Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Niệm Và Niệm Phật

19 Tháng Giêng 201511:09(Xem: 9313)
Niệm Và Niệm Phật

NIỆM VÀ NIỆM PHẬT

Thích Nguyên Hùng


NIỆM VÀ NIỆM PHẬTTrong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp; nó được xếp vào một trong năm loại tâm sở biệt cảnh. Biệt cảnh có nghĩa là nó chỉ xuất hiện trong những trường hợp và cảnh vực sai biệt, duyên vào từng đối tượng cụ thểsanh khởi.

Niệm, tiếng Phạn là smṛti, có nghĩa là nhớ. Theo Duy thức học, niệm là tác dụng của tâm nhằm ghi nhớ rõ ràng, không để quên mất một đối tượng nào đó. Thông thường, chúng ta hay nóihoài niệm, tức là chỉ cho cái tâm nhớ về cảnh giới quá khứ, nhớ những chuyện đã qua.

Phẩm loại túc luận nói “niệm là rõ tâm, nhớ tính”. Câu-xá luận nói “niệm là nhớ rõ đối tượng không quên”. Đại thừa quảng ngũ uẩn luận ghi: “Niệm là gì? Tự tính của nó là nhớ rõ không quên mất của tâm đối với việc đã từng quen thuộc. Việc đã từng quen thuộc nghĩa là những việc đã từng được huân tập (đã từng trải qua trước kia). Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho sự không tán loạn (sở y cho định)”.

Thành duy thức luận cũng định nghĩa: “Niệm là gì? Tự tính của nó là sự ghi nhớ rõ ràng không quên mất của tâm đối với cảnh đã từng quen thuộc. Nghiệp dụng của nó là làm sở y cho định. Tức là thường xuyên ghi nhớ cảnh đã từng được tiếp nhận không để cho quên mất thì có thể dẫn đến định. Đối với cảnh mà thể và loại1 của nó chưa hề được tiếp nhận, niệm hoàn toàn không phát khởi. Giả sử đối tượng đã từng được tiếp nhận nhưng không được ghi nhận rõ ràng, niệm cũng không phát sanh”.

Định nghĩa này cho chúng ta thấy rõ rằng, muốn “niệm” phải có cảnh, và cảnh này phải là cảnh đã từng tiếp nhận, từng huân tập, từng ghi nhớ dấu ấn trong tâm, tức là những cảnh đã được huân tập thành chủng tử. Như vậy, niệm là nhớ những cảnh ở trong tâm, hay nói cách khác là nhớ những hạt giống đã gieo trồng trong tâm.

Cảnh có hai loại. Một là thể cảnh, là đối tượng mà mình có thể nhận thức trực tiếp, mắt thấy, tai nghe, gọi là thể cảnh (cảnh hiển bày trước mắt). Hai là loại cảnh, là đối tượng được nhận thức do loại suy, tức là dựa vào những hình ảnh, những cảnh giới… được miêu tả trong kinh sách mà tưởng tượng ra những hình ảnh, những cảnh giới giống như đã miêu tả, gọi là loại cảnh. Đối với cả hai cảnh này, tâm phải từng tiếp nhận, từng huân tập, từng huấn luyện sao cho đối tượng in dấu trong tâm thức rõ ràng, trở thành chủng tử, thành hạt giống nằm ở trong tâm thức thì chúng ta mới có thể “niệm” nó được. Bởi vì, như luận đã nói, “đối tượng đã từng được tiếp nhận nhưng không được ghi nhận rõ ràng, niệm cũng không phát sanh”, huống chi là đối tượng mà mình chưa từng tiếp nhận, chưa từng huân tập làm sao “niệm” (nhớ) cho được?!

Nhưng những điều mình nhớ đa phần là vọng tưởng. Bởi những nỗi nhớ đó làm cho mình đánh mất hiện tại, nó kéo mình về quá khứ, để vui, để buồn với những chuyện đã qua… Mà cuộc sống hiện thực là bây giờ và ở đây, ngay trong giờ phút hiện tại. Cho nên, nhớ về quá khứ hay mơ tưởng về tương lai đều không giúp gì được cho mình hết. Nếu mình biết sống trong hiện tại cho thật hạnh phúc, cho thật chánh niệm và tỉnh giác thì mình biết quá khứ hay tương lai đều đang có mặt trong từng phút giây hiện tại, mình không cần phải nhớ hay mơ ước gì hết. Cho nên, niệm ở trong đạo Phật là nhớ những gì đưa mình tới an lạcgiải thoát mà thôi, còn những gì làm cho mình mệt, mình khổ, mình phiền não, thì mình không cần phải nhớ.

Những cái mình nhớ mà đưa tới an lạc giải thoát, đưa tới ly dục, ly bất thiện pháp, thì Phật chỉ cho mình niệm. Như Phật dạy mình nhớ hơi thở. Thực tập theo dõi và đếm hơi thở ra vào gọi là quán sổ tức, hay còn gọi là an ban niệm; mình nhớ Phật, nhớ Pháp, nhớ Tăng, nhớ bố thí, nhớ giữ Giới, nhớ cõi Thiên thì gọi là lục niệm… Còn nhiều thứ Đức Phật chỉ dạy mình nhớ, để mình thoát khổ, như nhớ Tứ niệm xứ, nhớ Tứ vô lượng tâm…Khi mình nhớ những cái đó gọi là niệm. Niệm như vậy là một pháp môn tu tập.

Muốn niệm được thành công thì mình phải có ước muốn, tức là phải làm cho tâm sở dục phát sanh. Tâm sở dục là gì? Câu-xá luận định nghĩa: “Đặc tính của nó là hy vọng ở nơi đối tượng đáng yêu thích. Đối tượng đáng được yêu thích là những gì muốn thấy, muốn nghe… thì hy vọng, mong cầu. Nghiệp dụng của nó là sở y cho tinh thần”.

Chẳng hạn, mình muốn niệm Phật thành công thì mình phải có ước muốn, ưa thích Tịnh độ, điều mà trong kinh Vô lượng thọ gọi là “tín nhạo”: “nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã quốc, chí tâm tín nhạo” (nếu có chúng sanh nào ưa muốn được vãng sanh về cõi nước của Ta, thì hãy hết lòng tin tưởngưa thích). Hết lòng tin tưởngưa thích không phải là điều kiện của Phật A-di-đà đưa ra để ai tin tưởngưa thích Ngài thì Ngài tiếp dẫn về thế giới Cực lạc; mà đó là điều kiện để mình có thể tu Pháp môn Niệm Phật được. Tâm mình có tin tưởng, ước muốn và ưa thích rồi thì nó mới có thể ghi dấu lên tâm thức, tức làm cho đối tượng thành chủng tử, mà thuật ngữ gọi là thắng giải.

Thắng giải là, Câu-xá luận định nghĩa: “Đặc tính của nó là ghi dấu ấn trên đối tượng đã được xác định, nhận thức đúng như bản chất của nó. Nói ‘xác định’ tức là duy trì dấu ấn trên sự thể đã được xác định. Nghiệp dụng của nó là không bị dẫn chuyển, vì nó có tăng thắng, không thể bị dịch chuyển bởi cái khác”. Khi mình “nhớ Phật” (tức là niệm Phật) là mình ghi dấu ấn Đức Phật cùng với những phẩm tính vô cùng thù thắng, hy hữu của Ngài lên tâm thức của mình. Tâm thức một khi đã “xác định”, đã duy trì dấu ấn Đức Phật, cũng như cảnh giới Tây phương Cực lạc rồi thì không có gì dẫn chuyển tâm của mình đi về hướng khác được; nó nhất định đưa mình tới Niệm - Định - Tuệ, và nhất định thành Phật.

Như vậy, tuần tự của quá trình tu tập Pháp môn Niệm Phật nói riêng, tu học theo Phật pháp nói chung, để đạt được định, từ định mà có tuệ thì lộ trình của nó phải là: Dục - Thắng giải - Niệm - Định - Tuệ.

Lẽ hẳn nhiên là mình không thể “niệm”, tức là không thể nào “nhớ” được cảnh giới mà mình chưa từng nhìn thấy, chưa từng tiếp nhận, chưa từng được ghi dấu trong tâm thức. Đối với những cảnh giới, những hình ảnh, những sự kiện mình mới nghe qua, thấy qua… một đôi lần mà không ấn tượng gì thì mình cũng khó nhớ, hoặc nhớ một cách mơ hồ, tức là tâm sở niệm không thể phát sanh. Tâm sở niệm không phát sanh thì không có định; nếu niệm mơ hồ thì cũng khó đắc định.

Đây là lý do vì sao chúng ta phải học thuộc lòng kinh A-di-đà. Học thuộc lòng để cảnh giới Tây phương Cực lạc được giới thiệu trong kinh in sâu vào trong tâm, làm cơ sở cho tâm niệm loại suy ra cảnh giới đó, để khi nghe đến tên kinh, nghe đến thất trùng lan thuẫn, thất trùng hàng thọ, thất trùng la võng, hoa sen lớn như bánh xe v.v… thì cảnh giới Tây phương Cực lạc lập tức hiện tiền trước mắt liền. Danh hiệu của Phật A-di-đà cũng vậy, chúng ta phải huân tập, phải niệm làm sao mà khi tâm vừa khởi niệm hay nghe đến danh hiệu Phật A-di-đà thì lập tức hình ảnh của Phật A-di-đà đầy đủ tướng hảo, công đức thù thắng, bổn nguyện độ sanh… đều hiển hiện rõ ràng trong tâm, như thấy trước mặt, thì như vậy là niệm Phật thành công.

Như vậy, với một người suốt đời không tin Tam bảo, tạo tội ngũ nghịch, làm mười việc ác… gây đủ mọi thứ tội lỗi thì hẳn là chưa từng huân tập hình ảnhcông đức của Phật, tức là đối với cảnh mà thể và loại của nó chưa hề được tiếp nhận, thì người ấy không thể niệm Phật được, vì tâm sở niệm hoàn toàn không phát khởi. Nói một cách khác, đối với một người chưa bao giờ biết đến chùa, chưa từng tụng kinh, niệm Phật, thì hẳn chưa từng biết đến thế giới của chư Phật, chưa từng biết có cảnh Tây phương, cũng không hề biết có Phật A-di-đà, tức là họ chưa từng huân tập những hạt giống Tây phương Tịnh độ, thì đối với những người này không thể niệm Phật được.

Giả sử có người đã từng đi chùa, cũng có đôi ba lần tụng kinh, niệm Phật, cũng từng nghe nói đến thế giới Tây phương Cực lạc, nghe nói đến công đức của Phật A-di-đà, tức là đã từng được tiếp nhận đối tượng, nhưng những đối tượng đó không được ghi nhận rõ ràng, thì tâm sở niệm cũng không phát sanh, người ấy cũng không thể niệm Phật được.

Để đạt được định thì bắt buộc phải tu niệm, do niệm mà dần đi vào định. Trong kinh có nói, tâm của chúng ta phiền não tán loạn, khi nghĩ cái này khi nghĩ cái kia, không một sát-na dừng nghỉ, cho nên cần phải cho nó một đối tượng để cho nó duyên vào đó, để cột nó lại, khiến cho nó từ từ an trụ. Cũng giống như con trâu cứ chạy đông chạy tây, nếu mình lấy sợi dây xỏ mũi và cột nó lại dưới gốc cây, bấy giờ nó có chạy cũng chỉ chạy lui chạy tới một chỗ dưới gốc cây thôi, chạy một hồi nó sẽ mệt, nó sẽ dừng lại và sẽ nằm xuống. Cái tâm của mình cũng giống như vậy, nếu mình buộc nó vào một chỗ thì từ từ nó sẽ đi vào định.

Không những mình tu định cần phải có niệm, mà ngay cả khi tu quán, tu huệ cũng cần phải có niệm. Cho nên, ở trong Phật pháp, niệm là một pháp vô cùng quan trọng. Niệm có nhiều loại, tùy theo đối tượng mình niệm mà có tên gọi khác nhau, như niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Tứ đế…

Bây giờ mình nói niệm Phật, tức là lấy Đức Phật làm cảnh giới, làm đối tượng để mà niệm, mà nhớ. Khi mình niệm Phật thì tâm của mình chuyên chú vào danh hiệu Đức Phật hoặc cảnh giới của Phật, niệm cho đến khi đắc định thì gọi là niệm Phật tam-muội. Nhưng mà phải niệm cho thật chuyên chú, chứ nếu niệm không chuyên chú thì cái tâm sở niệm không dễ gì hiện ra rõ ràng, định không dễ gì thành tựu. Nếu có thể làm cho tâm hết tán loạn, tâm không chạy theo những đối tượng khác, mà chuyên chú tập trung vào một cảnh thôi thì tu niệm mới có khả năng thành công.

Trong kinh có nói một thí dụ như sau: Có một người nọ đắc tội với quốc vương, đáng phải xử tử. Bấy giờ quốc vương sai lấy một bát đựng đầy dầu, bắt người tội bưng lấy bát dầu đi ra đường phố đến một địa điểm đã quy định, nếu như anh ta có khả năng giữ bát dầu không rơi ra ngoài một giọt thì quốc vương sẽ miễn tội chết cho. Kẻ phạm tội đó trong khi tính mạng đang bị uy hiếp mà tìm thấy con đường sống, cho nên đã để hết tâm ý vào tay bưng bát dầu. Trên đường đi có biết bao nhiêu màn ca múa hát xướng anh ta cũng không nghe không thấy; có biết bao trò đánh đá cãi vã ồn ào anh ta cũng mặc kệ; cho đến những đoàn xe ngựa chạy tới chạy lui, biết bao cảnh vật xung quanh tác động vậy mà anh ta đều không để mắt tới, chỉ duy nhất tập trung tâm ý vào việc giữ gìn bát dầu sao cho khỏi rơi ra ngoài dù chỉ một giọt. Cuối cùng thì anh ta cũng bưng được bát dầu đi đến nơi quy định mà không để rơi một giọt nào, nhờ vậy anh được thoát khỏi tội chết.

Cũng như anh tử tù, chúng sanh đang bị chìm đắm trong thế gian vô thường, đang bị bức bách bởi sanh tử khổ nạn, đang bị thiêu đốt trong nhà lửa Tam giới... Trong khi sự sống mong manh, vô thường như ngàn cân treo đầu sợi tóc ấy thì mình tìm thấy con đường sống bằng cách niệm Phật, như anh tử tù tìm thấy đường sống bằng việc làm sao bưng bát dầu không bị đổ trên suốt hành trình nghiệp lực quy định. Chúng ta nếu muốn thoát ly sanh tử, thoát khỏi sự trói buộc trong ba cõi thì phải tu niệm, phải buộc niệm cho chuyên tâm nhất ý, không để cho cảnh giới ngũ dục đáng ưa, đáng thích, đáng yêu trói buộc, đối với cảnh đáng sân mà không nổi sân, trong hoàn cảnh biến động, tán loạn mà giữ tâm bất động, như vậy gọi là buộc niệm chuyên nhất. Tham, sân, si… các thứ phiền não không khởi thì tâm sẽ gom về một chỗ, sẽ an trú trong trạng thái yên lặng, trong suốt, tức là đắc định. Có định thì sẽ phát tuệ, từ đó, vô lượng công đức đều được thành tựu.

Ngược lại, nếu không tu niệm, sẽ không được định tâm. Mà tâm không có định thì dù có đọc kinh, học Phật pháp, bố thí, cúng dường, trì giới… đều không thể đạt được công đức thù thắng trong Phật pháp, chỉ có thể đạt được một chút tri thức, một chút phước nghiệp, hưởng phước báo trời người mà thôi.

Xưa nay, người tu theo pháp môn niệm Phật, đại đa số mọi người chỉ biết niệm bằng cái miệng, cũng giống như nhà thiền nói chuyện thiền trên lưỡi, gọi là ‘khẩu đầu thiền’, có rất ít người biết được ý nghĩa thâm sâu của pháp môn niệm Phật. Nếu niệm Phật mà chỉ niệm bằng cái miệng suông, trong tâm không có Phật, không tưởng nhớ công đức của Phật, không quán tưởng về Phật và cảnh giới của Phật thì cũng như máy niệm Phật thôi!

Cho nên, nếu chỉ niệm Phật bằng cái miệng suông, tâm không nhớ Phật thì không thể gọi là niệm Phật được, mà chỉ có thể gọi là ‘kêu tên của Phật’, ‘phụ họa niệm Phật’... Niệm Phật chân chính là phải tâm tâm buộc niệm vào cảnh giới Phật, cột tâm vào danh hiệu Phật, ghi nhớ rõ ràng, không để xao lãng, không để quên mất. Nói một cách đơn giản, niệm Phật là phải nhớ Phật. Phật là người như thế nào, có những công đức gì, tướng hảo trang nghiêm ra sao… mình phải ghi nhớ rõ ràng trong tâm khi đọc đến, nghe đến, niệm đến danh hiệu của Ngài.

Về phương pháp niệm Phật thì chính Đức BổnThích-ca mâu-ni Phật đã hướng dẫn: “Tỳ-kheo chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, cột niệm ở trước, chuyên tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác. Quán hình của Như Lai, mắt không hề rời. Trong khi mắt không rời, niệm tưởng công đức Như Lai”. Đoạn kinh này chỉ dẫn ba cách niệm Phật:

- Chuyên tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác Trì danh niệm Phật hay Xưng danh niệm Phật. Hành giả buộc tâm vào câu Phật hiệu Nam-mô A-di-đà Phật, niệm niệm liên tục, niệm trước tiếp nối niệm sau không dứt, không để bất cứ một ý niệm nào khác xen tạp vào. Niệm như vậy trong vòng năm mười phút mà không bị gián đoạn, không có vọng tưởng, thì đạt được định, gọi là niệm Phật tam-muội. Nếu niệm được từ một đến bảy ngày liên tục không gián đoạn, không xen tạp, nhất tâm bất loạn thì ngay hiện tiền chứng được bất thối chuyển, lúc lâm chung được Phật A-di-đà và Thánh chúng đến đón về Tịnh độ.

- Quán hình của Như Lai, mắt không hề rời Quán tượng niệm Phật. Hành giả thỉnh một tượng Phật, hoặc hình Phật, hoặc bức tranh Tây phương Cực lạc… thiết trí nơi trang nghiêm. Mỗi ngày để ra năm mười phút ngồi ngay thẳng trước tôn tượng, tập trung tâm ý, mắt nhìn tượng Phật, nhìn thật chăm chú, ngắm nhìn từ nét mặt đến nếp y, hình dáng… sao cho hình ảnh của Đức Phật A-di-đà in đậm trong tâm thức đến nỗi khi rời khỏi Phật điện, đi đến bất cứ đâu và ở bất cứ lúc nào, hễ khởi tâm nhớ Phật, niệm Phật thì lập tức hình ảnh Đức Phật hiện ra rõ ràng trước mắt, lúc nào trong tâm cũng thấy Phật. Trong tâm lúc nào cũng thấy Phật thì bao nhiêu tội lỗi, nghiệp chướng đều tiêu trừ, bao nhiêu công đức thù thắng đều thành tựu, ngay trong hiện đời cảm được pháp lạc vô dư.

- Niệm tưởng công đức của Như Lai Quán tưởng niệm Phật. Hành giả nhớ nghĩ đến công đức của Phật A-di-đà, Ngài có 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh, từ bi nguyện lực sâu rộng… Dù trong đời này hay đời khác, hay trên thiên giới, không có tài bảo vi diệu nào sánh với Đức Như Lai. Ở đây, Phật là tài bảo tối thắng vi diệu. Bằng sự thực này, ước nguyện tất cả đều được an lành, lâm chung đều được sanh về cảnh giới của Phật A-di-đà.

Trên đây là ba phương pháp niệm Phật căn bản, được Tăng Ni, Phật tử thực tập rất thịnh hành ngay thời Phật còn tại thế. Trong các phương pháp niệm Phật, thì phương pháp ‘Xưng danh niệm Phật’ là giản dị nhất.

Nhưng ‘Xưng danh niệm Phậttuyệt đối không phải chỉ là xưng niệm trên miệng. Xưa nay chúng ta trì tụng kinh A-di-đà của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, trong bản kinh này nói ‘chấp trì danh hiệu’, tức niệm danh hiệu Phật liên tục, không gián đoạn; nhưng trong một bản dịch khác của ngài Huyền Trang thì câu kinh đó là ‘tư duy niệm Phật’, tức thiền quán về danh hiệu Phật.

Từ đó chúng ta thấy rằng, ‘Xưng danh niệm Phật’ tuyệt đối không phải chỉ là niệm Phật bằng cái miệng, mà phải niệm bằng cái tâm, để danh hiệu Phật vào trong tâm, buộc niệm vào danh hiệu Phật rồi tư duy thiền quán. Nhờ xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, và nhờ danh hiệu mà thể hội được công đức, thật tướng của Phật; buộc niệm tư duy về công đứcthật tướng của Phật mới gọi là niệm Phật.

Cho nên, điều quan trọng nhất của hành giả Tịnh độ là khi xưng niệm danh hiệu Phật là đừng bao giờ dừng lại ở chỗ chỉ xướng tụng bằng cái miệng, niệm Phật trên miệng mà trong tâm rỗng tuếch thì không khác gì máy niệm Phật!

Văn Thù Sư Lợi sở thuyết ma-ha bát-nhã ba-la-mật kinh dạy rằng: “Ai muốn nhập vào tam-muội nhất hạnh, nên đến ở một chỗ trống vắng, bỏ hết những loạn ý, không duyên vào tướng mạo, buộc tâm vào một Đức Phật mà chuyên đọc danh tự của Đức Phật ấy; tùy theo phương hướng xứ sở của Đức Phật ấy mà ngồi thẳng xoay mặt về phương hướng xứ sở đó”.

Đoạn kinh trên cho thấy, nếu hành giả niệm Phật muốn đạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn thì phải ‘đến ở một chỗ trống vắng, bỏ hết những loạn ý, không duyên vào tướng mạo (bên ngoài), cột tâm vào một Đức Phật, chuyên niệm danh hiệu Phật ấy’. Nếu hành giả muốn vãng sanh Tịnh độ của Phật A-di-đà thì phải ngồi ngay thẳng, xoay mặt về hướng Tây, chuyên niệm danh hiệu ‘Nam-mô A-di-đà Phật’.

Để niệm Phật dễ đắc định, hành giả vừa niệm vừa nghe lại âm thanh niệm Phật của mình. Phương pháp này gọi là phản văn niệm Phật, cũng gọi là Kim cang trì. Hành giả niệm thư thả, tiếng không lớn cũng không nhỏ quá, vừa niệm vừa

lắng tai nghe lại tiếng niệm của mình từng chữ một: Miệng niệm, tai nghe, tâm tưởng, ba yếu tố này phải đồng thời tương ưng với nhau. Khi niệm Phật phải niệm cho rõ ràng, bình tĩnh, không ồn ào, không hoảng hốt. Quan trọng nhất là, khi niệm Phật không phải niệm bằng cái miệng, mà cần phải lắng tai để nghe âm thanh niệm Phật của mình, nghe thấy rõ ràng, chú tâm mà nghe, tức là trong tâm của mình cũng đồng thời vừa niệm vừa nghe danh hiệu Phật, mỗi niệm mỗi niệm rõ ràng, trong sáng.

Mục đích của niệm Phậtđạt đến cảnh giới nhất tâm bất loạn, mà muốn đạt đến cảnh giới đó cần phải mặc niệm, tức là phải niệm thầm, niệm bằng ý thức, mà nói chính xác là niệm bằng tâm sở tầm và tâm sở tứ, tức niệm bằng ngôn ngữ của ý.

Mặc niệm, hay niệm thầm, còn gọi là Kim cang trì, tức là đem danh hiệu Phật đặt vào trong tâm, niệm bằng ngôn ngữ của tâm, miệng không phát ra âm thanh. Tuy không niệm ra tiếng nhưng tâm lại nghe được tiếng, đó là tiếng nói hay ngôn ngữ của tâm, gọi là ý ngôn, mỗi chữ mỗi câu đều nghe được rất rõ ràng. Niệm Phật bằng cách này thì từ từ tâm sẽ hướng về một cảnh, ngoại duyên từ từ bị cắt đứt, khi đó chúng ta mới đạt được định.

Hai yếu tố tâm sở tầm và tứ rất quan trọng trong quá trình tu niệm. Tầm là nắm lấy danh hiệu Phật, khởi niệm niệm Phật; tứ là duy trì chánh niệm trong suốt quá trình niệm Phật, tức là khi nào cũng ý thức, chánh niệm, tỉnh giác biết rõ mình đang niệm Phật, chỉ có tâm với danh hiệu Phật, ngoài ra không có bất kỳ một ý niệm nào khác.

Niệm Phật theo cách này thì chỉ cần năm mười phút là mình có được hỷ lạc liền, như trong kinh Phật nói: “Một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ”.

Thích Nguyên Hùng
________________

(1) Có hai loại đối tượng (cảnh): đối tượng được nhận thức trực tiếp, gọi là thể cảnh. Đối tượng nhận thức do loại suy, gọi là loại cảnh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9958)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9933)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20509)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10343)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9953)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10345)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9930)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34413)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9635)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8715)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11097)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8520)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9798)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9182)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20452)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19196)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8757)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8867)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12111)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9599)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 23000)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8999)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9264)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9974)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9897)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10621)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10927)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12485)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9339)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9195)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9323)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10458)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 22000)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22246)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16607)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9538)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10195)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8391)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8290)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9452)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8834)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8627)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9133)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9609)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8617)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9449)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8624)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8360)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8475)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10189)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23635)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9576)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9006)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8341)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8531)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7885)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7975)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8804)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8937)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10061)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8645)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8629)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30408)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30075)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24177)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9278)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9636)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9517)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9507)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7854)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9070)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28209)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23703)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12245)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8888)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14239)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9659)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9346)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9645)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30898)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27123)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32716)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 34011)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12471)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58685)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10657)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9401)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9558)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13944)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14215)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10766)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28153)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23280)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
(Xem: 10131)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant