Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vì Sao Niệm Phật Không Vãng Sanh

11 Tháng Hai 201508:49(Xem: 10495)
Vì Sao Niệm Phật Không Vãng Sanh
VÌ SAO NIỆM PHẬT
KHÔNG VÃNG SANH

Pháp sư: HT. Tịnh Không
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Giảng tại Tịnh tông học hội, Singapore, tháng 05- 1998




vi-sao-niem-phat-khong-vang-sanh-tinh-khongThỉnh cầu khai pháp hội

Kinh Địa Tạng Bồ tát bổn nguyện, quyển thứ ba: “Nhĩ thời Phật cáo, Địa Tạng Bồ Tát, ngô kim ư Đao Lợi Thiên cung, nhất thiết chúng hội, thuyết Diêm Bồ Đề bố thí, giảo lượng công đức khinh trọng, nhữ đương đế thính, ngô vi nhữ thuyết”. Có nghĩa, bồ tát Địa Tạng hướng về đức Thế Tôn thỉnh giáo: “Chúng sinh sáu cõi tu phước không giống nhau, nên quả báo cũng không giống nhau. Xin Thế Tôn đem chân tướng sự thật này vì chúng con mà diễn nói”.

“Nhĩ thời” chính là lúc bồ tát Địa Tạng thỉnh giáo sự việc này. Ngay khi đó, ở cung trời Đao Lợi, Thế tôn tự xưng “ngô” diễn nói trong tất cả chúng hội bao gồm đại chúng của mười pháp giới, thù thắng hi hữu không gì bằng. Do đó hội này không hề khác biệt so với hải hội của kinh Hoa Nghiêm, chẳng qua pháp hội này mượn cung trời Đao Lợi để khai hội. Tận hư không khắp pháp giới, chúng sinh sáu cõi tham dự, tình huống cũng hoàn toàn giống kinh Hoa Nghiêm, cũng đều là chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở sáu cõi, ác đạo, dùng thân phận các quỷ vương xuất hiện ngay trong đại hội. Cho nên tất cả hội chúng hy hữu chưa từng có.

Công đức bố thí nặng hay nhẹ?” là lời thỉnh cầu của bồ tát Địa Tạng nói về Diêm Phù Đề cũng là địa cầu của chúng ta. Người trên địa cầu này muốn biết tu phước được quả báo nặng hay nhẹ thì phải chú tâm lắng nghe Thế tôn giảng giải, “nhữ đương đế thính, ngô vi nhữ thuyết”.

Thế tôn lược giảng

Địa Tạng bạch Phật ngôn: “ngã nghi thị sự, nguyện lạc dục khai”, có nghĩa “con rất nghi ngờ việc này, hoan hỉ mong ngài nói ra chân tướng”. Trong phần chú giải, pháp sư Thanh Lương giải nghĩa như sau: “Diêm Phù Đề nhân, năng hành bố thí giả, tất báo sinh thiên thượng”, tức là chân thật tu bố thí, bố thí đúng lý đúng pháp, bố thí là phước, tu phước, phước báu lớn sẽ sinh đến cõi trời. Thế Tôn ở cung trời cũng đã nói về công đức bố thí.

Phù bố thí chi nghiệp nãi chúng hành chi nguyên”

Có nghĩa, tài vật vô thường, người người tranh nhau, phàm phu tiếc rẻ, không buông xả. Người thế gian không từ bất cứ thủ đọan gì để tranh đoạt tài vật, tạo nghiệp. “Toại sử thê nhi giác mục”, gia đình bất hòa, anh em chống trái nhau, quyến thuộc chia lìa, thân bằng cách biệt,… gần như sáu căn của chúng ta đều tiếp xúc với những cảnh tượng này, nên phải hiểu rõ nghiệp nhân quả báo, cần phải lắng nghe khai thị của Thế Tôn.

Phật nói Địa Tạng Bồ Tát: cõi Nam Diêm Phù Đề có các Quốc Vương, Tể Bổ Đại Thần, Đại Trưởng Giả, Địa Sát Lợi, Đại Bà La Môn v.v., có địa vị, tiền của, là người có khả năng bố thí, nếu gặp người nghèo khổ bần cùng cho đến bệnh tật câm điếc, ngờ nghệch đui mù, không đầy đủ các căn, đều xem là đối tượng để bố thí. Theo nhà Phật, phước điền có ba loại, trong đó “bi điền” chỉ người thế gian đáng thương, do đời quá khứ không tu phước, tuy được thân người nhưng lại sống thiếu thốn, nghèo khổ.

Chúng ta có khả năng nhìn thấy những chúng sinh này, phải dùng tâm đại từ bi, tận lực giúp đỡ. Kinh nói “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”, phước báu như bóng theo hình, trồng phước được phước, vì vậy phải thông hiểu đạo lý này.

Thị đại quốc vương đẳng”

“Đẳng” ở đây như đã nói “Tể Bổ Đại Thần, Trưởng giả, Sát Lợi, Bà La Môn đẳng”, chính là người ở xã hội này, có địa vị, tiền của, năng lực, phải nên tu bố thí. Phật trong kinh thường nói, phước báu cùng chia sẻ với chúng sinh thì phước báu này sẽ lớn hơn, và được hưởng thụ mãi mãi khôn cùng tận. Tham lam bỏn xẻn, chỉ hưởng thụ cá nhân thì dù phước báu có lớn mấy cũng chỉ thọ dụng một đời này, đời sau không còn nữa. Không còn phước báu thì dù có tránh được ba đường ác, cũng chịu nghèo khổ, các căn không đầy đủ, bị đọa lạc ở cõi nhân gian.

Người hiểu rõ đạo lý này, biết được chân tướng sự thật, phải nên tu phước. Phú quý, bần tiện thảy đều tu phước. Quả báo trong tương lai là bình đẳng, chỉ cần tận tâm tận lực, việc tu phước đều được viên mãn. “Thị đại quốc vương đẳng, dục bố thí thời”, bố thí mọi lúc mọi nơi, không nên gián đoạn, đặc biệt với tâm đại từ bi, thanh tịnh không phân biệt, không chấp trước, đối với tất cả chúng sinh chỉ đồng một tâm yêu thương, “nhược năng cụ đại từ bi, hạ tâm hàm tiếu, thân thủ biến bố thí”.

Hạ tâm, tức khiêm nhường, tôn trọng người, không hề có chút tập khí ngạo mạn, càng không thể có thái độ ngạo mạn, gọi là “hạ tâm hàm tiếu”. “Thân thủ biến bố thí”, đích thân thực hiện, nếu nhân duyên không đủ thì khuyến tấn người khác hành bố thí với thái độ “hoặc sử nhân thí, nhuyễn ngôn úy dụ”, ôn hòa, an ủi người tiếp nhận bố thí.

Thị quốc vương đẳng, sở hộ phước lợi, như bố thí bách hằng sa Phật, công đức chi lợi”

Ai cũng biết, bố thí cúng dường Phật công đức to lớn, người người đều thích cúng dường Phật, lơ là đối với những người cùng khổ. Nhưng thực ra, bố thí cho những hoàn cảnh bất hạnh trong xã hội, phước báu thu được không khác gì cúng dường chư Phật Như Lai. Cúng dường chư Phật và bố thí người bần tiện đều với tâm chân thành cung kính thì phước báu cũng đều như nhau. Dùng tâm bình đẳng, phước thu được là phước bình đẳng.

Cũng vậy, chúng ta học Phật, tha thiết muốn ngay đời này làm Phật, không phải không làm được. Phật dạy, nhất định phải xem tất cả chúng sinhcha mẹ quá khứ, là chư Phật vị lai của chính mình. Chúng sinh giàu sang, chúng ta biết đời trước họ tu phước, là cha mẹ quá khứ của chúng ta. Chúng sinh bần tiện, chúng ta cũng hiểu rõ trong đời quá khứ không tu phước, cũng là cha mẹ quá khứ của chúng ta.

Đem tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng để hiếu thuận, bố thí cúng dườnghiếu dưỡng phụ mẫu, là phụng sự chư Phật. Dùng tâm trạng như vậy để đối đãi với mọi người, với tất cả chúng sinh, thì thời gian thành Phật sẽ được rút ngắn. Bên cạnh đó, việc niệm Phật cầu sinh thế giới Tây Phương cực lạc thì đời này nhất định vãng sinh.

Niệm Phật vì sao không thể vãng sinh làm Phật?

xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật. Không phải chư Phật Bồ Tát không giúp đỡ mà chính chúng ta bỏ lỡ cơ hội trước mắt. Do đó cần phản tỉnh, kiểm điểm ở mình, khi thật sự giác ngộ, đạo Bồ Tát sẽ thuận buồm xuôi gió, không còn chướng ngại. Tỉ mỉ quán xét, không chút ngạo mạn, hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng sinh đích thực là cha mẹ quá khứ của ta, xác xác thực thực là “chư Phật vị lai”.

Đức Phật nhìn thấy đời quá khứ của con người, quá khứ còn có quá khứ, quá khứ vô cùng, vô lượng vô biên kiếp đến nay, cùng với chúng sinh có quan hệ quyến thuộc, đồng l quan hệ quyến thuộc thì làm sao có thể đối xử không tốt. Người thế gian thường hay tiếc của, nhìn thấy liền khởi tham sân si mạn, tạo tác nhiều ác nghiệp, phải chịu quả báo.

Chúng ta may mắn gặp được Phật pháp, gặp Đại thừa, được Phật giảng giải tường tận giúp giác ngộ. Sau khi giác ngộ, tâm chúng ta thay đổi rất lớn theo hướng tích cực. Dùng tâm chân thành hiếu thuận để cúng dường đại chúng, phước báu vô lượng như kinh đã nói: “được công đức lợi ích như bố thí trăm Hằng sa chư Phật”. Cơ duyên khó đến, hi hữu khó gặp, chân thật hiểu rồi, chân chính giác ngộ, tự nhiên sẽ toàn tâm toàn lực phụng hiến đại nghiệp này, cũng là cúng dường cha mẹ, cúng dường chư Phật.

Hà dĩ cố”

Thế tôn giảng “Duyên thị quốc vương đẳng, ư thị tối bần tiện bối, cập bất hoàn cụ giả phát đại từ tâm”, đây là điều kiện rất quan trọng bởi vì người tu bố thí phát ra tâm đại từ bi tương đồng với tâm Phật. Có bốn loại từ bi:

- Người thế gian chỉ có “ái duyên từ bi”, thương yêu ai thì từ bi với người đó.

- Người trí có “chúng sinh duyên từ bi”, họ hiểu rằng thương chính mình cũng là thương người khác, thương người khác là thương quốc gia dân tộc, cho đến thương yêu tất cả chúng sinh, tâm lượng của người này rộng lớn. Người có tâm lượng lớn, đại đa số đều thuộc về nhân vật lãnh đạo trong xã hội, bố thí cúng dường phục vụ rộng khắp.

- Bồ tát giác ngộ có “pháp duyên từ bi”, xem tất cả chúng sinhcha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai mà tu hiếu kính, cúng dường. Pháp duyên từ bi còn có điều kiện, không phân biệt, không chấp trước, hoàn toàn tự nhiên.

- Theo Phật pháp, “pháp nhĩ như thị” mới gọi là “đại từ bi”, phước báu này vô lượng vô biên, chúng sinh duyên hay pháp duyên không thể so sánh. Cho nên người phát tâm đại từ bi, giống như Phật.

Ngày nay học Phật, muốn tu đại phước báu, chúng ta thảy đều bố thí tài vật thuộc sở hữu của mình, bố thí cúng dường 100%, tâm 100% thanh thịnh, thì quả báo có được cũng 100%, như vậy mới gọi là bình đẳng pháp, bất kể người có thế lực, tiền tài, hay người nghèo khổ cũng có thể bố thí. Chẳng ai bần cùng đời đời kiếp kiếp cũng chẳng ai phú quý mãi mãi. Theo kinh Phật, người bần tiện đời sau đại phú quý, người phú quý đời sau bần tiện.

Vì khi hưởng thụ phú quý, rất khó bố thí viên mãn, trong khi người bần tiện lại có thể tu phước báu. Kinh Tiểu thừa đưa ra câu chuyện một người ăn xin bần tiện đến cùng cực, bà được bố thí một hào, dù ít nhưng bà vô cùng vui sướng. Đi một đoạn, bà gặp đức Phật đang từng bước khất thực. Nghĩ mình thân thế thê thảm, đời quá khứ không tu phước báu, bà liền đem một hào duy nhất có được cung kính cúng dường Phật. Sau khi mạng chung, bà sinh vào gia đình trưởng giả giàu có, lớn lên được tấn phong hoàng hậu. Vì sao được phước báu lớn như vậy? Vì bà ấy phát tâm đại từ, tâm chân thành cung kính, phước từ đó mà sinh ra. Một hào không có giá trịgiá trị chính ở tâm bà.

Các vị quốc vương nhiều tiền của, bố thí, nuôi dưỡng, giáo dục nhân dân, nếu không dùng tâm đại từ bi, phong cách khiêm hạ, thì phước báu của họ sẽ không đáng kể, đời này làm quốc vương, đời sau chỉ được làm đại thần, càng lúc càng nhỏ. Bố thí tiền của nhiều nhưng tâm không thanh tịnh, không đủ từ bi, thì đại từ bi hạ xuống thành pháp duyên từ bi, chúng sinh duyên từ bi, ái duyên từ bi, đời sau thấp hơn đời trước.

Phật trong kinh luận đem đạo lý này nói rất nhiều, rất tường tận, chúng ta phải tỉ mỉ mà thể hội, phải ghi nhớ, mọi lúc mọi nơi, đối nhân xử thế tiếp vật. Lời Phật dạychân thật, cho nên phải khiêm nhường cung kính đối với tất cả mọi người, tận tâm tận lực giúp đỡ như giúp đỡ cha mẹ mình. Quả báo phước lợi lớn hay nhỏ đều ở dụng tâm, không phải ở số tiền nhiều hay ít mà chúng ta bố thí.

Thị cố phước lợi”

Cái phước đạt được, “hữu như thử báo”, nếu chúng ta muốn bố thí trăm Hằng hà sa chư Phật Như Lai, chỉ có cách dùng tâm đại từ bi như Phật đã nói: xác xác thực thực chúng sinh chính là cha mẹ quá khứ, chư Phật vị lai. Dùng tâm chân thành cung kínhbố thí cúng dường những người bần cùng hạ tiện, phước báu ngang bằng cúng dường Hằng hà sa chư Phật. Sông Hằng dài hơn sông Trường Giang Trung Quốc rất nhiều, cát sông Hằng mịn như bột, số cát sông Hằng không thể tính điếm. Trong câu chuyện về người ăn xin vừa nêu, một hào tiền chân thành cung kính cúng dường Phật, quả báo đời sau được làm hoàng hậu, cũng thể hiện nội dung này.

Chúng ta có thể cúng dường bố thí trăm Hằng hà sa số chư Phật Như Lai, quả báo không thể nói hết. Phật nói những lời này tuyệt đối chẳng phải dùng phương tiện khéo léo bảo chúng ta đi chăm sóc những người bần khổ, người già khó khăn, mà Phật chân thật dạy ta hướng tâm thanh tịnh. Phàm phu mê mất đi tự tánh, không thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sinh, xung quanh chúng ta nơi đâu cũng đều là phước điền. Ấy vậy mà chúng ta không biết cách trồng phước, trái lại đi tạo tội nghiệp. Quả thật đáng thương!

Người biết tu phước, hiểu được bố thí cúng dường, người đó chính là Bồ tát. Đời sống của chúng tabố thí cúng dường, việc làm của chúng ta cũng là bố thí cúng dường, không luận nghề nghiệp, chức vị, tất cả đều vì xã hội đại chúngphục vụ, chỉ cần có tâm trạng như vậy cũng là bố thí cúng dường. Nghĩ rằng nghề nghiệp này của ta để ta kiếm tiền, vì gia đình ta, vì con cái ta, phước điền vuột mất ngay tức khắc. Cũng đồng một công việc nhưng ý niệm sai biệt, ý niệm tự tư tự lợi chính là phàm phu liền tạo nghiệp, còn ý niệmchúng sinh, vì xã hội, đó chính là Bồ tát, là Phật. Thay đổi ý niệm thì siêu phàm nhập thánh, phước lợi vô lượng vô biên.

Phước báu của Tỳ Lô Giá Na trong kinh Hoa Nghiêm, hay Phật A Di Đà trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta cũng có thể có được nếu biết tu phước. “Bách thiên sinh trung, thường đắc thất bảo cụ túc, hà huống y thực thọ dụng”, phước báu không phải chỉ có một đời một kiếp mà đời đời kiếp kiếp hưởng thọ không cùng tận, vì vậy phải chuyển đổi ý niệm. Người có phước báu, trí tuệ cũng khai mở, gọi là “phước chí tâm linh”, khi phước báu hiện tiền, tâm tư cũng linh mẫn, trí tuệ hiện tiền. Phật dạy “phước huệ song tu”, cái huệ đó chính là giác ngộ thông suốt. Phước là hình thức, khi đã thông suốt, hiểu rõ chân tướng sự thật, huệ liền khai mở.

Phụng sự chúng sinh là đúng, là việc nên làm, phụng sự bản thân là sai, là việc không nên làm. Luôn khởi tâm động niệm, mỗi niệm vì chúng sinh, vì xã hội, vì nhân dân, không còn chút tư tâm nào. Ngay trong cuộc sống thường ngày, từ sớm đến tối, từ đầu năm đến cuối năm, tất cả đều là phụng hiến, đều là bố thí cúng dường, phước báu không thể kể hết.

Phục thứ Địa Tạng, nhược vị lai thế, hữu chư quốc vương, chí Bà La Môn đẳng”

Đây cũng là nói người có khả năng bố thí. “Ngộ Phật tháp tự, hoặc Phật hình tượng, nãi chí Bồ Tát, Thanh Văn Bích Chi Phật tượng, cung tự doanh biện, cúng dường bố thí”. Phần trên nói về việc bố thí người bần khổ, gọi là bi điền. Phần này giảng, bố thí tháp tự thánh tượng, gọi là kính điền. Ngày nay, chúng ta xây tháp, xây chùa, tu tạo hình tượng Phật, quả báo tương lai có được. Thế nhưng duyên của bố thí phải thảy đều đầy đủ. Nếu không đầy đủ duyên, phước báu không thể có được. Như đã nói phải dùng tâm từ bi của Phật để tu. Ngày nay bố thí chùa tháp Phật, bố thí đạo tràng Phật, trước tiên phải quan sát nơi đó chân thật có đạo hay không.

Chúng tôi cũng đã từng nói với các vị đồng tu từ xưa đến nay, đừng xây dựng đạo tràng rồi đi khắp nơi tìm người tu hành, đó là phản duyên, không thể được phước. Hãy xem người chân thật tu hành rồi mới xây dựng đạo tràng cho họ, phước báu này sẽ lớn theo năng lực của chính chúng ta. Ngày nay, một số đạo tràng không còn đúng như pháp. Đạo tràng không đúng pháp gần như nơi nào cũng có.

Đạo tràng xây dựng nguy nga tráng lệ, bên trong không làm đạo, chỉ có mấy người sống trong đó hưởng phước, tạo nghiệp. Bố thí cúng dường đạo tràng như vậy là giúp họ tạo thêm nghiệp, còn bản thân chúng ta tổn phước. Họ tạo nghiệp là do chúng ta giúp đỡ. Họ đọa lạc, chúng ta cũng sẽ bị kéo theo, bị liên lụy.

Kinh Địa Tạng: “bố thí tu tạo chùa tháp hình tượng được phước”. Ấy thế khi gặp ác báo, nhiều người than trách lời Phật không linh, dùng lời lẽ báng Phật, báng pháp, báng Tăng, tăng thêm trọng tội đọa A Tỳ Địa ngục. Phật không nói sai, tại con người hiểu sai ý, bố thí cúng dường chùa tháp, phải tìm người tu hành chân chính, như lý như pháp. Chỉ cần hai ba người tu hành, giúp họ dựng một am tranh, không cần thiết phải xây đạo tràng to lớn, nói cách khác, hình thức đạo tràng lớn nhỏ phải thích hợp với hiện tại.

Xây dựng đạo tràng to lớn cho số ít người tu hành sẽ tạo tội, vì đạo tràng to lớn, mỗi ngày quét dọn mệt mỏi, mất thời gian của việc tu tập. Rất nhiều điện đường phải đóng kín, không có thời gian quét dọn, mỗi năm chỉ có mấy lần pháp hội mới mở cửa, tìm một ít tín đồ đến phụ giúp, còn bình thường không dùng đến, như vậy không đúng pháp. Cho nên vào thời đại này, trong Phật môn tu phước, việc gì là quan trọng nhất? Đó là bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp.

Trước nay có thể bố thí chùa tháp, cúng dường Phật tượng có phước báu lớn là bởi vì xã hội đại chúng đã quen biết, đối với Phật pháp đều có tâm cung kính, phước báu mới lớn. Nhưng hiện nay, công cuộc hoằng pháp truyền bá thông điệp của đức Phật mới là công đức cần được đầu tư.

Pháp Sư Tịnh Không
Cẩn Dịch : Vọng Tây Cư Sĩ
Biên Tập : PT Giác Minh Duyên
Giảng tại Tịnh tông học hội, Singapore, tháng 05- 1998
(http://tinhkhongphapngu.com)
Người gửi bài: Nguễn Thành Chiến

09-01-2009 04:12:35

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9958)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20509)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10343)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10342)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9925)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34411)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9635)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8715)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9797)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9179)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20449)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8757)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8864)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12109)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9595)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22998)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8999)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9263)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9973)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9897)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10621)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12478)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9337)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9195)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9320)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10458)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21999)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22242)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16606)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9536)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10192)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8388)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8834)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8627)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9133)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9609)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8616)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9448)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8623)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8359)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8470)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10187)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23634)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9576)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9004)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8339)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8530)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7884)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7974)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8804)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8934)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10061)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8645)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8626)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30065)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24175)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9274)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9633)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9506)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9070)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28209)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23700)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8887)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9658)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9345)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9643)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30897)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27123)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32714)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34004)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27762)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12470)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58680)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10656)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9392)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9557)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13942)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14212)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10765)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28152)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23279)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10130)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant