Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Tổng Tự

11 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4636)
Chương I: Tổng Tự

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG I: TỔNG TỰ

Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà, sau khi chết mong được sinh về tịnh độ.

Trong các kinh luận Đại thừa tuy nói mười phương thế giớiHằng sa vô lượng chư Phật, các Đức Phật kia đều an trútịnh độ của các Ngài và giáo hóa chúng sinh ở cõi đó, thế nhưng rất ít đề cập đến các Đức Phật ấy và tịnh độ của các Ngài, chỉ có một vài bộ kinh riêng đề cập đến Phật A-di-đà, Phật A-súc, Phật Dược Sư, trong đó các kinh nói về Đức Phật A-di-đà chiếm đa số. Các kinh này tường thuật nhân vị từ khi bắt đầu phát nguyện tu hành của Đức Phật A-di-đà cho đến sự trang nghiêm của thế giới tịnh độ Cực Lạc ở phương tây. Sự thật này có thể chứng minh tịnh độ của Phật A-di-đà, từ xưa đến nay được chọn làm cõi tiêu biểu cho tịnh độ của chư Phật.

Phật giáo từ Ấn Độ lưu truyền đến nay, các bộ luận nói về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà rất thịnh hành như luận Thập trụ tỳ-bà-sa của ngài Long Thọ, luận Cứu cánh nhất thừa bảo tính của ngài Kiên Tuệ, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân. Điều này chứng tỏ mục đích của các ngài là có ý nguyện sinh tịnh độ. Kinh Đại bi quyển 2, kinh Đại pháp cổ quyển thượng, kinh Văn-thù-sư-lợi phát nguyện, kinh Đại phương đẳng vô tưởng quyển 6 v.v…nói về tỳ-kheo Kỳ-bà-già, đồng tử dòng Ly-xa tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến, Văn-thù-sư-lợi, nữ vương Tăng Trưởng v.v… họ đều thệ nguyện sinh về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà. Mãi đến khi pháp môn Tịnh Độ lưu truyền sang Trung Quốc, người qui hướng rất đông cả tăng lẫn tục đến mấy nghìn vạn người. Lúc đó, pháp môn Tịnh Độ được truyền bá rộng khắp các nước thuộc châu Á và đã trở thành tín ngưỡng thực tiễn của các dân tộc. Vì thế, Tịnh Độ giáo tuy chỉ chung cho giáo lý tịnh độ của chư Phật, nhưng nay y theo nội dung trên, chỉ nói đến các sự kiện lịch sử liên quan đến Đức Phật A-di-đà.

Niên đại có liên quan đến lúc Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc, từ bài tựa của kinh Tứ thập nhị chương cho đến luận Lý hoặc của Mâu Tử, Xuất tam tạng kí tập quyển 2, Lương cao tăng truyện quyển 1 v.v…đều nói vào thời vua Minh Đế, đời Hậu Hán. Ban đêm, vua Minh Đế mộng thấy người vàng, liền sai các quan như Thái Âm v.v…đến Tây Vực cầu pháp. Các vị ấy theo Ca-diếp Ma-đằng v.v…trở về Lạc Dương. Vào giữa niên hiệu Vĩnh Bình, ngài Ma-đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương cho nên Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2 y theo thuyết này mà công nhận niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (67TL), đời vua Minh Đế, là niên đại Phật giáo mới truyền vào Trung Quốc. Thế nhưng, kinh Tứ thập nhị chương bị cho là do người Trung Quốc ngụy soạn, và còn cho rằng truyền thuyết về ngài Ca-diếp Ma-đằng đến Trung Quốc cũng không có căn cứ đáng tin, những điều này là do người đời sau bịa đặt ra.

Lại nữa, Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2, luận Phá Tà quyển hạ do ngài Pháp Lâm soạn vào đời Đường quyển hạ nói: Vào thời Tần Thỉ Hoàng, có mười tám hiền giả người nước ngoài như sa-môn Thích Lợi Phòng v.v…đem kinh Phật đến để giáo hóa Tần Thỉ Hoàng, ông ta không tin, lại còn bắt họ giam vào ngục, đêm đó có vị thần Kim Cang cao một trượng sáu đến phá ngục đưa họ ra, Tần Thỉ Hoàng sợ hãi, đảnh lễ tạ tội. Việc này ở trong Kinh lục của ngài Thích Đạo An và Chu Sĩ Hành…cũng có ghi. Nhưng quyển Kinh lục của ngài Đạo An đã sớm bị thất lạc, rốt cuộc không biết trong đó ghi lại những gì. Nhưng trong sách Đông tây giao thiệp sử chi nghiên cứu của Đằng Điền Phong Bát nói: điều mục năm thứ 33 của Tần Thỉ Hoàng bổn kỷ trong Sử kí quyển 6 có câu cấm “Bất-đắc tự”. “Bất-đắc” là phiên âm của Buddha (Phật-đà), có nghĩa là cấm thờ cúng Phật. Tần Thỉ Hoàng tín ngưỡng pháp thần tiên là cầu không già, không chết, do đó chán ghét pháp quán vô thường của Phật giáo, nên mới có luận điệu cấm đoán người dân thờ cúng Phật. Một âm Phật-đà mà ngày xưa có người viết là Phù-đồ (浮屠), có người viết là Phù-đồ (浮圖) và có người viết là Phục-đậu, bây giờ nghĩ lại âm viết xưa nhất cho rằng ‘Bất-đắc’ là ‘Phật-đà’ cũng rất có lí. Dựa theo đây mà suy luận, thời Tần Thỉ Hoàng nếu có cấm thờ cúng Phật thì có lẽ trong Kinh lục của ngài Đạo An có viết về việc này.

Niên hiệu Tần Thỉ Hoàng thứ 33 (214 trước CN), sau năm thứ 18 tại vị của vua A-dục ở Ấn Độ (237 trước CN) 23 năm, lúc đó vua A-dục phái các sư đến các vùng Kiện-đà-la (Gandhāra) và Đại Hạ (Bactria) để truyền đạo. Vì thế, ngay lúc truyền đạo từ các địa phương ấy rồi lại tiến triển đến lãnh thổ Trung Quốc, không phải không có khả năng ấy, nhưng sau đó do bị ngăn cấm, không thể phiên dịch kinh điển được nên chưa thể cho đây là khởi nguyên của Phật giáo du nhập vào Trung Quốc.

Phật giáo đầu tiên được truyền vào Trung Quốc đại khái là trước thời vua Ai Đế, Tiền Hán. Chú thích Ô Hoàn Tiên Ty Đông Di truyện trong Tam Quốc Chí – Ngụy Thư quyển 30, dẫn dụng Ngụy Lược của Ngư Hoạn ghi chép là vào Nguyên Thọ nguyên niên, đời vua Ai Đế, thời Tiền Hán ( năm thứ 2 trước CN) có Bác sĩ đệ tử[1] tên Cảnh Lô thụ nhận kinh Phật bằng cách truyền miệng từ sứ của vua nước Nhục-chi tên là Y Tồn. Kinh Phật này rốt cuộc là kinh gì, tuy chưa có nói rõ nhưng chính là kinh Phật trong Ngụy Lược đã đề cập đến, nói rõ ngày đản sinh của Thích Tôn và những việc về cha mẹ Ngài, đại khái là có liên quan với truyện của Phật trong kinh Tu hành bản khởi. Tóm lại, đây là nói khoảng năm thứ 2 trước công nguyên, sứ của vua nước Nhục-chi đã đem kinh Phật truyền miệng lại cho các học giả Trung Quốc, đây tức là thuyết nói về truyền nhập đầu tiên của Phật giáo vào Trung Quốc.

Sau đó, đầu niên hiệu Kiến Quốc thời Vương Mãng (9 TL), bởi vì đường giao thông với Tây Vực bị cắt đứt, tạm thời kinh Phật truyền vào phía đông cũng dứt giữa chừng, mãi đến thời Hậu Hán mới khôi phục lại đường giao thông giữa hai nước thì Phật giáo cũng tiếp tục lần lượt truyền đến. Tây Vực truyện trong Hậu Hán thư quyển 78, có ghi: Sở Vương Anh bắt đầu tin Phật giáo, Trung Quốc nhờ đây có nhiều người phụng thờ Phật. Lại nữa, cũng trong Hậu Hán thư quyển 78, truyện thứ 32 trong Tứ thập nhị liệt truyện, Quan Vũ thập vương liệt truyện ghi: Khi nhỏ, Sở Vương Anh thích làm hiệp sĩ, giao tiếp nhiều bạn bè, về già ông lại thích đạo Hoàng Lão, học làm Phật, giữ trai giới, cúng tế. Niên hiệu Vĩnh Bình thứ 8 (65TL), vua hạ chiếu trong thiên hạ tất cả những kẻ bị tội chết đều dùng lụa chuộc tội. Sở Vương Anh sai quan Lang Trung Lệnh đem ba mươi cuộn lụa vàng và lụa mịn trắng đến phủ Quốc tướng, nói: “Xin ngài giúp đỡ, tôi tội lỗi quá nhiều xin ngài vui vẻ ban đại ân mà nhận số lụa trắng dâng tặng này để tôi chuộc tội lỗi”. Quốc tướng nghe tâu, nói rằng: “Sở Vương Anh tụng đọc lời vi diệu của đạo Hoàng Lão, nhưng vẫn kính chuộng chùa tháp thờ Phật, trai giới ba tháng, nguyện với thần linh mà còn trách gì, nghi gì nữa? Nếu ta nhận thì sẽ có tai họa, thôi hãy đem thứ này về giúp cho y-bồ-tắc[2] lo cúng dường tang-môn[3].

Căn cứ những điều đã ghi ở trên thì Sở Vương Anh ở trước năm thứ 8 niên hiệu Vĩnh Bình thời vua Minh Đế, ông đã qui y Phật giáo, thành ưu-bà-tắc đã biết trai giới, cúng tế. Nếu như vậy thì trước niên hiệu Vĩnh Bình đã có đạo Phật lưu hànhTrung Quốc, sau đó Minh Đế (67TL) mộng thấy người vàng mới biết người ấy là Phật, bèn sai sứ đi Tây Vực cầu pháp. Điều này xét ra chẳng phải hoàn toàn trái với sự kiện lịch sử.

Niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179TL), đời vua Linh Đế, thời Hậu Hán, Chi Sấm đã dịch ra kinh Bát-chu tam-muội là sự mở đầu của Tịnh Độ giáo truyền đến Trung Quốc. Tiếp đến có Chi Khiêm ở nước Ngô, Trúc Pháp Hộ ở Tây Tấn v.v… dịch kinh A-di-đà, kinh Bình đẳng giác. Cưu-ma-la-thập thời vua Diêu Tần, Bảo Vân cùng với Khương Lương Da-xá v.v…thời Lưu Tống dịch kinh A-di-đà, luận Thập trụ tỳ-bà-sa, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v…như thế lần lượt các kinh thuộc Tịnh Độ liên tiếp được dịch ra khiến hàng xuất giatại gia dần dần sinh lòng tin kính, phụng hành. Người đầu tiên phát nguyện cầu sinh Tây phương là ông Khuyết Công Tắc thời Tây Tấn, sau đó rất nhiều người nối tiếp nhau phát nguyện vãng sinh liên tục không ngừng. Trong số đó, người nổi tiếng nhất là đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, ở phía nam Lô sơn, ngài kết Bạch Liên xã cùng với mọi người chuyên tu pháp môn Niệm Phật tam-muội, chủ yếu là y theo kinh Bát-chu tam-muội, lấy thấy Phật vãng sinh làm mục tiêu chính yếu, thành ra dòng tu chủ yếu của Tịnh độ giáo ở Trung Quốc.

Thời Lưu Tống về sau, tín ngưỡng Tịnh độ dần dần được truyền bá ở các nơi, việc giảng nói các kinh Vô Lượng Thọ v.v…được phổ biến rộng rãi, tượng Đức Phật A-di-đà cũng liên tiếp được tạo lập. Thời Tuyên Vũ Đế, triều Bắc Ngụy có Bồ-đề-lưu-chi dịch Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá, tiếp đến ngài Đàm Loan chú giải, đều y theo hai đạo dị hànhnan hành của luận Thập trụ tì-bà-sa, chủ trương tha lực, bản nguyện, bắt đầu làm sáng tỏ nghĩa chính của sự lập giáo Tịnh Độ tông. Vùng phía bắc Tinh Châu là trung tâm có rất nhiều người phát nguyện cầu vãng sinh. Đến thời Bắc Chu và Tùy thì việc nghiên cứu kinh văn thịnh hành, có các ngài như Huệ Viễn (Tịnh Ảnh), Linh Dụ, Cát Tạng, Pháp Thường trứ tác các sớ về các kinh Vô Lượng ThọQuán kinh v.v…Lại có các ngài như Trí Khải, Đạo Cơ, Trí Nghiễm, Ca Tài, mỗi vị đều viết sách luận thuyết về thân Phật, tịnh độ v.v… lộ rõ cảnh tượng hoa lan, hoa cúc khoe sắc. Đương thời, Địa luậncho đến các học phái khác, phần nhiều cũng có khuynh hướng tín ngưỡng Di-đà. Nhưng các sư trong học phái Nhiếp Luận cho rằng thuyết phàm phu vãng sinh trong Quán Kinh là “Biệt thời ý”nghĩa là hiện đời này không thể vãng sinh được, làm cho sự hoằng hóa của Tịnh Độ bị không ít trở ngại.

Đến đời Đường, các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo…xuất thế kế thừa giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, các ngài cực lực nhấn mạnh bản nguyện lực của Phật, cổ súy tư tưởng mạt pháp và nói về sự trọng yếu của thời giáo tương ưng. Đặc biệt là ngài Thiện Đạo khí khái làm mẫu mực cho xưa nay, soạn Quán kinh sớ để đả phá lập nghĩa của chư sư, củng cố cơ sở giáo nghĩa độc lập của Tịnh Độ. Pháp NhiênNhật Bản tin nhận thuyết này, khởi xướng Tịnh Độ tông cho đến ngày nay, các học giả Nhật Bản y theo chủ trương ấy phát huy đến cùng tận. Đương thời ở Trường An có các ngài Trí Thủ, Tịnh Mại, Huệ Tịnh, Viên Trắc, Đạo Huệ, Đạo Ngân, Hoài Cảm…đều viết sớ giải thích các kinh A-di-đà, Quán kinh… Lại nữa, ở nước Tân La cũng có các sư Từ Tạng, Nguyên Hiểu, Nghĩa Tương, Pháp Vị, Huyền Nhất, Cảnh Hưng, Nghĩa Tịch, Thái Hiền, Độn Luân… đều trước tác kinh sớ, cho nên sự nghiên cứu kinh văn về Tịnh Độ đạt đến cao trào, đây là chịu ảnh hưởng của sự bộc phát giáo học đầu đời Đường

Đầu niên hiệu Khai Nguyên, khi ngài Huệ Nhật từ Ấn Độ trở về nước, các thiền sư thời ấy cho rằng thuyết Tịnh Độ chẳng qua là phương tiện giả tạm để hướng dẫn người ngu. Ngài Huệ Nhật đối với việc này kịch liệt phản kích, đề xướng yếu nghĩa niệm Phật vãng sinh, tự thành lập một phái. Sau đó, có các ngài Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Phi Tích…kế thừa thuyết ấy, cho pháp niệm Phật tam-muội là pháp vô thượng thâm diệu của thiền môn, cũng không ngớt lời bài xích bụng rỗng tâm cao của đệ tử nhà thiền. Bấy giờ trong số các thiền sư cũng có người đồng tình với việc này như ngài Tuyên Thập đệ tử của ngài Ngũ Tổ, đề xướng Nam Sơn Niệm Phật Thiền, ngài Huệ Trung ở Nam Dương, đệ tử của ngài Lục Tổ cũng đề xướng Hành giải kiêm tu, cho đến cháu đích tôn của ngài Pháp Nhãn là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ lại nói lý Không hữu tương thành, đồng thời tích cực cổ súy yếu môn Thiền Tịnh song tu, tự thành một thiền phong. Thậm chí các ngài Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bản, Cô Tô Thủ Nột, Trường Lô Tông Trách, Hoàng Long Tử Tâm, Chân Yết Thanh Liễu…cũng đều tu Tịnh độ. Lại có các cư sĩ Dương Kiệt, Vương Cổ, Giang Công Vọng, Vương Điền, Vương Nhật Hưu…đều thiền tịnh song tu và đều có thể nói đó là những người kế thừa di phong ấy.

Tông Thiên Thai cũng có nhiều người tin tu pháp môn Tịnh Độ và sớ giải các kinh Tịnh Độ. Trong số đó, vào đời Tống có các vị Hành Tịnh, Trừng Vực, Nghĩa Thông, Nguyên Thanh, Văn Bị, Tuân Thức, Tri Lễ, Trí Viên, Nhân Nhạc, Tòng Nghĩa, Trạch Anh, Tông Hiểu… nối tiếp nhau trứ tác Quán kinh sớ, A-di-đà kinh sớ, đồng thời biên soạn các sách nói rõ về giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, Quán kinh sớ diệu tông sao của Tứ Minh Tri Lễnổi tiếng nhất, chủ trương dùng tâm quán Phật, là một bộ luận dung hợp hai tông Thiên ThaiTịnh Độ, được tông Thiên Thai xưa nay coi trọng. Tiếp theo có ngài Nguyên ChiếuDư Hàng dựa vào Nam Sơn Luật để phu diễn Tịnh Độ giáo nên trứ tác Quán kinh sớ v.v…thành thuyết của một nhà. Môn nhân Dụng Khâm, Giới Độ v.v…cũng đều trứ tác chú sớ, noi theo học thuyết của thầy, sau đến thời đại Nam Tống, do Tuấn Nãi truyền vào Nhật Bản. Những vị này đều đáng được gọi là những người phục hưng Tịnh Độ giáo học thời Tống.

Lại nữa, đương thời phong trào Kết xã niệm Phật được lưu hành ở phương nam, có các vị Tĩnh Thường, Tuân Thức, Tri Lễ, Mộc Như, Linh Chiếu, Tông Trách, Đạo Thâm đều lãnh đạo kẻ tăng người tục kết xã, chuyên tu niệm Phật. Đây là xa thì chấn hưng di phong của Bạch Liên xãLô sơn, gần thì bước theo dấu chân tốt đẹp của ngài Thiện Đạo, Pháp Chiếu. Đầu thời Nam Tống có Từ Chiếu Tử Nguyên đề xướng Bạch Liên tông. Kế đến có ngài Phổ ĐộLô sơn kế thừa ngài Từ Chiếu và trứ tác Liên tông bảo giám.

Từ thời nhà Nguyên trở về sau, phong trào Thiền Tịnh song tu lại càng lưu hành, các vị đại lão như Trung Phong Minh Bản, Thiên Như Duy Tắc, Sở Thạch Phạm Kỳ, Đoạn Vân Trí Triệt đều hướng tâm về Tây phương. Lại có các vị Trạm Đường Tính Trừng, Ngọc Cương Mông Nhuận, Ngân Giang Diệu Hiệp, Vân Ốc Thiện Trụ…cũng đều tán dương Tịnh Độ. Đến đời Minh có Sơ Sơn Thiệu Kỳ, Không Cốc Cảnh Long, Cổ Âm Tịnh Cầm, Nhất Nguyên Tông Bản, Vân Thê Châu Hoằng, Tử Bá Chân Khả, Hám Sơn Đức Thanh, Bác Sơn Nguyên Lai, Trạm Nhiên Viên Trừng, Cổ Sơn Nguyên Hiền, Vi Lâm Đạo Bái…nối tiếp nhau khởi xướng Thiền Tịnh hợp hành. Trong đó, ngài Châu Hoằngnổi tiếng nhất. Vào niên hiệu Long Khánh, ngài chọn núi Vân Thê, tỉnh Hàng Châu, để chuyên tu Niệm Phật tam-muội, chú giải kinh A-di-đà và viết sách cổ súy tông chỉ Thiền Tịnh nhất trí, về sau ngài cảm hóa rất rộng khắp trong giới học kinh giáo. Tông Thiên Thai có các ngài Vô Ngại Phổ Trí, Diên Khánh Đạo Diễn, Cự Am Đại Hựu, U Khê Truyền Đăng, Linh Phong Trí Húc, Cổ Hấp Thành Thời…đều soạn sách làm sáng tỏ giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, ngài Trí Húc trứ tác Tam học nhất nguyên luận, chủ trương ba tông Thiền-Giáo-Luật như ba chân của chiếc đỉnh, không nên bài xích lẫn nhau và chỗ qui nạp của tam học tức là pháp môn Tịnh Độ. Bấy giờ, có các cư sĩ Viên Hoành Đạo, Trang Quảng Hoàn đều viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Đến thời nhà Thanh, tín ngưỡng Tịnh độ phần nhiều do cư sĩ cổ súy, giữa niên hiệu Khang Hy, có các vị Chu Khắc Phục, Du Hành Mẫn, Chu Mộng Nhan…đều có soạn sách khuyên người tu tịnh nghiệp. Giữa niên hiệu Càn Long, có các vị Bành Thiệu Thăng, Bành Hy Tốc… biên tập Vãng sinh truyện, đặc biệtBành Thiệu Thăng viết rất nhiều sách ca ngợi Tây phương, nỗ lực hoằng truyền Tịnh Độ giáo. Cuối niên hiệu Khang Hy, có Thật Hiền Tư Tề tiếp nối di phong của ngài Châu Hoằng, ở Hàng Châu ngài kết Liêngiáo hóa xa gần, mọi người đều cho rằng ngài là Vĩnh Minh tái sinh, được mọi người khâm phục và kính ngưỡng. Vào đời Khang Hy, Càn Long cũng có các vị như Hành Sách, Tục Pháp, Minh Hoằng, Minh Đức, Tề Năng, Phật An, Thật Thành, Tế Tỉnh… các ngài đều chuyên tu tịnh nghiệp. Về sau, có các vị Thụy Chương, Hồ Đĩnh…lại tiếp tục soạn Vãng sinh truyện. Tiếp đó có ngài Đạt Mặc, Ngộ Khai; cư sĩ có Trương Sư Thành, Chân Ích Nguyện… cũng viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Từ thời Tống trở về sau, Tịnh Độ giáo, đa phần lưu hành ở phía nam vùng Giang Nam, Chiết Giang. Đến thời nhà Thanh, lấy Bắc Kinh làm thủ đô, tin thờ Lạt-ma giáo, nên tín ngưỡng Tịnh Độ vào thời này hầu như bị hạn cuộc chỉ một vùng ở phương nam. Lại nữa, từ thời Minh về sau, nói chung, sinh khí của Phật giáo suy tàn, vì thế không ai có một chút sáng kiến riêng, nếu có viết sách Tịnh Độ thì chẳng qua cũng sao chép những pháp ngữ của người xưa mà thôi. Khi sắp bước sang thời Dân Quốc thì Phật giáo cũng hơi có chút khởi sắc trở lại, nhưng lại theo sự biến động của thời cuộc mà phải chịu ảnh hưởng quá lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13394)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11705)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11197)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11927)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10241)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29234)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11952)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11934)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10948)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19617)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7329)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11356)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35299)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12859)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12205)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17335)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11470)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22098)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11818)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15915)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12121)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14099)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12603)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13216)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13649)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 19986)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14409)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13535)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12340)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11898)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34721)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13402)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13723)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 31963)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13206)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13066)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13422)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13304)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18044)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14925)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15723)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14865)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15845)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20768)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21296)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35116)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27522)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43917)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37884)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15135)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15059)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 12964)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12637)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15608)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27694)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14957)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11405)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53169)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16516)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13160)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20694)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12606)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15578)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15490)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14753)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15601)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13029)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11759)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12288)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12572)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13474)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12462)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 24970)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 11964)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12735)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11611)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13731)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14096)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12900)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12724)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13004)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13908)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 12985)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13608)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12441)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14430)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13285)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13752)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14624)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11853)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12723)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28280)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11780)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12640)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15054)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 11996)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11759)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12852)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 11968)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11516)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant