Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cái Chết Của Một Hành Giả

09 Tháng Bảy 201422:07(Xem: 11628)
Cái Chết Của Một Hành Giả

CÁI CHẾT CỦA MỘT HÀNH GIẢ
Những Ngày Cuối cùng của Thân phụ Thầy Khenpo Gawang

Khenpo Gawang


Một vài người đã yêu cầu tôi chia sẻ phần đời sau cùng của cha tôi.

khenpo_gawang

(Hình bên: Cha, Mẹ, Khenpo Gawang, và Chị)

Cha tôi, Dechen Chogyal, đã mất ngày 15 tháng Hai, 2011. Tháng Mười Hai năm 2010, cha tôi ở trong ẩn thất cùng mẹ tôi và chị tôi. Vào lúc đó, ông rất yếu và nói ông cảm thấy cuộc đời ông sắp chấm dứt. Mặc dù bắt đầu thấy khá hơn, từ địa điểm nhập thất ông di chuyển tới lều chăn trâu yak của gia đình ở trên núi cao.

Ông nói với người con trai trưởng là muốn gia đình chuẩn bị khắc vào đá cho ông ba quyển Kinh là Thời Hiền kiếp, Kinh Đại Giải thoát, và Kinh Vô Lượng Thọ. Con trai ông đã tiếp xúc với một tu viện để xin khắc ba quyển Kinh này và các viên đá được đặt ở một vị trí vô cùng đặc biệt mà Patrul Rinpoche đã gia hộ.

Sau đó cha tôi bắt đầu làm và nung những pho tượng nhỏ từ đất sét làm đồ gốm ở địa phương, người Tây Tạng gọi chúng là tsatsa. Thường thì cha tôi ngủ nhiều hoặc nghỉ ngơi trên giường trong khi tụng thần chú và quay kinh luân (bánh xe cầu nguyện). Bây giờ ông thức dậy lúc 5,30 giờ sáng và làm các pho tượng nhỏ suốt ngày. Từ cuối tháng Mười hai cho tới đầu tháng Giêng, cha tôi làm những pho tượng nhỏ này. Trong khi làm tượng, với vẻ vô tư, vui đùa, ông nói với những người láng giềng và các vị khách là ông sắp chết.

Vào đầu tháng Giêng, ông bắt đầu ăn những gì ông muốn. Ông yêu cầu cháu trai, cháu gái và cũng là những người hàng xóm của ông mang sữa và sữa chua lại cho ông. Họ sợ những món này không tốt cho ông nhưng ông nói: “Bây giờ sức khỏe và đời ta sắp hết, vì thế thật tốt khi ăn những gì ta muốn và hãy vui vẻ lên.” Cha tôi ngâm mình trong những con suối nóng ở địa phương, điều đó khiến ông rất yếu. Theo yêu cầu của những người khác trong gia đình, ông di chuyển về nhà của trưởng nam với hy vọng là anh ấy sẽ tìm được cách chữa trị.

Cha tôi biết là chẳng bao lâu nữa ông sẽ chết. Tôi gọi điện thoại trò chuyện với ông vào ngày 13 tháng Hai, khuyên ông đi bệnh viện. Ông nói: “Không, không, ba không muốn đi bệnh viện. Ba đang hỏi ý kiến một bác sĩ địa phương và đang bàn về thuốc của ông ấy. Nếu thuốc này chữa được thì nó sẽ giúp ba trường thọnếu không thì đời ba sẽ chấm dứt.” Khi bác sĩ đến, ông cho thuốc uống trong ba ngày. Sau này anh tôi kể lại là ba nói: “Bây giờ ba còn ba ngày để sống.”

Anh tôi nói lúc đầu khi ông đến thị trấn, một vài người trong gia đình tỏ ý muốn mua thuốc cho ông. Ông nhắc họ những lời của Đạo sưđại Liên Hoa Sanh, là bậc Thầy mà ông vô cùng kính ngưỡng, rằng loại thuốc tốt lành được dùng vào lúc chấm dứt cuộc đời là thuốc độc.

Anh tôi nói với tôi là tối ngày 13, ông mời tất cả những người thân thuộc và con cháu ở gần đó đến ăn tối. Ông nói: “Ta phải ăn uống với nhau và có một thời gian tuyệt diệu.” Sau khi họ ăn uống, ông nói: “Ta phải ngủ với nhau đêm nay.” Gia đình cố gắng chuyển giường của ông vào một góc yên tĩnh nhưng ông nói: “Không, tôi không muốn ở trong góc, tôi muốn ở giữa phòng. Ta sẽ cùng ngủ ở đây đêm nay.” Ông rất hài lòng về bữa ănyêu cầu giường của ông được để lại đúng chỗ trong phòng.

Tôi gọi điện thoại vào sáng hôm sau. Thoạt đầu cha tôi không muốn nói chuyện với tôi bởi ông lo là tôi sẽ yêu cầu ông đi bệnh viện. Khi tôi nói: “Không, con không muốn nói ba đi bệnh viện,” thì ông nói chuyện với tôi thật vui vẻ.

Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện tuyệt vời. Ông nói là ông không hối tiếc điều gì về cuộc đời của ông và không tham luyến bất kỳ điều gì. Ông nói: “Mọi điều ba ước muốn đã hoàn thành. Ba đã có thể thực hiện một chuyến hành hương vô cùng tốt đẹp đến mọi thánh địa. Ở mỗi nơi, ba đã cầu nguyệnhồi hướng công đức cho toàn thể chúng sinh. Ba không chỉ nghĩ đến bản thân mà còn nghĩ đến tất cả chúng sinh. Bây giờ, ba không có bất kỳ vấn đề gì. Ba không hối tiếc.”

Kế đó ông yêu cầu tôi là nếu có thể, hãy chăm sóc mẹ tôi chừng nào bà còn sống và tôi hứa là sẽ thực hiện điều đó. Tôi nói với ông: “Ba đã thực hành Pháp cả đời và thật là tốt khi ba không hối tiếc hay bám luyến.” Ông lại nói: “Ba không có bất kỳ hối tiếc hay dính mắc nào.”

Đây là cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng tôi. Tôi nghĩ: “Tốt, ông vẫn ổn.” Tôi thoáng buồn, nhưng điều ấy có thể chịu đựng được. Tôi biết là ông thanh thảntỉnh thức, và đây là một cách chết tốt lành.

Hôm trước ngày cha tôi mất, ông vẫn còn rất mạnh mẽ, trò chuyệnthanh thản. Ông không lo lắng hay sợ hãi về cái chết và không cảm thấy đau đớn gì. Khi có người đến thăm, ông cho họ lời khuyên và một vài giáo lý. Ông nói với họ: “Hãy nhìn vào tình cảnh của quý vị thật cẩn trọng và làm những gì quý vị cần làm để duy trì đời sống của gia đìnhbản thân. Khi chết, quý vị không thể mang theo mình bất kỳ điều gì ngoại trừ Giáo pháp và trái tim cùng tâm thức tốt lành của quý vị.”

nui_garuda(Hình bên: Núi Garuda)

Ông nói: “Điều vô cùng quan trọng là phải luôn luôn hồi hướng đức hạnh cho tất cả chúng sinh.” Gần túp lều chăn trâu yak là một ngọn núi lớn tên là Núi Garuda (Núi Kim Xí Điểu) mà ông lấy làm ví dụ. Ông nói chúng ta cần tạo lập đức hạnh lớn gấp đôi Núi Garuda. Ông nói: “Không nên làm bất kỳ ác hạnh nào, cho dù vô cùng bé nhỏ, chẳng hạn như những hành vi quấy rầy tâm thức của người khác. Điều quan trọng nhất là luôn luôn có một trái tim tốt lành.” Ông lại nói: “Tôi không tham luyến hay hối tiếc. Đừng lo lắng cho tôi.”Rồi từ từ, trong tiến trình chết, ông không nói được nữa. Ông vẫn tỉnh thứcthư thái, với tâm trí minh mẫn. Khi những người khách đến, chẳng hạn như em trai và cháu tôi, họ có thể thấy là ông hiểu và nhận ra họ. Ông chạm nhẹ vào tim và chắp tay trong cử chỉ cầu nguyện như thầm nói những lời khuyên nhủ cuối cùng.

Trong toàn bộ tiến trình, ông không hề đau đớn hay rối loạn. Ông rất tinh tếminh mẫn, ngay cả trong tiến trình chết. Một tu sĩ là cháu trai của ông đứng ở bên cạnh và đọc Giải thoát Nhờ Sự Nghe trong Bardo hay Bardo Tödrol (Tử Thư Tây Tạng). Rõ ràng là ông hiểu những gì được đọc cho ông. Ông nói: “Tôi hiểu.” Hơi thở của ông ngắn dần và cuối cùng ngừng lại. Gia đình đã mô tả điều đó giống như một ngọn đèn bơ vụt tắt khi giọt dầu cuối cùng đã cạn.

Vài tuần trước tôi đã gọi cho chị tôi; chị đang nhập thất trọn đời trên núi cao. Chị có một điện thoại di độngchúng tôi đã lập kế hoạch để tôi gọi điện thoại. Vào lúc đó chúng tôi có một cuộc trò chuyện dài về cha tôi. Tôi nói là theo tôi nghĩ, cha cần nhận một vài chỉ dẫnhiện có một vài vị Thầy vô cùng vĩ đại đang nhập thất trọn đời ở gần đó và các ngài là bạn của ông.

Chị tôi nói: “Ba không cần nhận bất kỳ giáo lý hay chỉ dẫn nào. Ông đã nhận được tất cả những giáo lý đó ở trong tù, và đối ông như thế là đủ.” Mặc dù không đọc được, ông được nhiều vị Thầy vĩ đại thăm viếng trong nhiều năm và đọc cho ông, và ông hiểu biết nhiều.

Cha tôi trải qua nhiều năm trong một nhà tù Trung quốc vào đầu thập niên 1960. Vào thời gian đó ông đã nhận được những giáo lý tuyệt hảo từ các Lạt ma vĩ đại cùng bị giam giữ với ông. Ông nhắc đi nhắc lại lời dạy cốt tủy của các vị Thầy là phải thấy tình cảnh tệ hại ở Tây Tạng không chỉ là lỗi lầm của người Trung quốc mà còn bởi ác nghiệp của chúng ta được tiêu trừ. Các ngài nói: “Ta không nên cảm thấy sân hận, thù ghét và làm điều xấu ác đối với người Trung quốc. Thay vào đó, trước hết ta cần phát khởi lòng bi mẫnhồi hướng mọi đức hạnh của ta cho họ.”

Tôi xin chia sẻ một câu chuyện mà ông đã kể cho tôi về thời gian ông ở trong tù. Khi ấy ông ngủ cùng phòng với vị Thầy chính của ông là Lạt ma Ngasung. Một người bạn của cha tôi ở phòng bên cạnh. Nửa đêm, ông ta gọi lớn: “Ngasung, Ngasung, tôi sắp chết! Tôi nên làm gì?” Lạt ma Ngasung nói vọng qua tường: “A Di Đà ở phương bắc và màu đỏ.” Người bạn của ông gọi lại: “Phải, phải, đúng thế!” Đến sáng thì ông ta chết.

Như vậy bạn thấy là cha tôi đã nhận được những giáo lý tuyệt vời trong nhà tù của Trung quốc và ông đã gặp các vị Thầy vĩ đại. Cha tôi là một người chăn giữ trâu yak và mù chữ nhưng ông đã hiến mình cho Giáo pháp. Ông không đọc được nhưng có thể trì tụng nhiều thần chú như thần chú Mani và Kim Cương Đạo sư. Ông luôn luôn tụng những bài hồi hướng công đức và nguyện ước tất cả chúng sinh đều được giải thoát, không đau khổ và được hạnh phúc. Ông là người rất tốt lành.

tsatsa

Địa điểm làm Tsatsa

Trong cuộc trò chuyện đó với chị tôi bằng điện thoại di động, chị nói rằng cha tôi đang sống ở túp lều của người chăn trâu yak và làm những pho tượng nhỏ. Sức khỏe của ông đã khá hơn và ông thật tuyệt vời với rất nhiều phẩm tính tốt lành. Chị nói về thời gian ông sống trong ẩn thất với chị. Ở đó có một vài con dê bé xíu bị bỏ rơi vì mẹ của chúng đã chết. Chị nói ông xúc động đến nỗi bật khóc và chị cảm nhận sâu xa trái tim và lòng bi mẫn tốt lành của ông.

Trong suốt thời gian này mẹ tôi ởtrong ẩn thất cùng với chị tôi. Khi cha tôi bắt đầu yếu, mẹ tôi quyết định tụng một tỉ thần chú Mani để làm lợi lạc cho ông. Khi có dấu hiệu rõ ràng là ông sắp mất, một người em khác đến ẩn thất và hỏi mẹ tôi có muốn đến thị trấn thăm cha tôi không.

Bằng trí tuệ, mẹ tôi nói: “Mẹ không cần phải đi. Nếu đi thì mẹ phải ở đó một thời gian dài và không thể tụng thần chú như ở đây. Không ai sống mà thoát được tuổi già dẫn đến cái chết và sự thực là như thế đấy. Vì thế mẹ nên ở trong ẩn thất và tụng thần chú Mani.”

Mẹ tôi không bối rối hay khóc lóc mà vẫn tiếp tục thực hành và trì tụng thần chú Mani. Chị tôi, một sư cô nhập thất trọn đời, nói: “Bây giờ chính là lúc để ông ra đi và ông đã sẵn sàng. Cha mẹ già có thể chết trước con cái là điều đúng đắn. Nếu con cái chết trước mà cha mẹ đã già yếu, cha mẹ phải ở lại với khổ đau ghê gớm của tuổi già.”

Tất cả gia đình mở rộng và bạn hữu của tôi cảm thấy cha tôi đã chết đúng lúc với thái độ và cái nhìn đúng đắn. Ông có niềm tin to lớn ở Giáo pháp và không hối tiếc về cuộc đời mình. Ông không dính mắc vào bất kỳ điều gì và như thế thì rất tốt, bởi do bám luyến vào con người và mọi sự nên nhiều người thấy chết vô cùng khó khăn.

Cha tôi biết là mình sắp chết. Tâm ông rất minh mẫn, ông thanh thảntrò chuyện với từng người trong gia đình, cho họ lời khuyên tâm huyết. Gần đến lúc ra đi, trong khi vẫn còn nói được, ông lập đi lập lại: “Tôi sắp chết, vì thế cầu mong tôi nhận lãnh đau khổ của tất cả chúng sinh. Cầu mong tôi nhận vào mình bệnh tật, đau khổ và mọi vấn đề bởi tôi sắp chết.” Đối với những người có mặt ở đó thì rõ ràng là ngay cả khi ông không còn nói được nữa, ông vẫn cầu nguyện và giữ vững nguyện ước này.

Nhiều thế hệ trong gia đình tôi là các hành giả thuộc Dòng truyền thừa Nyingma. Bác tôi, người đã mất hai năm trước, lúc nào cũng có vẻ như đang thiền định. Bác có một năng lực nhờ việc trì tụng thần chú – khi có người bị thương, bác tụng một thần chú để có thể giúp đỡ họ. Tôi nhớ lại khi còn nhỏ, chúng tôi quấy rầy bác khi bác thiền định. Chúng tôi ẩn núp và gọi bác khi bác nỗ lực tập trung. Sau khi bác mất, thân thể bác ở trong tư thế thiền định ba ngày.

Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự. Cả hai người đều mù chữ nhưng thực hành của các ngài thật vững chắc và mãnh liệt.

Khenpo Gawang Rinpoche thuật lại. Candia Ludy và Ellie Maclin hiệu đính sơ lược.

Chú thích:

(1) Khenpo Gawang Rinpoche là nhà sáng lập và giám đốc tâm linh của Trung tâm Thiền định Pema Karpo ở Memphis, Tennessee. Sau khi đã hoàn tất hai mươi bảy năm như một tu sĩ, mười hai năm với nhiều kinh nghiệm giảng dạy, và chín năm nghiên cứu tại Đại học Phật giáo thuộc Tu viện Namdroling ở Nam Ấn Độ, ngài đạt được học vị Khenpo, một văn bằng Phật giáo tương đương với bằng Tiến sĩ. Gawang Rinpoche tới Hoa Kỳ năm 2004 theo lời mời của Sakyong Mipham Rinpoche và Tổ chức Quốc tế Shambhala. Ngài tự hào được trở thành một công dân Mỹ vào năm 2012. Ngài là tác giả quyển “YOUR MIND IS YOUR TEACHER – Self-Awakening through Contemplative Meditation”

http://www.shambhala.com/authors/g-n/khenpo-gawang.html
Nguyên tác: “The Last Days of Khenpo Gawang’s Father” by Khenpo Gawang
http://shambhalatimes.org/2011/04/20/the-last-days-of-khenpo-gawangs-father/Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 20324)
Mặc vận-chuyển, xuân đi, xuân lại, Dù doanh, hư, tiêu, trưởng vẫn như thường. Âm vô ngôn, chung điệu nhạc muôn phương...
(Xem: 22182)
Đông tàn, tuyết rụng, ánh trời quang Cảnh vật dường như mới điểm trang. Cây cỏ thắm tươi... hoa nở đẹp
(Xem: 18652)
mây rất cũ mà màu chiều rất mới ta bước đi lững thững giữa thời gian xuân hạ thu đông sử lịch xéo hàng khói sương mênh mông...
(Xem: 26867)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 18567)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 19812)
Nụ cười Phật êm đềmbuông xả Như nhắc con, giữa trần thế chông gai Đừng hơn thua tranh tìm lỗi đúng sai Mà xin hãy thương yêucảm hóa
(Xem: 37930)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 20010)
Trong nhà Phật dạy điều hòa thân này giống như ông chủ điều hòa bốn con rắn sống chung trong một cái giỏ vậy. Chúng luôn luôn thù địch nhau, muốn yên phải tìm cách điều hòa...
(Xem: 28156)
Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.
(Xem: 46112)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 15334)
Vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng 10, 2010, Đại Lễ Thỉnh “Phật Ngọc Cho Hòa Bình Thế Giới” đã được cử hành long trọng bằng xe hoa rước Phật và đoàn xe cung nghinh từ Tổ Đình Minh Đăng Quang...
(Xem: 65480)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sanh thoát khỏi ngục tù.
(Xem: 13614)
Đại Lễ Khai Mạc Cung Nghinh Phật Ngọc Tại San Jose
(Xem: 18487)
Vu Lan quán niệm nghĩa tình Vườn tâm, hạnh hiếu chúng mình đơm hoa Không gần bạn ác, gian tà Sớm hôm thân cận gần xa bạn hiền
(Xem: 15432)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14463)
Chùa Bát Nhã long trọng tổ chức lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc từ 9 giờ 30 sáng Thứ Bảy ngày 23 tháng 10 năm 2010 tại khuôn viên chùa.
(Xem: 18602)
Tinh sương hớp cạn chén trà Nhìn vào thế giới Ta bà ngát hương Nơi đây vẫn đoá chân thường Vẫn ngày Mùng Tám tỏ tường sắc không.
(Xem: 12525)
CHƯƠNG TRÌNH ĐẠI LỄ CUNG NGHINH VÀ CHIÊM BÁI PHẬT NGỌC CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI TỪ THỨ BẢY, NGÀY 6 ĐẾN THỨ HAI NGÀY 15 THÁNG 11 NĂM 2010
(Xem: 17535)
Trong đời sống văn minh hiện đại, đạo tràng An cư kiết hạ là môi trường lý tưởng để chư Tăng, Ni tập trung thành một hội chúng hòa hợp, học pháp, hành trì pháp.
(Xem: 25300)
Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương, Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải, Ơn dưỡng dục mẹ ôi ! Sao xiết kể, Công sinh thành con nghĩ: quặn lòng đau.
(Xem: 38560)
Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê.
(Xem: 17565)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 11171)
Đức Phật đã đề bạt Tứ Niệm Xứcon đường “độc đạo” để đưa con người đến địa vị tối thượng. Đức Phật đã chứng minh giá trị siêu việt của giáo pháp Tứ Niệm Xứ...
(Xem: 18459)
Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn gia hộ cho Đạo pháp được trường tồn. Thế giới được hòa bình. Chúng sanh được an lạc.
(Xem: 17309)
Lịch Trình Phật Ngọc 2010 - 2011
(Xem: 13092)
Ngay thời kỳ Phật giáo từ Trung Hoa mới truyền đến nước Nhật qua ngã Đại Hàn (Korea) vào năm 552 Tây Lịch, lễ Bon (Vu Lan) đã được tổ chức tại Nhật,...
(Xem: 13240)
Ðạo Phật có nhiều pháp môn để thích ứng với căn cơ từng người, mỗi pháp mônmục đíchphương pháp khác biệt, vì vậy cần có sự phân biệt rõ ràng để giúp sự lựa chọn...
(Xem: 17401)
Về hình thức, Tranh Chăn Trâu Mục Ngưu Đồ có trên mười bộ khác nhau, có bộ chỉ 5 tranh, có bộ 12 tranh, nhưng phổ biến nhất là những bộ 10 tranh.
(Xem: 24193)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 12284)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
(Xem: 13724)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 12918)
tâm hồn thanh thảnh, tấm lòng bình yên sống bằng những giây phút hiện tại, tĩnh giác để nhìn sự vật diễn tiến một cách khách quan, mà không khen, chẳng chê...
(Xem: 12804)
Thiền không những là một pháp môn chánh của Phật giáo, mà còn là cơ sở của tư tưởng Phật giáo. "Phật giáo ly khai Thiền quán thì Phật giáo sẽ mất hết sinh khí"
(Xem: 14085)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
(Xem: 14515)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
(Xem: 21030)
Thiền học đã không còn là điều mới lạ đối với thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền đã được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây phương từ mấy thế kỷ trước.
(Xem: 22479)
Trong thời kỳ đầu tạo 30 pháp hạnh Ba La Mật, Đức Bồ Tát phát nguyện trong tâm muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác đã trải qua suốt 7 a-tăng-kỳ.
(Xem: 29855)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 13758)
Nan-In, một thiền sư Nhật vào thời Minh - Trị (1868- 1912), tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về Thiền. Nan-In đãi trà. Ngài chế một cốc đầy và vẫn tiếp tục rót.
(Xem: 18129)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 16939)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 12530)
Ảnh hưởng của Huệ Năng đi vào tâm thức con người không qua cửa ngõ suy luận, mà đi vào một cách nhẹ nhàng, khi cảm nhận được sự biến dịch không tồn của sự vật.
(Xem: 30624)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
(Xem: 22648)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 14529)
Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Phápgiảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
(Xem: 12927)
Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
(Xem: 12652)
Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
(Xem: 12440)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 12979)
Ngộ chứng của Thiền chính là khai phát đến tận cùng biên tế sâu nhiệm của trí tuệ Bát Nhã để mở ra diệu dụng không thể nghĩ bàn của trí tuệ rốt ráo này...
(Xem: 16237)
Hiếu kính với Cha Mẹ là một truyền thống tốt đẹplâu đời của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó từ xa xưa đã được giữ vững và trao truyền từ thế hệ này...
(Xem: 15084)
Mỗi năm ngày Phật Đản trở về, hình ảnh Ngài nói pháp suốt lộ trình 45 năm đã sống lại trong hàng triệu ngàn con tim của những người con Phật trên khắp năm châu...
(Xem: 23749)
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục"...
(Xem: 16098)
Ðức Phật thị hiện nơi đời bằng bi nguyện độ sinh, Ngài đã thể hiện nhân cách siêu việt qua tình thương yêu muôn loài, tôn trọng sinh mạng của hết thảy chúng sanh.
(Xem: 28869)
Tự thuở nằm nôi Cha đâu xa vắng Ở quanh con như giọt nắng hiên nhà Ngó trước trông sau vườn rau mướp đắng Giàn cà non vừa trổ nụ hương hoa
(Xem: 20196)
Thiền là những hình thức tập trung tư tưởng để điều hòa cảm xúc, hòa hợp thân và tâm, nâng cao tâm thức để thể nhập vào chân tánh thanh tịnh.
(Xem: 15483)
Sự xuất hiện của một vị Phật – hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
(Xem: 37091)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 44903)
Tình cảm rất tự nhiên nhưng gắn bó ân cần, nên khi Cha Mẹ nhìn con thêm hân hoan vui vẻ, bé nhìn Cha Mẹ càng mừng rỡ cười tươi.
(Xem: 36737)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant