Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Bài Học Lịch Sử Còn Để Lại Dấu Tích Văn Chương

09 Tháng Năm 201407:23(Xem: 17685)
Một Bài Học Lịch Sử Còn Để Lại Dấu Tích Văn Chương


1.
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta. Một giai đoạn đen tối của lịch sử dân tộc bắt đầu từ đây và đã được danh nhân văn hóa thế giới là Nguyễn Trãi ghi tả bằng ngôn ngữ văn chương :”Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ“.(1)

Thấy rõ bộ mặt giả dối, gian ác của kẻ thù và bè lũ Việt gian, con cháu nhà Trần khởi binh đánh giặc cứu dân, cứu nước. Không còn tin tưởngnăng lực lãnh đạo của Giản Định Đế Trần Quỹ, vị tướng văn võ toàn tài Đặng Dung phò Trần Quý Khoách lập căn cứ ở Nghệ An, lấy niên hiệu là Trần Trùng Quang. Năm 1413, bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đuổi đánh, Quý Khoách phải chạy vào Hóa Châu, rồi cử mưu sĩ là Nguyễn Biểu đến trại tướng Tàu ở Nghệ An để xin hòa và cầu phong.

Trước thái độ ngoan cố, thoái thác quanh co của Trương Phụ, Nguyễn Biểu tức giận mắng chửi : “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật là đồ ăn cướp hung ngược!”(2)

Thử thách gan dạ của sứ giả Việt Nam, Trương Phụ sai nấu một cái đầu người rồi dọn cỗ mời ăn ! Không sợ hãi, Nguyễn Biểu dùng đũa gắp hai tròng mắt bỏ vào miệng nuốt ngon lành ! Ban đầu, vì cảm phục khí tiết của sứ thần nhà hậu Trần, Trương Phụ tha cho về, nhưng về sau, nghe lời xúi giục của tả hữu, y thay đổi ý kiến, sai quân đuổi theo bắt lại, rồi trói vào chân cột cầu sông Lam cạnh chùa Yên Quốc. Vào ban đêm, thủy triều dâng cao, vị sứ giả anh hùng của nước Việt chết ngộp dưới chân cầu…

2.
Lần đi sứ bi hùng và sự hi sinh anh dũng của sứ giả Nguyễn Biểu đã để lại dấu tích trong lịch sử văn học nước nhà. Ngoài ba bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú (3) còn có bài tụng của Sư chùa Yên Quốc cầu cho Nguyễn Biểu và bài văn tế của Trần Trùng Quang tế Nguyễn Biểu. Nếu cả năm tác phẩm này cung cấp cho hậu thế những tài liệu xác thực về văn học chữ Nôm đời Trần thì bài tụng và bài văn tế là hai bằng chứng sinh động để chúng ta khẳng định Phật giáo đã đồng hành với dân tộc qua lịch sử ngàn năm.

Phật tử chúng ta đều biết đời Lý và đời Trần là thời cực thịnh của Phật giáo Việt Nam. Cho nên, không còn nghi ngờ gì nữa, đối với một tu sĩ Phật giáo của thời đại hoàng kim ấy, vào chùa là bước vào cửa Không để tu, để sống thanh cao với “mùi thiền” là “muối dưa” và “màu thiền” là “nâu sồng“, vì “Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi !“(4) Thế nhưng, cũng giống như các bậc chân tu của hai triều đại Lý Trần, ngọn lửa của tình yêu nước thương dân không bao giờ “tắt” trong trái tim của vị tu sĩ chùa Yên Quốc. Bằng cảm xúc của một người Việt yêu giống nòi, nhà Sư chùa Yên Quốc đã viết bài kệ ca tụng đức tính trung kiêntinh thần bất khuất của sứ thần Nguyễn Biểu :

“Trần quốc xẩy vừa mạt tạo , sứ hoa bỗng có trung thần.
Vàng đúc lòng son một tấm , sắt rèn tiết cứng mười phân.“(5)

Lịch sử ngàn năm bị ngoại xâm và chống ngoại xâm của nước nhà đã rèn đúc cho người Việt một tình tự dân tộc độc đáo. Đó là lòng oán hận, khinh ghét vô cùng những tội đồ của lịch sử là bọn mãi quốc cầu vinh. Đó là lòng tôn kính, biết ơn vô hạn những anh hùng dân tộc đã có công đánh giặc, cứu nước. Một biểu hiện sinh động của tình cảm cao đẹp này là mỹ tục lập đền thờ tưởng niệm để đời đời nhớ ơn và ngưỡng mộ như thần thánh những bậc minh quândanh tướng đã vì nước quên thân. Không đi ra ngoài truyền thống đó, Sư Ông chùa Yên Quốc đã kết thúc bài kệ bằng lời cảm thán cái chết bi ai mà hùng tráng của Nguyễn Biểu và đồng thời hộ niệm, suy tôn vị sứ thần quả cảm thành “phúc thần” bảo hộ đất nước và nhân dân :

Trần kiếp vì đâu oan khổ , phương hồn đến nỗi trầm luân.
Tế độ dặn nhờ từ phiệt , chân linh ngỏ được phúc thần.“(6)

Nếu bài kệ của Sư chùa Yên Quốc thể hiện lòng thương dân, yêu nước thiết tha thì bài văn tế của vua Trần Trùng Quang bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc :

Sinh sinh hóa hóa, cơ huyền tạo mờ mờ ; sắc sắc không không, bụi hồng trần phơi phới.
Bất cộng thù, thiên địa chứng cho ; vô cùng hận, quỷ thần thề với.” (7)

Qua hai câu văn có đối có vần, chúng ta gặp lại ở đây sự song hành của Phật giáo và dân tộc.

Câu thứ nhất là tuyên ngôn của nhà Phật học Trần Quý Khoách. Với đa số chúng ta, “sinh” thường đi đôi với “tử” để mở đầu và kết thúc một quá trình đi từ sống đến chết của đời người. Nhưng với Trần Quý Khoách, người đã am hiểunhân quảluân hồi, “tử” được thay bằng “hóa” để xác định rằng chết không có nghĩa là hết mà chết chỉ là một lần thay đổi hình thức của sự sống để bắt đầu một cuộc đời mới. Có cái này vì có cái kia, có cái này thì có cái kia. Cho nên sinh ra không có nghĩa là bắt đầu từ số không và chết đi cũng không có nghĩa là chấm dứt để trở về với số không ấy. “Sinh sinh hóa hóatiếp nối không ngừng. “Sắc sắc không khôngtái diễn chẳng bao giờ dứt. Có hiểu biết sâu sắc và lạc quan như vậy về lẽ sinh tử, người Phật tử chân chính quan niệm cái chết chẳng khác gì một lần thay áo mới để “phơi phới” phủi sạch “bụi hồng trần” …

Câu thứ hai là tiếng nói của vị lãnh đạo kháng chiến Trần Trùng Quang. Không thể giữ tâm thanh tịnh trước thái độ cực kỳ gian ác, vô cùng tàn bạo và hoàn toàn không có văn hóa mà tướng giặc đã đem ra đối xử với toàn dân Việt Nam trước đó và với sứ giả Việt Nam bây giờ, trước trời đất thiêng liêngquỷ thần siêu nhiên, vị vua cuối cùng của nhà hậu Trần đã thề không đội trời chung với kẻ thù. Đọc đến đây, có thể một người bàng quan sẽ nêu thắc mắc: Đã liễu tri lẽ sinh hóa, sắc không để rũ sạch bụi trần với tấm lòng phơi phới, tại sao Phật tử Trần Quý Khoách còn sinh tâm thù hận “ác liệt” như vậy ? Phải chăng đã có sự đối lập giữa đạo và đời, giữa xuất thếnhập thế trong hai phát ngôn của một tác giả ?

Sống trong một quốc gia có đất rộng, người đông, một thiểu số tu sĩ hay đạo sĩ có thể gác bỏ ngoài tai mọi chuyện đời để toàn tâm toàn ý sống với lẽ đạo thanh cao và mầu nhiệm. Nhưng nước Việt đất không rộng, người không đông, lại thường xuyên đối đầu với tham vọng chiếm cứ và đồng hóa của những kẻ thù lớn mạnh hơn mình nhiều lần. Cho nên, khi đất nước bị ngoại xâm, để có đủ tay súng mà chiến đấu và chiến thắng , tất cả công dân Việt Nam – không phân biệt tuổi tác, giới tính, chính kiến, lòng tin tôn giáotrình độ học vấn – đều ra trận. Dã sử nước Việt ca ngợi Thánh Gióng là cậu bé mới lên ba của làng Phù Đổng mà đã biết xin nhà vua cho ngựa sắt, roi sắt để đánh đuổi giặc Ân. Chính sử nước nhà cho biết lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc được bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa vào giữa thế kỷ thứ nhất của hai bậc nữ nhi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Ý chíquyết tâm của những cụ già tham dự Hội nghị Diên Hồng đã tiếp sức cho vua quan nhà Trần làm nên chiến thắng giặc Nguyên Mông vô cùng oanh liệt vào thế kỷ XIII. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Khi Tổ quốc lâm nguy, những tu sĩ Phật giáo như Sư chùa Yên Quốc, những tín đồ Phật giáo như vua Trần Trùng Quang làm sao có thể an tâm tụng đọc câu kinh Bát Nhãsắc tức thị không, không tức thị sắc” để xóa nhòa ranh giới giữa bạn và thù ?

3.
Vào chiều chủ nhật ngày 3 tháng 2 năm Đinh Hợi (23.2.1947), ở ngọai ô thành phố Huế, không biết hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Minh tích cực đến mức nào mà vị tu sĩ trẻ ưu tú của Phật giáo Việt Nam thời phục hưngPháp sư Trí Thuyên đã bị thực dân Pháp thi hành án tử ngay tại chùa Kim Sơn!? Bằng tiếng Pháp, Thầy yêu cầu viên sĩ quan chỉ huy lính viễn chinh dành ít phút để đắp y và tụng đọc một thời kinh trước mũi súng của giặc ngoại xâm.(8) Chúng tôi nghĩ rằng, trong khung cảnh thiêng liêng mà hùng tráng này, thời kinh siêu độ không thể thiếu bài kinh Bát Nhã: “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc,…

Cùng với sự tích bi tráng của nghĩa sĩ Nguyễn Biểu năm xưa, sự hoá thân uy linh của Tỳ kheo Thích Trí Thuyên vào giữa thế kỷ XX vừa qua chứng tỏ Phật giáo Việt luôn đồng hành với dân tộc Việt để cùng chia sẻ những mất mát và đau thương do những thế lực ngoại lai phi dân tộc và phản dân tộc đã và đang liên tục gây ra. Phật tử chúng ta tin tưởng rằng, dù phải chịu đựng vô vàn thử thách và gian nguy, dân tộc và đạo pháp vẫn tồn tại , như ngọc cháy trên núi mà sắc vẫn sáng đẹp, như sen đốt trong lò mà màu vẫn tốt tươi :

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.” (9)

Hà Thúc Hoan
TP. HCM 1.6.11

Chú thích

(1) Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo ( bản dịch của Trần Trọng Kim)
(2) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển 1, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1971, tr.204.
(3) – Bài thơ vua Trần Trùng Quang tiễn tặng Nguyễn Biểu lúc đi sứ ;
- Bài thơ Nguyễn Biểu họa lại;
- Bài thơ Nguyễn Biểu làm lúc ăn cỗ đầu người.
(4) Nguyễn Du, Truyện Kiều
(5) (6) (7) Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 2, Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1968, tr.63,64.
(8) Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb TP.Hồ Chí Minh, TP.HCM,2001, tr.507,508.
(9) Ngộ Ấn Thiền Sư, Thị tịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9951)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9930)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20506)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10333)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9950)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10335)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34403)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9632)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11092)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9792)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9177)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20439)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19188)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8748)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8861)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12106)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9593)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22994)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8992)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9258)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9971)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9893)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10610)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10924)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12471)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9333)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9187)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9309)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22238)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10182)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9447)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8623)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8610)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9442)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8351)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8463)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10176)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9386)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8336)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8520)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7967)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8792)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10057)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8616)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30401)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30050)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24160)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9267)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9628)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9506)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9499)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9066)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28202)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23695)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12241)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8880)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9340)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9636)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30886)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27114)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32699)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33994)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27746)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12463)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58662)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10650)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9388)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9554)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13937)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14205)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10760)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28143)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23269)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant