai tướng mà thấy Như Lai chăng?

- Bạch Thế Tôn không vậy! Không thể do ba mươi hai tướng được thấy Như Lai.

-Nếu do sắc thấy ta,

Do âm thanh cầu ta,

Người ấy hành đạo tà,

Không thể thấy Như Lai.

 

Kinh Viên Giác

Nguồn gốc

Kinh Viên Giác nói đủ là "Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-Đa-La Liễu Nghĩa". Tên kinh rất dài, nhưng gần đây chúng ta thường đọc gọn là Viên Giác. Kinh này nguyên văn chữ Phạn, khi truyền sang Trung Hoa được dịch ra chữ Hán. Kinh Viên Giác được dịch là The Sutra of Perfect Enlightenment (Trung hoa: Yuanjue jing 圓覺經,Nhật bản: 円覚経 Engaku-kyo, tiếng Sanskrit: Mahāvaipulya pūrṇabuddha-sūtra prasannārtha-sūtra).

"Viên-Giác: Viên tức là Viên-mãn, (đầy-đủ, trọn-vẹn); Giác tức là Bồ-đề. Viên-mãn Bồ-đề tức là Phật-Quả. Tính Viên-Giác, tức là một Tính tất-cả các Pháp đều Bình-Đẳng Chân-Như, cũng là một Tính Chân-Như Bình-Đẳng của tất cả Chúng-Sinh. (Thái hư đại sư giảng)

Theo Thái Hư đại sư thì kinh này đã được nhiều vị chú thích, giảng giải. Những nhà chú giải phần nhiều thuộc về Thiền tông, Hiền thủ (Hoa nghiêm tông), và Thiên thai (Pháp hoa tông).

Tại Trung hoa, bản chú giải được nhiều người biết đến là bản của Khuê phong Tông Mật (780-841). Còn tại Triều tiênthiền sư Kihwa (có nơi dịch là Gihwa) ( Kỉ Hòa 己 和) 1376-1433) viết bản chú giải rất đầy đủ. Bản này đã được Charles Muller dịch ra tiếng Anh: " The Sutra of Perfect Enlightenment".

Đặc điểm

Bản kinh này có đặc điểmchỉ thẳng về Giác ngộ, mục đích trọng yếu và cốt tủy của đạo Phật. Kinh này nói đến cảnh giới của Phật, vì chỉ có Phật mới đạt được giác ngộ viên mãn, còn Bồ tát chỉ mới đạt được phần giác. "Các bộ kinh khác khi thiết lập nền tảng, hoặc y vào tâm, hoặc y vào chúng sanh, hoặc y vào ngũ ấm, lục trần, nhẫn đến y vào Bát Nhã. Bộ kinh này y vào tâm cảnh của Phật quả, đây là ý nghĩa đầu tiên cần phải biết."(Thái Hư đại sư)

"Kinh Viên Giác thuộc về kinh liễu nghĩa, vì kinh Viên Giác nói tột lý cứu cánh không qua một phương tiện nào." (ht Thích Thanh Từ)

 Đặc điểm thứ hai là kinh này trước tiên chỉ rõ nghĩa lý, rồi sau đó lại chỉ rõ hành trì cụ thể, chi tiết để có thể thực hành pháp tu, là điều hiếm thấy ở các kinh khác. Kinh chỉ rõ phương tiện thứ lớp tu tập, nên tuy trước hết dành cho các bồ tát căn cơ viên đốn, nhưng cũng còn chỉ dẫn cho cả những người độn căn. Kinh Viên Giác gồm có 12 chương, mỗi chương có một vị bồ tát đứng ra thưa hỏi. Theo thiền sư Kihwa thì 3 chương đầu dành cho những người thượng căn, 7 chương kế dành cho những người trung căn, 2 chương cuối dành cho những người hạ căn.

Những điều trọng yếu

Sau đây là tóm tắt mấy điều quan trọng của kinh.

1. Nơi thuyết pháp:

Trong những kinh khác, thường nói rõ Phật thuyết pháp ở đâu, có địa danh rõ ràng, nhưng trong kinh này lại nói Phật thuyết pháp ở nơi siêu việt:

" Tôi nghe như vầy: Một hôm Thế Tôn nhập chánh định Thần Thông Đại Quang Minh Tạng, là nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như lai, cũng là giác địa thanh tịnh của chúng sanh, thân tâm đều lặng lẽ, bản tế bình đẳng, tròn đầy cả mười phương, tùy thuận không hai, ở cảnh giới không hai này mà hiện các cõi tịnh độ."

Lần này Phật thuyết pháp tại "nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như lai" và chỉ có các vị bồ tát làm thượng thủ. Như vậy không phải là nơi nào trong thế giới này hoặc trên các cung trời. Phải chăng chỉ các Như lai mới tới được nơi đó, nhưng thật ra đó "cũng là giác địa thanh tịnh của chúng sanh". Nơi an trụ của tất cả Như laigiác địa thanh tịnh của chúng sanh là một, nơi đó "tròn đầy cả mười phương" nên không phải là một địa điểm nào.

2. Vô minh

Về câu hỏi: Như lai và các bồ tát đã tu theo hạnh nào để phát tâm thanh tịnh đạt Phật quả, thì Phật đã dậy:

" Này thiện nam, Vô thượng Pháp vương có môn Đại Đà-la-ni tên là Viên giác, lưu xuất tất cả pháp thanh tịnh: Chân như, Bồ-đề, Niết-bàn và Ba-la-mật, (nay ta) dạy trao cho các Bồ-tát, nhân địa tu hành của tất cả chư Phật đều y nơi tướng giác thanh tịnh viên chiếu, hằng đoạn vô minh mới thành Phật đạo."

" Thế nào là vô minh? Này thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị các thứ điên đảo như người mê lầm lộn bốn phương, vọng nhận tướng tứ đại là thân mình, chấp cái duyên theo dáng sáu trần là tâm mình."

" Này thiện nam, cái vô minh này không có thật thể. Như người trong mộng, khi mộng chẳng phải không có và đến khi thức dậy rõ ràng chẳng có."

Như vậy muốn thành Phật đạo thì cần phải đoạn vô minh.

3. Như huyễn

" Bạch Thế Tôn, nếu chúng sanh biết các pháp như huyễn, thân tâm cũng huyễn, làm sao dùng huyễn để tu huyễn?"

Phật dậy pháp tu lìa huyễn:

" Này Thiện nam, tất cả chúng sanhmọi vật huyễn hóa đều sanh từ Viên giác Diệu tâm Như Lai.

" Tâm huyễn của chúng sanh lại y nơi pháp huyễn mà diệt. Pháp huyễn tâm huyễn diệt hết thì tánh giác bất động. Y pháp huyễn mà nói giác cũng gọi là huyễn nữa. Nếu nói “có giác” vẫn chưa lìa huyễn, còn nói “không giác” cũng lại như thế. Cho nên pháp huyễn (có và không) diệt hết gọi là bất động."

" Này thiện nam, tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời sau phải xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Do chấp cứng cái tâm xa lìa, tâm ấy là huyễn cũng phải xa lìa, lìa cái lìa huyễn cũng lại xa lìa, được không chỗ lìa tức là trừ các huyễn.

Trong kinh Kim Cang, Phật dậy nên khởi quán là tất cả các pháp hữu vi đều như huyễn:

"Tất cả pháp hữu vi,

 Như mộng, huyễn, bọt, bóng,

 Như sương cũng như điện,

 Nên khởi quán như thế."

Nhưng kinh Viên giác còn nói rõ là nếu y theo pháp huyễn mà nói " giác" cũng vẫn chưa lìa huyễn.

Chúng sanhmọi việc huyễn hóa đều sanh ra từ tâm Viên giác, cho nên có thể dùng pháp huyễn mà xa lìa tâm huyễn, rồi sau đó cũng phải lìa luôn pháp huyễn. Tuy lìa hết nhưng tâm Viên giác vẫn không mất.

Nhưng Phật dậy thêm là tuy xa lìa cảnh giới huyễn hóa, mà còn chấp cứng cái tâm xa lìa thì vẫn chưa đủ, phải xa lìa luôn cái tâm xa lìa đó, vì nó vẫn là huyễn. Rồi còn phải xa lìa cái tâm huyễn đó cho đến khi không còn chỗ lìa nữa mới được gọi là trừ các huyễn, đạt được giác ngộ. Có người sau khi đã xa lìa được cảnh giới huyễn hóa thì đắc ý cho rằng mình đã đắc đạo, sinh ra kiêu ngạo, nhưng không biết rằng còn giữ cái tâm chứng đắc đó thì vẫn chỉ là tâm huyễn, chưa đạt được tánh viên giác.

4. Những sai biệt về chứng, đắc

Về câu hỏi: "sở chứng, sở đắc của chúng sanh, Bồ-tát và chư Phật sai biệt như thế nào"

Kinh phân chia có 4 thứ lớp tu chứng sai biệt: phàm phu, bồ tát chưa nhập địa, bồ tát đã nhập địaNhư lai:

 - Lại, nếu có người hằng đoạn các lao lự thì ngộ được pháp giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên giác chưa được tự tại, vì còn bị “cái biết tịnh” làm chướng ngại, những người ấy gọi là phàm phu tùy thuận tánh Viên giác.

- Này thiện nam, tất cả Bồ-tát bị kiến giải làm ngại, tuy đã đoạn được cái ngại của kiến giải, nhưng vẫn còn trụ ở kiến giác, do kiến giác làm ngại nên không tự tại. Những vị này gọi là Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.

- Này thiện nam, còn chiếu còn giác đều còn chướng ngại, thế nên Bồ-tát thường giác mà chẳng trụ, năng chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng… Này thiện nam, còn chiếu còn giác đều còn chướng ngại, thế nên Bồ-tát thường giác mà chẳng trụ, năng chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng… Đây gọi là Bồ-tát đã nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.

- Này thiện nam, tất cả chướng ngại tức là cứu cánh giác; chánh niệm, thất niệm đều là giải thoát; giữ giới, phá giới đều là Niết-bàn; trí tuệ, ngu si đều là Bát-nhã; pháp của Bồ-tát và ngoại đạo thành tựu đồng là Bồ-đề; vô minh, chân như đồng một cảnh giới; giới, định, tuệ và dâm, nộ, si đều là phạm hạnh; chúng sanh quốc độ, đồng một pháp tánh; địa ngục, thiên cung đều là tịnh độ; hữu tình, vô tình đều thành Phật đạo; tất cả phiền nãogiải thoát rốt ráo, vì biển tuệ pháp giới soi rõ các tướng như hư không. Đây gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.

Như vậy cần biết thế nào là "tùy thuận tánh giác":

"Này thiện nam, các vị Bồ-tát và những chúng sanh đời sau ở trong tất cả thời chẳng khởi vọng niệm, đối với vọng tâm cũng không cần dứt trừ, ở cảnh vọng tưởng mà không thêm phân biệt, đối với cái không hiểu biết chẳng biện chân thật, các chúng sanh kia nghe được pháp môn này tin hiểu thọ trì không sanh kinh sợ. Ấy gọi là tùy thuận tánh giác.

Tuy kinh nói phân chia thứ lớp như vậy mà không có nghĩa rằng phải bắt buộc tiến từng bực một. Kết quả việc tu hành tùy thuộc cơ duyên gặp được đạo sư chánh hay tà, nếu gặp đạo sư tà thì không thể nào đạt được thứ lớp cao hơn, còn nếu gặp được đạo sư chân chánh thì mới có thể đạt được Phật đạo. Điều này rất quan trọng trong việc "tìm thầy học đạo", nếu gặp tà sư thì chỉ uổng công tu tập.

Phật nói rõ: "Này thiện nam, tất cả chúng sanh đều chứng Viên giác".

"Nếu các chúng sanh tuy cầu bạn lành, lại gặp người tà kiến chưa được chánh ngộ, ấy gọi là chủng tánh ngoại đạo. Đây là do lỗi lầm của tà sư, chớ không phải lỗi nơi chúng sanh ấy.

"Nếu gặp được pháp tu hành chân chánh vô thượng Bồ-đề của Như Lai thì đều thành Phật quả.

5. Pháp tu hành

Phật dậy: "Biết huyễn tức ly huyễn, không cần đến phương tiện; ly huyễn tức giác cũng không có thứ lớp trước sau", nhưng tùy thuận thì cần lập phương tiện để dẫn dắt chúng sinh. Kinh chỉ ra phương tiện trong việc tu hành để đạt tánh Viên giáctu thiền.

 Ba phương tiện chánh là: pháp tu chỉ, quán và thiền.

- Này thiện nam, nếu Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, dùng tâm giác thanh tịnh giữ cái lặng lẽ làm hạnh, rồi y đó lắng các vọng niệm và biết thức phiền động, thì trí tuệ lặng lẽ phát sanh, thân tâm khách trần từ đây diệt hết. Nội (tâm) liền phát ra lặng lẽ khinh an. Do vì lặng lẽ nên tâm của các đức Như Laimười phương thế giới hiển hiện rõ trong đó, như bóng hiện trong gương. Phương tiện này gọi là Xa-ma-tha. (chỉ, tiếng phạn: samatha)

- Này thiện nam tử, nếu các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, dùng giác tâm thanh tịnh nhận biết tâm tánh cùng với căn trần đều là huyễn hóa, liền khởi trí huyễn để trừ pháp huyễn, biến hiện các hạnh huyễn mà khai hóa chúng sanh như huyễn. Do khởi pháp quán huyễn nên nội tâm phát đại bi khinh an. Tất cả Bồ-tát từ đây khởi hạnh tu quán, dần dần tăng tiến. Người quán huyễn không đồng với cảnh huyễn, không đồng với pháp quán huyễn, vì đều là huyễn nên tướng huyễn hằng lìa. Các vị Bồ-tát này ở nơi hạnh viên diệu như đất làm cho mầm được tăng trưởng, phương tiện ấy gọi là Tam-ma-bát-đề (quán, samapatti).

- Này thiện nam, nếu các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, dùng giác tâm thanh tịnh không thủ pháp quán huyễn và tướng lặng lẽ. Rõ biết thân tâm đều là vật ngăn ngại, còn cái vô tri giác minh thì không bị các pháp làm chướng ngại, hằng siêu vượt các pháp chướng ngại và không chướng ngại. Thọ dụng các tướng thế giớithân tâmcõi trần này, cũng như âm thanh từ đồ vật thoát ra ngoài, phiền não Niết-bàn chẳng lưu ngại nhau, nội tâm liền được lặng lẽ khinh an, diệu giác tùy thuận cảnh giới tịch diệt tự tha, thân tâm không còn có thể kịp nữa. Chúng sanh, thọ mạng đều là cái tưởng phù hư. Phương tiện tu này gọi là Thiền-na. (dhyana)

Điều nên chú ý là muốn khởi đầu cả ba pháp tu đó thì điều kiện trước hết phải là: " Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi", sau đó "dùng giác tâm thanh tịnh" đó để tu hành mới có kết quả. Cho nên cần biết là phải "ngộ" trước rồi tu hành mới đạt đạo.

Quan niệm thông thường là phải tu hành để được chứng ngộ, nay kinh lại nói là phải ngộ được tánh Viên giác rồi mới tu tập, cho nên phần nào khó hiểu. Thiền sư S. Suzuki, theo pháp môn Thiền tông Tào động, đã lập nhiều thiền viện tại Mỹ, đã giảng là đã giác ngộ rồi mới tu tập. Sư giảng là căn bản của Thiền tông là phải thấy tánh, tin mình có Phật tánh. Như vậy cũng đúng vời lời Phật dạy trong kinh Viên giác là các chúng sanh đã thành Phật. Có thấy như vậy thì công phu tu tập mới đạt kết quả, vì nếu không thấy như vậy thì việc tu hành chỉ mới là phương tiện, đem lại những lợi ích tương đối, không phải con đường cứu cánh của đạo Phật.

Sau đó kinh còn chỉ rất rõ ràng, thực tiễn về cách áp dụng các pháp tu. Có thể dùng 1 trong 25 cách, căn cứ theo 3 pháp nói trên. Hoặc là chỉ dùng 1 trong 3 pháp, hoặc là phối hợp 2 hoặc cả 3, nhưng khác nhau về thứ tự. Thí dụ: "trước tu thiền, sau mới tu quán", " trước tu quán, giữa tu chỉ và sau tu thiền", "đồng thời tu thiền và quán, sau mới tu chỉ" …(xin xem chi tiết đầy đủ trong kinh)

6. Bốn tướng

Phật dậy lý do tại sao chúng sanh vốn có Viên giác tánh thanh tịnh mà rồi lại bị ô nhiễm khiến chúng sanh không vào được Viên giác tánh. Lý do là vì chúng sanh vọng tưởng chấp có bốn tướng là ngã, nhân, chúng sanhthọ mạng. Đó là bốn chướng trên đường tu tập.

a. Ngã tướng

”Nghĩa là các chúng sanh tâm còn có sở chứng. Này thiện nam, như có người toàn thân điều hòa an ổn chợt như quên mình, tay chân thư thả, nhưng khi điều dưỡng trái nghịch, có sự châm đốt nhỏ liền thấy có ngã. Vì thế mà chứng biết có cái Ta."

" Này thiện nam, cho đến tâm kia chứng quả Như Lai hoặc biết rõ Niết-bàn thanh tịnh rốt ráo đều là tướng ngã."

b. Nhân tướng

"Nghĩa là trong tâm chúng sanh ngộ cái chứng đó. Này thiện nam, ngộ có ngã, lại chẳng nhận là ngã, chỗ ngộ chẳng phải ngã, ngộ cũng như thế. Ngộ này vượt hơn tất cả cái chứng, đều là nhân tướng. Này thiện nam, cho đến tâm kia viên ngộ Niết-bàn cũng đều là ngã. Tâm còn một chút ngộ cho rằng chứng lý đầy đủ đều gọi là nhân tướng."

c. Chúng sanh tướng

"Nghĩa là các chúng sanh chỗ tâm tự chứng ngộ không đến kịp. Này thiện nam, ví như có người nói như thế này, ta là chúng sanh ắt biết người nói chúng sanh đó chẳng phải ngã chẳng phải bỉ (nhân). Thế nào chẳng phải ngã? Vì ta là chúng sanh ắt không phải ngã. Thế nào chẳng phải bỉ? Vì ta là chúng sanh nên chẳng phải ngã của người khác (bỉ). Này thiện nam, nhưng các chúng sanh liễu chứng liễu ngộ đều là ngã nhân, mà tướng ngã nhân người khác không đến kịp, còn có sở liễu gọi là chúng sanh tướng."

d. Thọ mạng tướng

" Nghĩa là các chúng sanh tâm chiếu thanh tịnh đã giác được cái sở liễu, tất cả nghiệp trí không thể tự thấy ví nhưmạng căn."

" Này thiện nam, chúng sanh đời sau không rõ bốn tướng, tuy trải qua nhiều kiếp cần khổ tu hành chỉ gọi là hữu vi, trọn không thể thành tựu được tất cả thánh quả. Cho nên gọi là chánh pháp mạt thế."

"Này thiện nam, những chúng sanh đời sau tu đạo Bồ-đề, do đã chứng chút ít mà tự cho thanh tịnh nhưng vẫn chưa đoạn tận gốc ngã tướng.

" Này thiện nam, người tu kia không đoạn trừ được ngã tướng nên không nhập được tánh Viên giác thanh tịnh.

Pháp môn của tổ Huệ Năng lập Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm bản. Tổ chỉ rõ: " Này Thiện tri thức, ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là Pháp thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể." Nếu không lìa tướng thì không thể thấy được tự tánh thanh tịnh.

7. Bốn bệnh

Phật dậy muốn thành tựu Phật đạo thì cần phải tìm cầu thiện tri thức: "những chúng sanh đời sau sắp phát đại tâm cầu thiện tri thức để tu hành, phải cầu tất cả người có chánh tri kiến, tâm không trụ tướng, chẳng chấp cảnh giới Thanh văn Duyên giác, tuy hiện trong trần lao mà tâm hằng thanh tịnh, dù có thị hiện những lỗi lầm mà vẫn tán thán hạnh thanh tịnh. Cầu được người như thế tức được thành tựu pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."

Kinh nói rõ thế nào là thiện tri thức: " vị thiện tri thức kia đã chứng diệu pháp nên lìa bốn bệnh." Bốn bệnh là: Tác, Nhậm, Chỉ và Diệt.

- Một là bệnh Tác. Nếu có người nói như thế này: “Bản tâm của tôi làm các thứ hạnh để cầu Viên giác.” Song, tánh Viên giác kia chẳng phải do làm mà được, ấy gọi là bệnh.

- Hai là bệnh Nhậm. Nếu có người nói thế này: “Nay chúng ta không đoạn sanh tử chẳng cầu Niết-bàn, Niết-bàn sanh tử không niệm khởi diệt, mặc cho tất cả kia tùy các pháp tánh” để cầu Viên giác. Song, tánh Viên giác kia chẳng phải mặc tình mà có, nên nói là bệnh.

- Ba là bệnh Chỉ. Nếu có người nói thế này: “Nay ta tự tâm hằng dứt các niệm, được tất cả tánh lặng lẽ bình đẳng” để cầu Viên giác. Song, tánh Viên giác kia chẳng phải do dừng chỉ mà có, nên nói là bệnh.

- Bốn là bệnh Diệt. Nếu có người nói như thế này: “Nay ta nên đoạn hẳn tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn không, không sở hữu, huống là cảnh giới hư vọng của căn trần, tất cả đều vắng lặng” để cầu Viên giác. Song, tánh Viên giác kia chẳng phải tướng tịch diệt, nên nói là bệnh.

"Bốn bệnh" đó không những để giúp việc tìm cầu đạo sư chân chánh, mà còn giúp các hành giả biết những điều lầm lỗi cần phải tránh.

Thiền tông qua lăng kính kinh Viên giác

Nếu so sánh đường lối tu hành của Thiền tông qua những lời Phật dậy trong kinh Viên giác thì có thể thấy nhiều điểm tương ứng.

Như trên đã trình bầy, kinh Viên giác là kinh được gọi là kinh Liễu nghĩa, tức kinh chỉ dậy đến chỗ tột lý của đạo Phật. Theo Charles Muller, kinh này dậy pháp tu để đạt đến chỗ giác ngộ viên mãn, còn hơn cả những kinh giác ngộ từng phần, như kinh Ma ha Bát nhã Ba la mật

- Kinh nói cảnh giới Viên giác là "nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như lai" nhưng cũng là cảnh giới ở ngay nơi chúng sanh, cảnh giới đó trong kinh này gọi là Viên giác thanh tịnh. Từ cảnh giới đó "lưu xuất tất cả pháp thanh tịnh như Chân như, Bồ đề, Niết bànBa la mật.", " tất cả chư Phật đều y nơi tướng giác thanh tịnh viên chiếu, hằng đoạn vô minh mới thành Phật đạo", " Bản tánh vốn viên mãn", " Mới biết chúng sanh xưa nay đã thành Phật".

Lục tổ Huệ Năng trình kệ cho Ngũ tổ, trong đó có 2 câu:" Đâu ngờ Tự tánh vốn tự thanh tịnh,", "Đâu ngờ Tự tánh hay sanh muôn pháp". Trong kinh Pháp bảo đàn, tổ nói: "tất cả trí Bát-nhã đều từ Tự tánh sanh, chẳng từ bên ngoài vào", " nếu biết Tự tánh một phen ngộ tức đến quả vị Phật". Đó là tông chỉ của Thiền tông mà tổ Bồ Đề Đạt Ma đã đề ra: "Kiến tánh thành Phật".

Ngũ tổ Hoằng Nhẫn nói: "Chẳng biết Bản tâm, học pháp vô ích, nếu biết được Bản tâm mình, thấy được Bản tánh mình, tức gọi là Trượng phu, là Thầy của trời, người, là Phật."

Như vậy cho thấy các tổ Thiền tông nói pháp không xa lời Phật dậy.

- Kinh nói: "Y pháp huyễn mà nói giác cũng gọi là huyễn", "biết pháp huyễn hóa tức lìa, chẳng khởi phương tiện, lìa pháp huyễn hóa liền giác, cũng không có thứ lớp".

Thiền sư Huệ Hải bảo học chúng :"Tôi chẳng hội thiền, trọn không có một pháp có thể dạy người, không phiền các ngươi đứng lâu, hãy tự đi đi!" Tuy vậy mà học chúng dần dần thêm đông, ngày đêm thưa hỏi. Sư bất đắc dĩ vì hỏi giải đáp, biện tài không ngại." (Đốn ngộ nhập đạo yếu môn- Thích Thanh từ).

- Kinh Viên giác lập phương tiện để tu hành là pháp thiền. Trong khi tu tập pháp thiền có bốn bệnh cần phải lìa là Tác, Nhậm, Chỉ và Diệt. Vậy cần biết là Thiền tông có lìa được bốn bệnh đó không.

1. bệnh Tác.

Kinh nói: "tánh Viên giác kia chẳng phải do làm mà được", "làm" ở đây nói là "làm các thứ hạnh". Tánh Viên giác sẵn có ở mọi chúng sanh, nếu cho rằng phải làm hạnh nào để có tánh Viên giác là điều sai lầm, là bệnh phải nên xa lìa.

Thiền sư Thần Hội nói: " Dụng tâm là pháp điều phục. Nếu pháp điều phục làm sao được giải thoát?"

Thiền tông chỉ rõ là " tánh tự thanh tịnh", vậy nếu nói phải tu theo pháp nào để đạt được tánh thanh tịnh thì chưa biết thế nào là "tự tánh". Kinh Viên giác cũng nói: "Này thiện nam, tất cả chúng sanh đều chứng Viên giác" nên không thể cho rằng phải làm hạnh nào để chứng Viên giác.

kpbd có kể việc chứng ngộ của tổ Huệ Năng như sau. Ngũ tổ Hoằng Nhẫn muốn tuyển người để truyền chánh pháp nên hội họp các đệ tử và nói là ai làm được bài kệ tỏ ra đã kiến tánh thì sẽ trao y pháp làm tổ thứ sáu thiền tông. Thượng tọa Thần Túgiáo thọ sư của thiền viện trình bài kệ: "Thân là cội bồ-đề, Tâm như đài gương sáng. Luôn luôn phải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm."

Còn Huệ Năng trình kệ: " Bồ-đề vốn không cây, Gương sáng cũng chẳng đài. Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi bặm?"

Sau đó Huệ Năng được nhận pháp làm Lục tổ. Thần Tú còn thấy phải "lau chùi" gương sáng là còn có bệnh Tác vậy, không thấy được chỗ " Xưa nay không một vật" nên chưa thấy được "tự tánh".

2. bệnh Nhậm.

Nếu cho rằng không cần đoạn sanh, tử, không cần cầu Niết bàn, thì sẽ đắc Viên giác. Kinh gọi đó là bệnh Nhậm. Đó là " mặc kệ không làm gì hết, cứ tự nhiên mặc tình đói ăn mệt ngủ cũng được tánh Viên giác".

Có người dậy rằng không cần làm gì hết, không cần tu tập, tìm cầu, dụng công khổ nhọc rồi cũng thành Phật, thành tổ. Đó là dậy thiền mục đích để thâu được nhiều người theo, vì ai thấy nói tu thiền không cần làm gì hết thì đều ham thích.

Thiền tông không có dậy như thế. Tổ Huệ Năng dậy chúng: "Này Thiện tri thức, trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân vì tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh". Theo Thiền tông, muốn thấy tánh, cần phải tự ngộ, nếu không tự ngộ thì phải nhờ thầy chỉ đường, và dĩ nhiên, sau khi biết đường thì còn phải tu tập, không thể mặc kệ, không cần tu tập mà được thấy tự tánh.

3. bệnh Chỉ.

Kinh nói rằng nếu tự tâm hằng dứt các niệm để cầu Viên giác là mắc bệnh Chỉ.

kpbd: "Lại có người mê, để tâm rỗng không, ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ", đó là tà kiến.

kpbd: "Người mê chấp Pháp tướng, chấp nhất hạnh tam-muội, chỉ nói ngồi không động, tâm vọng không khởi tức là nhất hạnh tam-muội, người khởi hiểu thế này tức là đồng với vô tình, trở lạinhân duyên chướng đạo."

Thiền sư Thần Hội nói: " Nếu có người ngồi “tâm si nhập định, trụ tâm khán tịnh, khởi tâm chiếu bên ngoài, nhiếp tâm lắng lặng bên trong”, đây là chướng Bồ-đề, chẳng cùng Bồ-đề tương ưng, do đâu có thể được giải thoát?"

4. bệnh Diệt

Kinh nói nếu phải: "đoạn hẳn tất cả phiền não, thân tâm hoàn toàn không, không sở hữu, huống là cảnh giới hư vọng của căn trần"  để đạt Viên giác là mắc bệnh Diệt.

kpbd: "Này Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề".

kpbd: : "Phiền não tức là Bồ-đề, không hai, không khác, nếu dùng trí tuệ chiếu phá phiền não, đây là kiến giải của hàng Nhị thừa".

kpbd: "Lại có người mê, để tâm rỗng không ngồi tĩnh tọa, trăm việc không cho nghĩ tự gọi là đại, một bọn người này không nên cùng họ nói chuyện vì là tà kiến."

Kinh Viên giác nói: " tất cả phiền nãogiải thoát rốt ráo", nên nếu cho rằng phải đoạn tất cả phiền não thì rõ là không thể thấy được tánh Viên giác.

Đoạn nói về bốn bệnh này trong kinh Viên giác rất hữu ích cho những người tu tập theo Thiền tông. Viên giác tánh cũng là Phật tánh, cũng là tự tánh, theo danh từ của tổ Huệ Năng. Có người cho rằng muốn "Thấy Tánh" thì phải lau chùi cho gương sáng, phải dẹp hết, diệt trừ mọi niệm, mọi suy tư, mọi phiền não, giữ tâm lặng lẽ. Như vậy vẫn là mắc phải bốn bệnh "Tác, Nhậm, Chỉ, Diệt" đã nói trong kinh Viên giác. Tuy bước đầu cần phải tu tập như vậy nhưng nên biết đó chỉ là phương tiện, không thể nói tu như vậy để Thấy Tánh được.

Tuy đã có nhiều giải nghĩa thế nào là Tánh, nhưng đều là tạm nói thôi vì đó là điều mà các kinh thường nói là "không thể nghĩ bàn". Nhưng có thể nói cụ thể là nếu theo kinh Viên giác, thì Thiền tông cũng có thể nói rằng người Thấy Tánh tức là người đã đạt được "tùy thuận tánh Viên giác" nói ở phần trên bài này: " chánh niệm, thất niệm đều là giải thoát, trí tuệ, ngu si đều là Bát-nhã; vô minh, chân như đồng một cảnh giới; địa ngục, thiên cung đều là tịnh độ; tất cả phiền nãogiải thoát rốt ráo …"

Tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng nói không khác: "Chẳng thấy phiền não khác với Niết- bàn, ấy gọi là bình đẳng. Vì cớ sao? Phiền não cùng với Niết-bàn đồng một tánh.

- Người Tiểu thừa vọng đoạn phiền não, vọng nhập Niết-bàn là bị dính mắc Niết-bàn.

 - Bồ-tát cùng Phật chưa từng sanh tâm mà cũng chưa từng diệt tâm.

- Không có mê, ngộ mới gọi là chánh giải, chánh kiến." (Sáu cửa vào động Thiếu thất)

 

Ghi chú

- Những đoạn chữ nghiêng trong bài này đều được trích từ những bài dịch và giảng của hòa thượng Thích Thanh Từ như: Kinh Viên giác, Kinh Pháp bảo đàn, Sáu cửa vào động thiếu thất,… Ngoài ra nếu trích từ các tài liệu khác thì đều có ghi riêng.

- Kinh Viên giác được dịch và giảng do nhiều vị: Thích Thanh Từ, Thích Thiện Hoa, Thích Trung Quán, Thích Duy Lực, Thích Thông Huệ, Thích Giải Năng, Thích Hằng Đạt … Tuy vậy nếu xem kỹ thì mỗi bản dịch đều có khác nhau nên quý độc giả có thể thấy rõ. Ngoài ra bài giảng của hòa thượng Thích Huyền Vi về kinh Viên giác cũng rất là đầy đủ.

- Tài liệu tiếng Anh: The Sutra of Perfect Enlightenment ([SPE] Yuan chueh ching) của Charles Muller.

 

Seattle, tháng 1- 2014
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9955)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9932)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20508)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34406)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9633)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20441)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19194)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8752)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8862)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12108)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22996)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8995)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9259)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9894)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10616)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10925)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12473)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9334)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9192)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9312)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22240)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10187)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8289)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8624)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8611)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9445)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8353)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8466)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10178)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23618)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8338)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8525)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7970)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8795)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10059)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8622)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30055)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24162)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9631)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28203)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23698)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12244)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8883)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9656)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9342)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9640)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30893)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27118)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32707)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33995)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27760)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58674)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10653)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13938)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14207)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10761)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28148)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant