Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Tổng Tự

11 Tháng Chín 201000:00(Xem: 4640)
Chương I: Tổng Tự

LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Tác giả: Vọng Nguyệt Tín Hanh - Hán dịch: Thích Ấn Hải
Hiệu đính: Định Huệ - Việt dịch: Giới Niệm

CHƯƠNG I: TỔNG TỰ

Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà, sau khi chết mong được sinh về tịnh độ.

Trong các kinh luận Đại thừa tuy nói mười phương thế giớiHằng sa vô lượng chư Phật, các Đức Phật kia đều an trútịnh độ của các Ngài và giáo hóa chúng sinh ở cõi đó, thế nhưng rất ít đề cập đến các Đức Phật ấy và tịnh độ của các Ngài, chỉ có một vài bộ kinh riêng đề cập đến Phật A-di-đà, Phật A-súc, Phật Dược Sư, trong đó các kinh nói về Đức Phật A-di-đà chiếm đa số. Các kinh này tường thuật nhân vị từ khi bắt đầu phát nguyện tu hành của Đức Phật A-di-đà cho đến sự trang nghiêm của thế giới tịnh độ Cực Lạc ở phương tây. Sự thật này có thể chứng minh tịnh độ của Phật A-di-đà, từ xưa đến nay được chọn làm cõi tiêu biểu cho tịnh độ của chư Phật.

Phật giáo từ Ấn Độ lưu truyền đến nay, các bộ luận nói về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà rất thịnh hành như luận Thập trụ tỳ-bà-sa của ngài Long Thọ, luận Cứu cánh nhất thừa bảo tính của ngài Kiên Tuệ, Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá của ngài Thế Thân. Điều này chứng tỏ mục đích của các ngài là có ý nguyện sinh tịnh độ. Kinh Đại bi quyển 2, kinh Đại pháp cổ quyển thượng, kinh Văn-thù-sư-lợi phát nguyện, kinh Đại phương đẳng vô tưởng quyển 6 v.v…nói về tỳ-kheo Kỳ-bà-già, đồng tử dòng Ly-xa tên Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến, Văn-thù-sư-lợi, nữ vương Tăng Trưởng v.v… họ đều thệ nguyện sinh về tịnh độ của Đức Phật A-di-đà. Mãi đến khi pháp môn Tịnh Độ lưu truyền sang Trung Quốc, người qui hướng rất đông cả tăng lẫn tục đến mấy nghìn vạn người. Lúc đó, pháp môn Tịnh Độ được truyền bá rộng khắp các nước thuộc châu Á và đã trở thành tín ngưỡng thực tiễn của các dân tộc. Vì thế, Tịnh Độ giáo tuy chỉ chung cho giáo lý tịnh độ của chư Phật, nhưng nay y theo nội dung trên, chỉ nói đến các sự kiện lịch sử liên quan đến Đức Phật A-di-đà.

Niên đại có liên quan đến lúc Phật giáo bắt đầu truyền vào Trung Quốc, từ bài tựa của kinh Tứ thập nhị chương cho đến luận Lý hoặc của Mâu Tử, Xuất tam tạng kí tập quyển 2, Lương cao tăng truyện quyển 1 v.v…đều nói vào thời vua Minh Đế, đời Hậu Hán. Ban đêm, vua Minh Đế mộng thấy người vàng, liền sai các quan như Thái Âm v.v…đến Tây Vực cầu pháp. Các vị ấy theo Ca-diếp Ma-đằng v.v…trở về Lạc Dương. Vào giữa niên hiệu Vĩnh Bình, ngài Ma-đằng dịch kinh Tứ thập nhị chương cho nên Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2 y theo thuyết này mà công nhận niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10 (67TL), đời vua Minh Đế, là niên đại Phật giáo mới truyền vào Trung Quốc. Thế nhưng, kinh Tứ thập nhị chương bị cho là do người Trung Quốc ngụy soạn, và còn cho rằng truyền thuyết về ngài Ca-diếp Ma-đằng đến Trung Quốc cũng không có căn cứ đáng tin, những điều này là do người đời sau bịa đặt ra.

Lại nữa, Lịch đại tam bảo kỷ quyển 2, luận Phá Tà quyển hạ do ngài Pháp Lâm soạn vào đời Đường quyển hạ nói: Vào thời Tần Thỉ Hoàng, có mười tám hiền giả người nước ngoài như sa-môn Thích Lợi Phòng v.v…đem kinh Phật đến để giáo hóa Tần Thỉ Hoàng, ông ta không tin, lại còn bắt họ giam vào ngục, đêm đó có vị thần Kim Cang cao một trượng sáu đến phá ngục đưa họ ra, Tần Thỉ Hoàng sợ hãi, đảnh lễ tạ tội. Việc này ở trong Kinh lục của ngài Thích Đạo An và Chu Sĩ Hành…cũng có ghi. Nhưng quyển Kinh lục của ngài Đạo An đã sớm bị thất lạc, rốt cuộc không biết trong đó ghi lại những gì. Nhưng trong sách Đông tây giao thiệp sử chi nghiên cứu của Đằng Điền Phong Bát nói: điều mục năm thứ 33 của Tần Thỉ Hoàng bổn kỷ trong Sử kí quyển 6 có câu cấm “Bất-đắc tự”. “Bất-đắc” là phiên âm của Buddha (Phật-đà), có nghĩa là cấm thờ cúng Phật. Tần Thỉ Hoàng tín ngưỡng pháp thần tiên là cầu không già, không chết, do đó chán ghét pháp quán vô thường của Phật giáo, nên mới có luận điệu cấm đoán người dân thờ cúng Phật. Một âm Phật-đà mà ngày xưa có người viết là Phù-đồ (浮屠), có người viết là Phù-đồ (浮圖) và có người viết là Phục-đậu, bây giờ nghĩ lại âm viết xưa nhất cho rằng ‘Bất-đắc’ là ‘Phật-đà’ cũng rất có lí. Dựa theo đây mà suy luận, thời Tần Thỉ Hoàng nếu có cấm thờ cúng Phật thì có lẽ trong Kinh lục của ngài Đạo An có viết về việc này.

Niên hiệu Tần Thỉ Hoàng thứ 33 (214 trước CN), sau năm thứ 18 tại vị của vua A-dục ở Ấn Độ (237 trước CN) 23 năm, lúc đó vua A-dục phái các sư đến các vùng Kiện-đà-la (Gandhāra) và Đại Hạ (Bactria) để truyền đạo. Vì thế, ngay lúc truyền đạo từ các địa phương ấy rồi lại tiến triển đến lãnh thổ Trung Quốc, không phải không có khả năng ấy, nhưng sau đó do bị ngăn cấm, không thể phiên dịch kinh điển được nên chưa thể cho đây là khởi nguyên của Phật giáo du nhập vào Trung Quốc.

Phật giáo đầu tiên được truyền vào Trung Quốc đại khái là trước thời vua Ai Đế, Tiền Hán. Chú thích Ô Hoàn Tiên Ty Đông Di truyện trong Tam Quốc Chí – Ngụy Thư quyển 30, dẫn dụng Ngụy Lược của Ngư Hoạn ghi chép là vào Nguyên Thọ nguyên niên, đời vua Ai Đế, thời Tiền Hán ( năm thứ 2 trước CN) có Bác sĩ đệ tử[1] tên Cảnh Lô thụ nhận kinh Phật bằng cách truyền miệng từ sứ của vua nước Nhục-chi tên là Y Tồn. Kinh Phật này rốt cuộc là kinh gì, tuy chưa có nói rõ nhưng chính là kinh Phật trong Ngụy Lược đã đề cập đến, nói rõ ngày đản sinh của Thích Tôn và những việc về cha mẹ Ngài, đại khái là có liên quan với truyện của Phật trong kinh Tu hành bản khởi. Tóm lại, đây là nói khoảng năm thứ 2 trước công nguyên, sứ của vua nước Nhục-chi đã đem kinh Phật truyền miệng lại cho các học giả Trung Quốc, đây tức là thuyết nói về truyền nhập đầu tiên của Phật giáo vào Trung Quốc.

Sau đó, đầu niên hiệu Kiến Quốc thời Vương Mãng (9 TL), bởi vì đường giao thông với Tây Vực bị cắt đứt, tạm thời kinh Phật truyền vào phía đông cũng dứt giữa chừng, mãi đến thời Hậu Hán mới khôi phục lại đường giao thông giữa hai nước thì Phật giáo cũng tiếp tục lần lượt truyền đến. Tây Vực truyện trong Hậu Hán thư quyển 78, có ghi: Sở Vương Anh bắt đầu tin Phật giáo, Trung Quốc nhờ đây có nhiều người phụng thờ Phật. Lại nữa, cũng trong Hậu Hán thư quyển 78, truyện thứ 32 trong Tứ thập nhị liệt truyện, Quan Vũ thập vương liệt truyện ghi: Khi nhỏ, Sở Vương Anh thích làm hiệp sĩ, giao tiếp nhiều bạn bè, về già ông lại thích đạo Hoàng Lão, học làm Phật, giữ trai giới, cúng tế. Niên hiệu Vĩnh Bình thứ 8 (65TL), vua hạ chiếu trong thiên hạ tất cả những kẻ bị tội chết đều dùng lụa chuộc tội. Sở Vương Anh sai quan Lang Trung Lệnh đem ba mươi cuộn lụa vàng và lụa mịn trắng đến phủ Quốc tướng, nói: “Xin ngài giúp đỡ, tôi tội lỗi quá nhiều xin ngài vui vẻ ban đại ân mà nhận số lụa trắng dâng tặng này để tôi chuộc tội lỗi”. Quốc tướng nghe tâu, nói rằng: “Sở Vương Anh tụng đọc lời vi diệu của đạo Hoàng Lão, nhưng vẫn kính chuộng chùa tháp thờ Phật, trai giới ba tháng, nguyện với thần linh mà còn trách gì, nghi gì nữa? Nếu ta nhận thì sẽ có tai họa, thôi hãy đem thứ này về giúp cho y-bồ-tắc[2] lo cúng dường tang-môn[3].

Căn cứ những điều đã ghi ở trên thì Sở Vương Anh ở trước năm thứ 8 niên hiệu Vĩnh Bình thời vua Minh Đế, ông đã qui y Phật giáo, thành ưu-bà-tắc đã biết trai giới, cúng tế. Nếu như vậy thì trước niên hiệu Vĩnh Bình đã có đạo Phật lưu hànhTrung Quốc, sau đó Minh Đế (67TL) mộng thấy người vàng mới biết người ấy là Phật, bèn sai sứ đi Tây Vực cầu pháp. Điều này xét ra chẳng phải hoàn toàn trái với sự kiện lịch sử.

Niên hiệu Quang Hòa thứ 2 (179TL), đời vua Linh Đế, thời Hậu Hán, Chi Sấm đã dịch ra kinh Bát-chu tam-muội là sự mở đầu của Tịnh Độ giáo truyền đến Trung Quốc. Tiếp đến có Chi Khiêm ở nước Ngô, Trúc Pháp Hộ ở Tây Tấn v.v… dịch kinh A-di-đà, kinh Bình đẳng giác. Cưu-ma-la-thập thời vua Diêu Tần, Bảo Vân cùng với Khương Lương Da-xá v.v…thời Lưu Tống dịch kinh A-di-đà, luận Thập trụ tỳ-bà-sa, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v…như thế lần lượt các kinh thuộc Tịnh Độ liên tiếp được dịch ra khiến hàng xuất giatại gia dần dần sinh lòng tin kính, phụng hành. Người đầu tiên phát nguyện cầu sinh Tây phương là ông Khuyết Công Tắc thời Tây Tấn, sau đó rất nhiều người nối tiếp nhau phát nguyện vãng sinh liên tục không ngừng. Trong số đó, người nổi tiếng nhất là đại sư Huệ Viễn thời Đông Tấn, ở phía nam Lô sơn, ngài kết Bạch Liên xã cùng với mọi người chuyên tu pháp môn Niệm Phật tam-muội, chủ yếu là y theo kinh Bát-chu tam-muội, lấy thấy Phật vãng sinh làm mục tiêu chính yếu, thành ra dòng tu chủ yếu của Tịnh độ giáo ở Trung Quốc.

Thời Lưu Tống về sau, tín ngưỡng Tịnh độ dần dần được truyền bá ở các nơi, việc giảng nói các kinh Vô Lượng Thọ v.v…được phổ biến rộng rãi, tượng Đức Phật A-di-đà cũng liên tiếp được tạo lập. Thời Tuyên Vũ Đế, triều Bắc Ngụy có Bồ-đề-lưu-chi dịch Vô Lượng Thọ kinh ưu-bà-đề-xá, tiếp đến ngài Đàm Loan chú giải, đều y theo hai đạo dị hànhnan hành của luận Thập trụ tì-bà-sa, chủ trương tha lực, bản nguyện, bắt đầu làm sáng tỏ nghĩa chính của sự lập giáo Tịnh Độ tông. Vùng phía bắc Tinh Châu là trung tâm có rất nhiều người phát nguyện cầu vãng sinh. Đến thời Bắc Chu và Tùy thì việc nghiên cứu kinh văn thịnh hành, có các ngài như Huệ Viễn (Tịnh Ảnh), Linh Dụ, Cát Tạng, Pháp Thường trứ tác các sớ về các kinh Vô Lượng ThọQuán kinh v.v…Lại có các ngài như Trí Khải, Đạo Cơ, Trí Nghiễm, Ca Tài, mỗi vị đều viết sách luận thuyết về thân Phật, tịnh độ v.v… lộ rõ cảnh tượng hoa lan, hoa cúc khoe sắc. Đương thời, Địa luậncho đến các học phái khác, phần nhiều cũng có khuynh hướng tín ngưỡng Di-đà. Nhưng các sư trong học phái Nhiếp Luận cho rằng thuyết phàm phu vãng sinh trong Quán Kinh là “Biệt thời ý”nghĩa là hiện đời này không thể vãng sinh được, làm cho sự hoằng hóa của Tịnh Độ bị không ít trở ngại.

Đến đời Đường, các ngài Đạo Xước, Thiện Đạo…xuất thế kế thừa giáo nghĩa của ngài Đàm Loan, các ngài cực lực nhấn mạnh bản nguyện lực của Phật, cổ súy tư tưởng mạt pháp và nói về sự trọng yếu của thời giáo tương ưng. Đặc biệt là ngài Thiện Đạo khí khái làm mẫu mực cho xưa nay, soạn Quán kinh sớ để đả phá lập nghĩa của chư sư, củng cố cơ sở giáo nghĩa độc lập của Tịnh Độ. Pháp NhiênNhật Bản tin nhận thuyết này, khởi xướng Tịnh Độ tông cho đến ngày nay, các học giả Nhật Bản y theo chủ trương ấy phát huy đến cùng tận. Đương thời ở Trường An có các ngài Trí Thủ, Tịnh Mại, Huệ Tịnh, Viên Trắc, Đạo Huệ, Đạo Ngân, Hoài Cảm…đều viết sớ giải thích các kinh A-di-đà, Quán kinh… Lại nữa, ở nước Tân La cũng có các sư Từ Tạng, Nguyên Hiểu, Nghĩa Tương, Pháp Vị, Huyền Nhất, Cảnh Hưng, Nghĩa Tịch, Thái Hiền, Độn Luân… đều trước tác kinh sớ, cho nên sự nghiên cứu kinh văn về Tịnh Độ đạt đến cao trào, đây là chịu ảnh hưởng của sự bộc phát giáo học đầu đời Đường

Đầu niên hiệu Khai Nguyên, khi ngài Huệ Nhật từ Ấn Độ trở về nước, các thiền sư thời ấy cho rằng thuyết Tịnh Độ chẳng qua là phương tiện giả tạm để hướng dẫn người ngu. Ngài Huệ Nhật đối với việc này kịch liệt phản kích, đề xướng yếu nghĩa niệm Phật vãng sinh, tự thành lập một phái. Sau đó, có các ngài Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Phi Tích…kế thừa thuyết ấy, cho pháp niệm Phật tam-muội là pháp vô thượng thâm diệu của thiền môn, cũng không ngớt lời bài xích bụng rỗng tâm cao của đệ tử nhà thiền. Bấy giờ trong số các thiền sư cũng có người đồng tình với việc này như ngài Tuyên Thập đệ tử của ngài Ngũ Tổ, đề xướng Nam Sơn Niệm Phật Thiền, ngài Huệ Trung ở Nam Dương, đệ tử của ngài Lục Tổ cũng đề xướng Hành giải kiêm tu, cho đến cháu đích tôn của ngài Pháp Nhãn là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ lại nói lý Không hữu tương thành, đồng thời tích cực cổ súy yếu môn Thiền Tịnh song tu, tự thành một thiền phong. Thậm chí các ngài Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bản, Cô Tô Thủ Nột, Trường Lô Tông Trách, Hoàng Long Tử Tâm, Chân Yết Thanh Liễu…cũng đều tu Tịnh độ. Lại có các cư sĩ Dương Kiệt, Vương Cổ, Giang Công Vọng, Vương Điền, Vương Nhật Hưu…đều thiền tịnh song tu và đều có thể nói đó là những người kế thừa di phong ấy.

Tông Thiên Thai cũng có nhiều người tin tu pháp môn Tịnh Độ và sớ giải các kinh Tịnh Độ. Trong số đó, vào đời Tống có các vị Hành Tịnh, Trừng Vực, Nghĩa Thông, Nguyên Thanh, Văn Bị, Tuân Thức, Tri Lễ, Trí Viên, Nhân Nhạc, Tòng Nghĩa, Trạch Anh, Tông Hiểu… nối tiếp nhau trứ tác Quán kinh sớ, A-di-đà kinh sớ, đồng thời biên soạn các sách nói rõ về giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, Quán kinh sớ diệu tông sao của Tứ Minh Tri Lễnổi tiếng nhất, chủ trương dùng tâm quán Phật, là một bộ luận dung hợp hai tông Thiên ThaiTịnh Độ, được tông Thiên Thai xưa nay coi trọng. Tiếp theo có ngài Nguyên ChiếuDư Hàng dựa vào Nam Sơn Luật để phu diễn Tịnh Độ giáo nên trứ tác Quán kinh sớ v.v…thành thuyết của một nhà. Môn nhân Dụng Khâm, Giới Độ v.v…cũng đều trứ tác chú sớ, noi theo học thuyết của thầy, sau đến thời đại Nam Tống, do Tuấn Nãi truyền vào Nhật Bản. Những vị này đều đáng được gọi là những người phục hưng Tịnh Độ giáo học thời Tống.

Lại nữa, đương thời phong trào Kết xã niệm Phật được lưu hành ở phương nam, có các vị Tĩnh Thường, Tuân Thức, Tri Lễ, Mộc Như, Linh Chiếu, Tông Trách, Đạo Thâm đều lãnh đạo kẻ tăng người tục kết xã, chuyên tu niệm Phật. Đây là xa thì chấn hưng di phong của Bạch Liên xãLô sơn, gần thì bước theo dấu chân tốt đẹp của ngài Thiện Đạo, Pháp Chiếu. Đầu thời Nam Tống có Từ Chiếu Tử Nguyên đề xướng Bạch Liên tông. Kế đến có ngài Phổ ĐộLô sơn kế thừa ngài Từ Chiếu và trứ tác Liên tông bảo giám.

Từ thời nhà Nguyên trở về sau, phong trào Thiền Tịnh song tu lại càng lưu hành, các vị đại lão như Trung Phong Minh Bản, Thiên Như Duy Tắc, Sở Thạch Phạm Kỳ, Đoạn Vân Trí Triệt đều hướng tâm về Tây phương. Lại có các vị Trạm Đường Tính Trừng, Ngọc Cương Mông Nhuận, Ngân Giang Diệu Hiệp, Vân Ốc Thiện Trụ…cũng đều tán dương Tịnh Độ. Đến đời Minh có Sơ Sơn Thiệu Kỳ, Không Cốc Cảnh Long, Cổ Âm Tịnh Cầm, Nhất Nguyên Tông Bản, Vân Thê Châu Hoằng, Tử Bá Chân Khả, Hám Sơn Đức Thanh, Bác Sơn Nguyên Lai, Trạm Nhiên Viên Trừng, Cổ Sơn Nguyên Hiền, Vi Lâm Đạo Bái…nối tiếp nhau khởi xướng Thiền Tịnh hợp hành. Trong đó, ngài Châu Hoằngnổi tiếng nhất. Vào niên hiệu Long Khánh, ngài chọn núi Vân Thê, tỉnh Hàng Châu, để chuyên tu Niệm Phật tam-muội, chú giải kinh A-di-đà và viết sách cổ súy tông chỉ Thiền Tịnh nhất trí, về sau ngài cảm hóa rất rộng khắp trong giới học kinh giáo. Tông Thiên Thai có các ngài Vô Ngại Phổ Trí, Diên Khánh Đạo Diễn, Cự Am Đại Hựu, U Khê Truyền Đăng, Linh Phong Trí Húc, Cổ Hấp Thành Thời…đều soạn sách làm sáng tỏ giáo lý Tịnh Độ. Trong đó, ngài Trí Húc trứ tác Tam học nhất nguyên luận, chủ trương ba tông Thiền-Giáo-Luật như ba chân của chiếc đỉnh, không nên bài xích lẫn nhau và chỗ qui nạp của tam học tức là pháp môn Tịnh Độ. Bấy giờ, có các cư sĩ Viên Hoành Đạo, Trang Quảng Hoàn đều viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Đến thời nhà Thanh, tín ngưỡng Tịnh độ phần nhiều do cư sĩ cổ súy, giữa niên hiệu Khang Hy, có các vị Chu Khắc Phục, Du Hành Mẫn, Chu Mộng Nhan…đều có soạn sách khuyên người tu tịnh nghiệp. Giữa niên hiệu Càn Long, có các vị Bành Thiệu Thăng, Bành Hy Tốc… biên tập Vãng sinh truyện, đặc biệtBành Thiệu Thăng viết rất nhiều sách ca ngợi Tây phương, nỗ lực hoằng truyền Tịnh Độ giáo. Cuối niên hiệu Khang Hy, có Thật Hiền Tư Tề tiếp nối di phong của ngài Châu Hoằng, ở Hàng Châu ngài kết Liêngiáo hóa xa gần, mọi người đều cho rằng ngài là Vĩnh Minh tái sinh, được mọi người khâm phục và kính ngưỡng. Vào đời Khang Hy, Càn Long cũng có các vị như Hành Sách, Tục Pháp, Minh Hoằng, Minh Đức, Tề Năng, Phật An, Thật Thành, Tế Tỉnh… các ngài đều chuyên tu tịnh nghiệp. Về sau, có các vị Thụy Chương, Hồ Đĩnh…lại tiếp tục soạn Vãng sinh truyện. Tiếp đó có ngài Đạt Mặc, Ngộ Khai; cư sĩ có Trương Sư Thành, Chân Ích Nguyện… cũng viết sách tuyên dương Tịnh Độ.

Từ thời Tống trở về sau, Tịnh Độ giáo, đa phần lưu hành ở phía nam vùng Giang Nam, Chiết Giang. Đến thời nhà Thanh, lấy Bắc Kinh làm thủ đô, tin thờ Lạt-ma giáo, nên tín ngưỡng Tịnh Độ vào thời này hầu như bị hạn cuộc chỉ một vùng ở phương nam. Lại nữa, từ thời Minh về sau, nói chung, sinh khí của Phật giáo suy tàn, vì thế không ai có một chút sáng kiến riêng, nếu có viết sách Tịnh Độ thì chẳng qua cũng sao chép những pháp ngữ của người xưa mà thôi. Khi sắp bước sang thời Dân Quốc thì Phật giáo cũng hơi có chút khởi sắc trở lại, nhưng lại theo sự biến động của thời cuộc mà phải chịu ảnh hưởng quá lớn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9789)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
(Xem: 9955)
Về phương diện đền ơn cha mẹ, Đức Phật có dạy: "Dù là tại gia hay xuất gia, dù là Thanh Văn hay chư Phật đều có bổn phận đền ơn cha mẹ. Vì tâm hiếu là tâm Phật".
(Xem: 9932)
Tôn giả Xá Lợi Phất xuất thân từ giai cấp Bà la môn, nổi tiếng thông tuệ từ khi còn thơ ấu. Ngài là niềm tự hào, là hy vọng của gia đình, dòng tộc và nhất là mẹ ngài, bà Xá Lợi...
(Xem: 20508)
Ngày lễ Vu Lan không gì khác hơn là ngày lễ dành cho cha mẹ, ngày nhắc nhở phận làm con là phải biết nhớ về cội nguồn, phải luôn tâm niệm báo đáp công ơn của cha mẹ.
(Xem: 10334)
Khi con bắt đầu lớn khôn nên người, thì lúc đó con mới cảm nhận được tình thương bao la, rộng lớn mà mẹ đã dành cho con - một sinh mạng nhỏ nhoi được lớn khôn và trưởng thành...
(Xem: 9952)
Bởi vì, em có biết không, tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật. Nếu em viết được chữ Hiếu để cúng dường Mẹ và mười phương chư Phật trong ngày Vu lan, em đã ở rất gần Phật rồi.
(Xem: 10339)
Sanh duyên từ là quán tất cả chúng sanh tưởng như cha mẹ. Cho nên Kinh Phạm Võng nói: "Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta.
(Xem: 9923)
Người Phật tử có hiếu, nhân ngày lễ Vu Lan hối tưởng lại công ơn cha mẹ, nếu cha mẹ còn hiện tiền hãy đem hết lòng thương kính, chăm sóc...
(Xem: 34406)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 9633)
Lễ Vu Lan xuất xứ từ kinh Pháp Thuyết Vu Lan Bồn. Theo kinh này Phật có dạy Mục Kiền Liên rằng: "Là đệ tử của Phật tu hành đạo hiếu thảo...
(Xem: 8710)
Ai biết hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể là một con người tốt ở trong xã hội. Cho nên hiếu thảo là một nền tảng đạo đức rất cần thiết.
(Xem: 9278)
Đêm qua, ngồi thiền dưới trăng khuya, hương đêm chợt dấy trong hồn con một cảm xúc cực kỳ mãnh liệt. Đó là cảm xúc khi Thầy vẩy nhẹ đóa hoa trên đỉnh đầu con...
(Xem: 11095)
Chúng ta thường tự dễ dãi, nhận mình là Phật tử mà ít quan tâm phản quang tự kỷ xem, là con Phật, chúng ta có thực sự tin và nghe lời Phật dạy hay không?
(Xem: 8519)
Đây là câu kết bài thơ không đề của Liên Ẩn Thiền Sư. Nội dung bài thơ rất đơn giản, ngôn từ mộc mạc, thân thương như những lời nhắc nhở của thầy với trò...
(Xem: 9794)
Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm...
(Xem: 9178)
Một truyền thống đẹp của mùa Vu Lan, giúp mọi người nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục, ân tổ tiên đất nước, ân Tam Bảo thầy bạn, ân chúng sanh thí chủ.
(Xem: 20441)
Việt Nam trong Đại Lễ Vu Lan, lễ cầu siêu tháng bảy chúng ta thường thấy có nghi thức đốt đèn cầu nguyện, hay là pháp hội Phóng Đăng...
(Xem: 19194)
Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não...
(Xem: 8752)
Kinh Vu Lan thuật chuyện Tôn giả Mục Kiền Liên với thần lực đệ nhất mà vẫn không cứu được mẹ nơi cảnh khổ ngạ quỷ. Sau đó, vâng lời Phật dạy, Tôn giả đã thiết lễ trai nghi...
(Xem: 8862)
Sau khi xuất gia khoảng 5 năm, vị tân Tỷ-kheo ấy đã am tường giáo pháp và được các vị trưởng lão cùng đại chúng tán thán về đức hạnh.
(Xem: 12108)
Trên phương diện xuất thế gian, thầy dạy đạo còn có vị trí cao cả hơn, vì thầy dạy ta những phương pháp tu hành để trở thành người đạo đức, để thăng hoa đời sống tâm linh.
(Xem: 9594)
Hiếu đạo là chuẩn mực đạo đứcgiá trị chung cho toàn thể nhân loại. Giáo dục hiếu đạo góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và ổn định trật tự xã hội.
(Xem: 22995)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 8994)
Khi có con, ngoài cái trao hết cái nhựa sống, cái khí huyết của mình để nuôi con, người mẹ còn trao cho con cái tinh hoa đạo đức của mình.
(Xem: 9259)
Trong văn hóa của dân tộc Việt Nam, ý nghĩa hiếu đạo, được xem là một di sản qúi báu, một chất liệu sống tốt đẹp được mọi người yêu chuộng...
(Xem: 9972)
Khi chúng ta ngừng lại sự nói năng và suy nghĩ để chuyên chú vào hơi thở vào-ra, chúng ta đang an trú trong quê hương đích thực của mình...
(Xem: 9894)
Sở dĩ Mục Kiền Liên đắc Thánh quả một cách nhanh chóng vì Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cho nên trong hiện đời được gặp Phật...
(Xem: 10616)
Mẹ tôi là niềm tự hào và hạnh phúc lớn nhất của tôi. Tôi luôn luôn cảm thấy hạnh phúchãnh diện vì có một bà mẹ tuyệt vờihiền đức như vậy.
(Xem: 10925)
Tinh thần từ bi cứu khổ của đạo Phật đã hun đúc nên một tình thương rộng lớn không chỉ hạn cuộc trong phạm vi nhân sinh mà còn phổ huân khắp tất cả các loài chúng sanh...
(Xem: 12473)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9334)
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế...
(Xem: 9192)
Hàng năm, mùa Vu lan là lúc người con Phật học hạnh báo hiếu của chư Phật, làm lành, bố thí, cúng dường, ăn chay, phóng sanh để cầu nguyện cho thân bằng quyến thuộc...
(Xem: 9312)
Hàng năm, chúng ta vâng lời Phật dạy, làm người con thảo, nên thường dâng tứ sự, cúng dường trai tăng lên Thập Phương Thường Trú Tăng để hồi hướng phước báo đến Cha Mẹ...
(Xem: 10454)
Chân lý "bản thể tuyệt đối" vừa được khám phá, cũng là bản tánh nguyên uỷ, thường hằng, tự tại, gọi tên sao cũng được, cũng là tánh biết sáng suốt...
(Xem: 21995)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22240)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 16603)
Danh từ Vu Lan hay Vu Lan Bồn là tiếng dịch âm từ chữ Phạn Ulambana vốn có nghĩa là “Ngày hội cứu những oan hồn bị treo ngược.”
(Xem: 9533)
Tiếng chuông chùa mãi ngân vang, vào lúc buổi bình minh vừa thức giấc hay lúc chiều về, đem theo âm thanh ấm cúng, chan chứa tâm tình, lan rộng ra khắp không gian.
(Xem: 10186)
Nhờ ông Phật, tôi hiểu được ba nhiều hơn. Cái khó nhất ba đã đạt rồi, đứng giữa đôi dòng Đạo và Đời. Ung dung như vị Phật...
(Xem: 8387)
Bàng bạc trong kinh điển Hán tạng (H) và Pàli tạng (P) là ơn nghĩa sanh thành, thâm ân dưỡng dục, hiếu đạo trong hiện tại, hiếu đạo ở vị lai, tội báo bất hiếu...
(Xem: 8287)
Tay bưng bát mì mà nước mắt tuôn trào từ khi nào, tôi thả đôi đũa rơi xuống đất, lâu lâu xoa nhẹ vết sưng to hơn cái bánh bao trên chân của mẹ, nước mắt cứ từng giọt từng giọt rơi xuống đất…
(Xem: 9450)
Người mẹ không đi thêm bước nữa mà ở vậy nuôi dưỡng con thơ. Lúc đó trong thôn chưa có điện, mỗi tối thằng bé thắp ngọn đèn dầu bé tí đọc sách, vẽ tranh.
(Xem: 8829)
Thương người như thể thương thân, xem mọi người như họ hàng thân tộc từ đời đời kiếp kiếp luân hồi với nhau, cho nên lúc nào cũng tận tình trợ giúp từ vật chất đến tinh thần...
(Xem: 8624)
Công ơn của cha mẹ đối với các con thật to lớn như trời cao, biển rộng, nào là mớm cơm cho ăn từng bữa, nào là săn sóc cho con từng giấc ngủ canh khuya...
(Xem: 12274)
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Tiết Liêu đã chứng tỏ rằng, từ ngàn xưa, cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm tiêu chí, và làm thước đo nhân cách...
(Xem: 9131)
Đêm nay chị lại có mặt nơi chùa xưa dự Lễ Vu lan, chị rất hạnh phúc được cài một bông hồng, và chị đã rất xúc động khi được hát lại ca khúc mà chị đã từng hát ngày nào.
(Xem: 9603)
Tôi còn nhớ những lần ngồi tô màu vẽ ở bàn ăn trong nhà bếp. “Mẹ, xong rồi. Hãy nhìn tranh của con này”. “Ồ, đẹp quá”, mẹ trả lời, và tiếp tục với công việc đang làm.
(Xem: 8611)
Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tôt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi!
(Xem: 9445)
Đợi đôi vai của cha khuất dần trong đám người qua lại, không nhìn thấy rồi, tôi mới ngồi xuống ghế, nước mắt chảy dài từ khi nào không biết thấm vào môi mằn mặn...
(Xem: 8622)
Cúng dường làm phước hồi hướng cho mẹ cho cha. Trong nhà thuận hòa thì cha mẹ vui. Một niệm niệm Phật hồi hướng một niệm.
(Xem: 8353)
Hai tiếng mẹ cha trở nên lớn lao, là do sinh thành dưỡng dục. Không có công sinh công dưỡng, đức Phật đã không ca ngợi hai tiếng mẹ cha như vậy.
(Xem: 8466)
Cách đây mấy ngàn năm, ngài Mục Kiền Liên đã thỉnh cầu Thánh chúng cầu siêu cho mẹ. Nhờ lễ cầu siêu ấy, bà thoát kiếp ngạ quỉ...
(Xem: 10178)
Thí Vô Giá Hội là đàn tràng được thiết lập có đủ hương hoa, trà quả, thực phẩm, gạo muối, cờ phướng... kể cả ấn chú để cứu độ các loài cô hồn...
(Xem: 23618)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 9571)
Mùa báo hiếu sao quên thân phụ Luôn nhắc mình lòng nhủ nhớ ơn Công cha như núi Thái sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
(Xem: 9391)
Tôi mới chuyển nhà đến một nơi ở mới không bao lâu, và cứ mỗi ngày vào lúc trời gần sáng ở lầu trên vang ra tiếng đóng cửa rất mạnh, và kế tiếpâm thanh của một tràng tiếng chân...
(Xem: 9001)
Tiểu Phương vẫn với ánh mắt sốt ruột ngóng trông chờ đợi bức thư chúc mừng sinh nhật lần thứ 20 của mẹ gửi đến. Em mở cái hộp báu đựng những bức thư của mẹ gửi về trước đây.
(Xem: 8338)
Nước mắt tôi cứ trào ra không thể ngăn lại được, nhỏ nhẹ nói: “An An! ngoan nào, cố gắng học tốt, đợi mẹ trở về, nhất định sẽ cho con rất nhiều chocolate và ký vào vở cho con.
(Xem: 8525)
Suối nguồn chở nặng lời thơ ầu ơ ca khúc năm xưa mẹ hò Từng câu theo bước chân tròn Nuôi con khôn lớn, vào đời theo con
(Xem: 7883)
Mỗi người con khi rời xa gia đình, đều mang theo mình là cả một trời thân thương trong lời ru, trong tình thương, trong ánh mắt, trong trái tim bà mẹ.
(Xem: 7970)
Biển có động, ngàn đời xưa yên tịnh Ngôn ngữ nào rơi rụng giữa chân tâm để về sau là suối nguồn tâm mẹ Một lúc về, ngủ giấc mộng ấm êm
(Xem: 8795)
Ngày lễ Vu lan nói theo nhà đạo là ngày Tự tứ của chúng Tăng. Chữ Tự tứ nói đủ là Tự tứ thỉnh, nghĩa là thỉnh cầu những bậc trưởng thượng chỉ dạy mọi lỗi lầm cho mình.
(Xem: 8933)
Đạo Phật ra đời và đã mang đến cho đời một cách nhìn và cách nghĩ khác; tự do và thông thoáng về tri thứctâm linh: đó là trí tuệ Bát Nhã.
(Xem: 10059)
Đức Phật của chúng ta đã dạy rất nhiều về đạo hiếu trong khắp cả các kinh điển. Chúng taPhật tử thì phải tâm tâm niệm niệm báo đền ân đức cha mẹ...
(Xem: 8642)
Bằng đức độ, lòng từ bi và trí tuệ siêu tuyệt, Nhị Tổ Pháp Loa chinh phục được mọi hạng người trong xã hội, từ vua quan đến quân sĩ...
(Xem: 8622)
Ðiều kiện căn bản để bước vào con đường đạo đức, trước tiên phải nói đến sự hiếu kính, phụng dưỡng cha mẹ. Nho giáo có câu:“Hiếu vi vạn hạnh chi tiên”.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30054)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 24162)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 9268)
Từ xưa tới nay và mãi mãi đến mai sau, hai chữ Cha Mẹ, có lẽ được nói nhiều nhất và được viết nhiều nhất. Hai chữ Cha Mẹ là cội gốc của tình thương vô tận...
(Xem: 9631)
Một điều đáng chú ý là trong ngày hội Vu Lan Bồn, ngoài lễ nghi dâng cúng hương hoa, vật thực lên đức Phật, chư Tăng để cầu nguyện cho cửu huyền thất tổ...
(Xem: 9511)
Cùng chung một niềm tri ân vô hạn, ôn lại lịch sử, nhớ gương hiếu hạnh của người xưa, lòng chúng ta rung động vì mối cảm hoài đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
(Xem: 9501)
Mục Kiền Liênhiện thân của người con hiếu thảo. Trước tội lỗi của mẹ, Ngài có oán trách đâu. Chỉ có lòng nguyện cầu xin lượng hải hà vô biên của Bồ tát...
(Xem: 7853)
Mùa Vu Lan lại về, tôi bồi hồi xúc động. Ai cũng có một người mẹ trong trái tim. Sương mù và mưa ngâu. Nhớ thương và xót xa một cái gì đã mất.
(Xem: 9068)
Một phụ nữ nhà quê. Một con người luôn ném hết nghị lực ra giữa trời đất để sống. Bảy mươi ba tuổi. Tên Cao Thị Mỹ...
(Xem: 28203)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 23698)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12244)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 8883)
Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệtừ bi từ nơi tâm mình... Thích Thái Hòa
(Xem: 14238)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14106)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 9654)
Chọn cành hồng xanh lá, Hương hồng thơm đậm đà, Cắm vào bình cho mẹ, Tình con nằm trong hoa.
(Xem: 9342)
Mẹ đã lạy với trời đất rằng: Sinh con ra nhưng mẹ đã hiến dâng lên Ðức Phật, và cho con làm đệ tử của Ngài. Một sự dâng hiến cao cả, vô bờ bến.
(Xem: 9640)
Thiết nghĩ, Ngày Xuất Gia Báo Hiếu không những được tổ chức rộng rãi trong mùa Vu Lan mà cần phải được tổ chức nhiều ngày hơn nữa...
(Xem: 30893)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 27118)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 32707)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33995)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27759)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 10574)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 12464)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 58673)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 10652)
Tuổi thơ con lên mùa hy vọng Đón gió về tiếng võng đong đưa Lời ru từng nhịp thức sớm trưa
(Xem: 9391)
Mùa về gọi đón vu lan Sen hương thơm nở bên làn trúc bay Gió ngàn lay lắt lắt lay Heo may tiếng lạc bàn tay mẹ hiền
(Xem: 9556)
Mùa vu lan đến Thấy bâng khuâng lòng con nhớ mẹ Buổi ngày xưa tảo tần hôm sớm Một nắng hai sương...
(Xem: 13938)
Đạo Phật như một biển khơi, dẫu có nổi sóng ba đào trong một thời điểm biến động thì cuối cùng vẫn trở lại thể tánh an tịnh ban đầu.
(Xem: 14207)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 10761)
Trời tối quá, nhưng tôi biết có 3 bông sen nở từ hôm qua, giờ này cánh sen đang úp lại, ngủ êm đềm bên những lá tròn xanh mướt, chờ bình minh lại tỏa ngát hương thơm.
(Xem: 28148)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 23272)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant