Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhận Thức Về Tái Sinh - Chứng Ngộ - Vãng Sanh

21 Tháng Giêng 201506:47(Xem: 10178)
Nhận Thức Về Tái Sinh - Chứng Ngộ - Vãng Sanh


NHẬN THỨC VỀ TÁI SANH
CHỨNG NGỘ - VÃNG SANH

Thích Giác Khang


NHẬN THỨC VỀ TÁI SANHSau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được. Với lòng bi mẫn, trong 49 năm, Ngài đã đi khắp nơi giảng đạo nhằm giúp chúng sanh thay đổi nhận thức để thành Phật như Ngài. Và Đức Phật đã truyền lại pho tạng Kinh-Luật cho người đời nương vào đó để mà “văn - tư - tu”. Trong quá trình tư - tu các vị Tổ Sư đã triển khai Kinh - Luật thành Luận. Nay, thông qua “Kinh-Luật-Luận” để tìm hiểu: Như thế nào gọi là Tái sanh? Như thế nào gọi là Chứng ngộ? Như thế nào gọi là Vãng sanh? Và ba cái này giống nhau và khác nhau ra sao?

Tái sanh:

Tái sanh tức là luân hồi đồng nghĩa với không giải thoát. Tái sanh là do nghiệp lực chiêu cảm mà sanh trở lại cõi Ta bà, tức là khi thọ mạng chấm dứt, mống tâm tác ý muốn hiện hữu do đó tái sanh dưới hình thức một xác thân mới.

Qua “Kinh - Luật - Luận”, hiểu rằng, trong cuộc sống hàng ngày, ngay xác thân ngũ uẩn, tiến trình tâm thức trải dài qua 15 hạng chúng sanh từ địa ngục cho tới Như lai, nhưng vì mê muội khó mà nhận biết. Nếu tâm thức dừng lại rồi tư tưởng phân biệt dính mắc tham đắm vào đâu thì khi thọ mạng chấm dứt sẽ tái sanh mang một xác thân mới ứng hợp với tâm thức cùng cảnh giới đang dính mắc.

Tâm thức lờ đờ dừng ở bề mặt của 5 căn phù trần không có cái biết. Khi thọ mạng dứt, lập tức sa đọa vào cảnh giới Địa ngục.

Tâm thức dừng lại ở cảm giác lờ mờ chưa phân biệt của 5 thức đầu, dục vọng phát khởi làm tăng trưởng cảm giác đam mê trau chuốt xác thân, dẫn đến tham lam chiếm hữu ngoại sắc thô tháo. Khi thọ mạng dứt, lập tức sa đọa vào cảnh giới Ngạ quỷ.

Tâm thức dừng lại ở óc có sự phân biệt lờ mờ dục vọng bản năng, không suy tính trong mọi hành động chiếm hữu ngoại sắc, vì thế thường thất bại nên dễ quạu quọ sân giận. Khi thọ mạng dứt lập tức sa đọa vào cảnh giới Súc sanh.

Tâm thức dừng lại ở tư tưởng phân biệt lờ mờ trên phương diện tật đố, ganh tỵ. Luôn tranh giành chiếm hữu ngũ dục bằng bạo lực qua hành động của thân - khẩu. Khi thọ mạng dứt, lập tức sa đọa vào cảnh giới Atula.

Tâm thức dừng lại ở ý chí. Khi đối cảnh, tư tưởng tập trung vào mỗi giác quan để so đo phân biệt theo luân lý, rồi dùng ý chí đè nén dục vọng bản năng cải sửa hành động hướng thiện, bằng lòng với hoàn cảnh sống hiện tại. Khi thọ mạng dứt, nếu không bị nghịch duyên sẽ tái sanh vào cảnh giới Người.

Tâm thức dừng lại ở ý chíkinh nghiệm. Tư tưởng tổng hợp sự hiểu biết qua 5 giác quan kết hợp với kiến thức qua sách vở làm cho kinh nghiệm ngày càng phong phú, dễ thành công trong mọi lĩnh vực hoạt động, chiếm hữu ngoại sắc thanh cao, vui sống với cảnh an nhàn. Khi thọ mạng dứt, nếu không bị nghịch duyên sẽ tái sanh vào cảnh trời Dục giới.

Tâm thức dừng lại ở ý chí mạnh và kinh nghiệm dồi dào dễ dàng nhập định sơ thiền- nhị thiền- tam thiền, chìm đắm chiếm hữu nội sắc để tận hưởng cảm giác hỷ lạc, xem đây là cảnh thiên đường trần gian. Khi thọ mạng dứt lập tức tái sanh vào cảnh trời Sắc giới.

Tâm thức dừng lại ở ý chí mạnh mẽkinh nghiệm tuyệt vời, tự tại xuất nhập định, an trú trong cảm giác bất lạc bất khổ thọ của tứ thiền - tứ không, tư tưởng say mê tạo dựng cảnh giới mông lung, vui sống trong “hiện tại lạc trú và tịch tịnh trú”. Khi thọ mạng dứt lập tức tái sanh vào cảnh trời Vô sắc giới.

- 1 -

Tóm lại: Sau khi hết thọ mạng, sẽ tái sanh theo nghiệp vào các cõi người - trời không có Phật pháp. Có nhiều hướng tái sanh, nhưng tạm phân có 2: một là thường nghiệp lôi kéo sẽ tái sanh cảnh giới người- trời Dục giới; hai là trọng nghiệp thiện lập tức tái sanh vào cảnh trời Sắc giớitrời Vô sắc giới, còn nếu là trọng nghiệp ác lập tức sa đọa xuống 4 đường ác. Tái sanh là cũng để trả nghiệp cũ, song song đó tạo nghiệp mới bằng thân - khẩu - ý.

Chứng ngộ:

Chứng ngộ tức giải thoát. Chứng ngộ có tự độ và độ tha.

1/ Tự độ: là tự tu-tự chứng-tự đắc tức là tự mình tu tập, tự chứng ngộ Phật tánhđắc quả Tứ Sa môn. Trước hết cần “giữ giới (3-5-8-10-250) để đạt định nhất niệm rồi tâm thức sẽ trong sáng”. Và nhờ thức trong sáng, có Thiện tri thức khai ngộ nhận lại Phật tánh, từng bước, tâm lặng lẽ nhìn-thấy-biết rõ tiến trình tâm thức trải dài qua 8 cảnh giới từ Địa ngục tới trời Phi tưởng phi phi tưởng, trở về “Niết bàn tịch tịnh”, chấm dứt tái sanh.

Thánh đầu tiên nhận lại Phật tánhNhập lưu, đây là quả Thánh quan trọng nhất vì “giải thoát đầu tiên cũng là giải thoát cuối cùng”. “Hơn thống lãnh cõi đất. Hơn được sanh cõi trời. Hơn chủ trì võ trụ. Quả Dự lưu tối thắng.”.

Thánh Nhập lưu, tâm lặng lẽ nhìn thấy biết rõ 16 oai nghi của thân sinh lý, tiến trình diễn biến phát sinh tâm tham lam, sân giận, tật đố. Do rõ biết nên vĩnh viễn không dính mắc vào cảnh giới 4 đường ác, nhưng nếu không tiến mà giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh giới người - trời Dục giới tối đa 7 lần.

Thánh Nhất vãng lai, tâm lặng lẽ nhìn thấy biết rõ tiến trình tư tưởng, ý chí cải sửa dục vọng theo hướng thiện hoặc ác và tư tưởng phân tích tổng hợp đúc kết thành kinh nghiệm như thế nào nhận như thế nấy. Vì rõ biết nên vĩnh viễn không dính mắc vào cảnh giới người - trời Dục giới. Nếu giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh trời Sắc giới tối đa 1 lần.

Thánh Bất lai, tâm lặng lẽ thấy biết rõ tư tưởng, ý chí dùng kinh nghiệm dồi dào nhập định kéo dài cảm giác hỷ lạc, vì rõ biết nên vĩnh viễn không dính mắc vào cảnh trời Sắc giới. Nếu giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh trời Vô sắc giới tối đa 1 lần.

Thánh Alahán, trở về Chân tâm như thật biết: ý chí mạnh mẽ, kinh nghiệm tuyệt vời tự tại xuất nhập định, tư tưởng tạo dựng cảnh giới mông lung và tiến trình tâm thức trải dài từ địa ngục đến trời Vô sắc giới, từ Thánh Nhập lưu đến Bất lai ngay xác thân ngũ uẩn của chính mình diễn biến như thế nhận như thế đó. Vì như thật biết nên tự độ đã xong, chấm dứt tái sanh, an trụ Niết bàn tịch tịnh.

2/ Độ tha: Thánh Alahán phát Bồ đề tâm, thực hiện hạnh Bồ tát, từ “Niết bàn tịch tịnh” trở ra hiện tượng giới để cứu độ chúng sanh.

Bích chi, Duyên giác hòa nhập vào cảnh giới chúng sanh cùng cõi để tìm hiểu tâm thức.

Bồ tát Thánh ứng hóa một thân đến nhiều thân chúng sanh hòa nhập vào một cảnh giới đến nhiều cảnh giới để từng bước hiểu rõ nguồn cội tâm thức chúng sanh trong pháp giới.

Như lai lập tức ứng hiện vô lượng thân chúng sanh trong vô biên cảnh giới, từ đó thấu suốt cội nguồn tâm thức chúng sanh trong pháp giới vũ trụ.

Tóm lại: Ba bậc Thánh hữu học chứng ngộ Phật tánh từng phần: 1/4, 2/4, 3/4. Vì còn tư tưởng chi phối, nếu các Ngài không tiến mà giậm chân một chỗ sẽ tái sanh vào cảnh giới người - trời có Phật pháp để tiếp tục tu học và trả nghiệp. Thánh Alahán chứng ngộ Phật tánh 4/4 an trụ Niết bàn tịch tịnh. Ba bậc Tam tôn “tịch chiếu” vào pháp giới, thị hiện ứng hóa nhiều thân chúng sanh trong nhiều cảnh giới, đến khi lập tức ứng hiện vô lượng thân chúng sanh trong vô biên cảnh giới thành tựu Như lai. Và chỉ có Như lai mới thật sự thấu suốt cội nguồn tâm thức tất cả chúng sanh trong toàn thể pháp giới.

- 2 -

Vãng sanh:

Vãng sanh tức giải thoát. Vãng sanh do tự lực cá nhântha lực của Phật A-Di-Đà tiếp dẫn về thế giới Cực lạc yểm ly thế giới Ta bà. Tự lực là tự mình hành trì câu niệm Phật đạt nhất niệm rồi phát nguyện cảm ứng đạo giao với Phật lực A-Di-Đà. Tha lựcĐức Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn tâm thức chúng sanh về cõi Cực lạc.

Với tâm đại từ bi, Đức Phật A-Di-Đà phát 48 đại thệ nguyện, dùng Phật lực quán trong 5 a tăng kỳ kiếp lập thành thế giới Cực lạc, sau đó Ngài phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh có duyên với Ngài về thế giới Cực lạc, thoát luân hồi sanh tử khổ.

Cực lạcthế giới: vô lượng quang, vô lượng thọ, vô lượng công đức. Vô lượng quangtoàn thể cảnh giới Cực lạc là do Phật lực của Đức Phật tạo thành, mặc dù mỗi chúng sanh, mỗi sự vật có hình tướng nhưng đều kết bằng hào quang xuyên suốt không chướng ngại. Vô lượng thọthế giới Cực lạc chuyển biến sátna, là thế giới phát hiện nên vô lượng vô biên với hằng hà sa số chúng sanh có tuổi thọ vô cùng tận. Vô lượng công đứcthế giới Cực lạc do công đức Đức Phật thành lập và Ngài là Đại Pháp Vương, vì thế, chúng sanh ở đây đều được thấm đẫm hào quang công đức của Phật và sau khi nghe Đức Phật thuyết một thời pháp đều phát trí tuệ đắc Thánh quả tối thiểuNhập lưu, có ngay lục thông được vay mượn từ Phật lực của Ngài, và tiến thẳng một đường thành Như lai. Đặc biệt, những chúng sanh nào còn mang nghiệp mà được vãng sanh, nhờ Phật lực sẽ trả bằng ý nghiệp cho đến chấm dứt nghiệp mà không tạo nghiệp mới.

Nhưng muốn được vãng sanh về Cực lạc cần có 3 điều kiện: Tín - Hạnh - Nguyện.

Tín: Tin sự là có thế giới Cực lạchướng Tây. Tin lýthế giới Cực lạc phát hiện từ Chân tâmbáo thân của Đức Phật A-Di-Đà. Và tin phải sâu tức là niệm Phật tối thiểu phải đạt nhất niệm.

Hạnhthực hành chuyên cần niệm-nhớ-nghĩ-tưởng đến Phật A-Di-Đà trong mọi oai nghi đạt nhất niệm, nhưng muốn đạt nhất niệm đòi hỏi phải trì giới thật kỹ lưỡng. Tin sâu và hành chuyên luôn bổ sung hỗ tương cho nhau, có tin sâu thì hành mới chuyên và ngược lại.

Nguyện thuộc trí huệ, nghĩa là phải hiểu rõ thế giới Cực lạcchí thành tha thiết nguyện cầu tha lực của Phật A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn về thế giới Cực lạc. Nguyện là yếu tố quyết định cho sự vãng sanh. Trong nguyện bao hàm cả tin sâu và hành chuyên.

Vậy, nếu niệm Phật tâm đạt nhất niệm trở lên và có phát nguyện cảm ứng với Phật lực mới được A-Di-Đà tiếp dẫn về thế giới Cực lạc.

- Chúng sanh 4 đường ác tâm tán loạn và tạp niệm nên khó thể cảm ứng với Phật lực A-Di-Đà do đó không vãng sanh.

- Chúng sanh người - trời Dục giới tâm được nhất niệm nhưng không liên tục, do đó sắp lâm chung, muốn chắc chắn vãng sanh bắt buộc phải đủ 3 yếu tố: thiện căn, phước đức, nhân duyên.Thiện cănbản thân phải đầy đủ tín-hạnh-nguyện, Phước đức là có Ban hộ niệm và người nhắc niệm trợ duyên tích cực nhắc nhở người sắp lâm chung tâm thức luôn tỉnh táo niệm-nhớ-tưởng Phật A-Di-Đà, nhân duyênthân tộc hân hoan cùng một lòng trợ lực với Ban hộ niệm giúp người sắp lâm chung được vãng sanh.

- Chúng sanh trời Sắc giớitrời Vô sắc giới nhờ tâm đạt định nhất niệm cao, sâu, liên tục do đó các vị muốn vãng sanh chỉ cần phát nguyện liền cảm ứng với Phật lực, lập tức được A-Di-Đà phóng quang tiếp dẫn về Cực lạc.

- Ba bậc Thánh hữu học: Nhập lưu, Nhất vãng lai, Bất lai đã nhận Phật tánh tức tâm vô niệm, nhưng vì còn tư tưởng, do đó nếu muốn vãng sanh thì các Ngài hướng tâm phát nguyện, lập tức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn ngay về Cực lạc. Thánh Alahán có huệ lực trở về báo thân thường trụ, các Ngài chỉ hướng tâm đúng tần số là phát hiện ra thế giới Cực lạc.

- Ba bậc Tam Tôn tâm vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm, vì vậy chỉ hướng tâm là thế giới Cức lạc hiện tiền.

- 3 –

Tóm lại: Chúng ta biết rằng “cảnh giới treo trên đầu một tâm niệm”. Vì vậy muốn được vãng sanh về thế giới Cực lạc cần tối thiểu đạt tâm nhất niệmphát nguyện. Người – trời Dục giới sắp lâm chung cần thêm 3 yếu tố: thiện cănphước đứcnhân duyên mới chắc chắn vãng sanh. Trời Sắc giớiVô sắc giới tâm định nhất niệm cao khi phát nguyện là “hiện tại” vãng sanh. Ba bậc Thánh hữu học tâm vô niệm khi phát nguyện là “hiện tiền” vãng sanh. Thánh Alahán có huệ lực và ba bậc Tam Tôn thì vô niệm-niệm, niệm-vô niệm, chỉ cần hướng tâm lập tức an trụ ngay thế giới Cực lạc.

 

Tái sanhChứng ngộ - Vãng sanh giống nhau ra sao và khác nhau như thế nào?

1/ Tái sanh Vãng sanh khác nhau rất xa.

- Tái sanh luân hồi trong cõi Uế độ do cộng nghiệp của chúng sanh phàm phu trong 3 cõi lập thành, gọi là thế giới “Dân lập”, là thế giới chuyển biến chu kỳ, có không gianthời gian tương ưng, có điều kiện, có: đi- đến, xa- gần, trước- sau, nhanh- chậm, lớn- nhỏ, có sanh- già- bệnh- chết,…Tái sanh để rồi trả nghiệp cũ đồng thời tạo nghiệp mới bằng thân – khẩu – ý.

- Vãng sanhhoàn toàn giải thoát và an trụ trong cõi Cực lạc do Phật lực của A-Di-Đà lập thành, gọi là thế giới “Phật lập”, thế giới rặt ròng hào quang, là thế giới phát hiện, thế giới chuyển biến sátna, chỉ có thời gian tuyệt đối, bất sanh bất tử,…Và đặc biệt vãng sanh được đới nghiệp gọi là “Đới nghiệp vãng sanh” nghĩa là mang nghiệp cũ về Cực lạc trả bằng ý nghiệp mà không bao giờ tạo nghiệp mới.

2/ Chứng ngộ Tái sanh giống nhau là cùng tái sanh vào cõi người- trời, nhưng khác nhau là có Phật pháp hay không Phật pháp.

- Chứng ngộ: nếu giậm chân một chỗ thì ba bậc Thánh hữu học còn tái sanh vào cõi người- trời nhưng có Phật pháp.

- Tái sanh: theo nghiệp lực của mỗi cá nhân mà tái sanh vào cõi người- trời nhưng không Phật pháp

3/ Vãng sanh Chứng ngộ: vãng sanh tức chứng ngộ, chứng ngộphát nguyện tức vãng sanh.

- Vãng sanh thù thắng nhất, nhờ Phật lực đương nhiên đắc Thánh bất thối chuyển, từ Nhập lưu tiến thẳng tới Như lai – Có lục thông – Được “Đới nghiệp vãng sanh”.

- Chứng ngộ tự chứng ngộ mà đắc Thánh quả. Nhưng nếu không có Phật tại thế, ba bậc Thánh hữu học dễ bị giậm chân tại chỗ, nên còn phải tái sanh để trả nghiệp.

Vậy, chúng ta thấy rằng, Đức Phật Thích Ca giới thiệu pháp môn Tịnh Độ cho chúng sanh trong thời mạt pháp là rất cần thiết và tối ư quan trọng. Chúng ta cần tin sâu – hành chuyên – nguyện thiết sẽ được vãng sanh về xứ Cực lạc của Đức Phật A-Di-Đà. Đây là thế giới an vui, giải thoátthù thắng nhất, không có gì sánh bằng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23025)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14050)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12976)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55105)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9165)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14440)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14162)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14201)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13881)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36318)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19882)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19220)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19150)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20282)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17636)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31529)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15937)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15018)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14679)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46172)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35935)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21049)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21597)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23398)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34378)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19484)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18945)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22940)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20185)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18363)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19839)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19527)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33414)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34479)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54517)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37725)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21131)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17877)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63649)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17380)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49656)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27437)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23031)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18891)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16324)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17912)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20936)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17364)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14467)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16864)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16370)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15996)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17466)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21980)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15100)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13504)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14364)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15394)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14985)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12696)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13348)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27396)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13188)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14486)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16233)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12407)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15418)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12869)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12202)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13201)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21647)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11279)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22725)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15085)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46182)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22452)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14577)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18903)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14734)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43860)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56970)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13837)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47487)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13654)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14575)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29011)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33312)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38381)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15401)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12526)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40391)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43418)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46663)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14413)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant