Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Công Án 90-100

14 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 8540)
Công Án 90-100

THIÊN KHI NHƯ HUYỄN bình
ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG dịch
TIẾNG SÁO THÉP
(100 CÔNG ÁN THIỀN)

90. CÁI MÂM VỠ

 

Ngày xưa, có một ông tăng sống ba mươi năm trong một cái am nhỏ gọi là Phì Điền, có nghĩa là “ruộng mầu mỡ”.

 

 Fugai: Có thể ông ta không biết chỗ nào khác để dọn đi.

 

Ông ta chỉ có một cái mâm làm bằng đất sét.

 

 Fugai: Vật đắt tiền chẳng phải luôn luôn là đồ quí.

 

Một hôm một ông tăng khác ở học với ông ta, lỡ tay làm bể cái mâm.

 

 Fugai: Nhờ bị bể mà kho tàng hiện ra.

 

Mỗi ngày ông thầy bắt học trò thay cái mâm.

 

 Fugai:  Tại sao ông muốn cái khác.

 

Mỗi khi người đệ tử đem cái mâm mới đến, ông thầy liền ném nó đi và nói, “Cái này chẳng phải. Trả lại cho tôi cái cũ.”

 

Fugai: Tôi sẽ giơ hai bàn tay ra và cười lớn.

 

Genro: Nếu tôi là người đệ tử, tôi sẽ nói, “Hãy đợi khi nào mặt trời mọc hướng tây.”

 

Fugai: Tôi sẽ đi tìm nó trước khi tôi sinh ra đời.

 

Genro: Bể rồi;

[Fugai: Cái mâm còn nguyên đó.]

Chạy nhanh theo nó đi.

[Thanh kiếm biến mất trong nước.]

Đệ tử không hiểu nó.

[Nó đã trở lại với ông ta rồi.]

Gọi ấm thiết là chuông.

[Ông có thể gọi đất là trời. . . có gì là sai?]

 

 

 

 91. PHÁP NHÃN GIỌT NƯỚC

 

Một ông tăng hỏi Pháp Nhãn, “Thế nào là một giọt nước Tào khê?

 

 Fugai: Phun mực trong miệng vào mặt người ta.

 

Pháp Nhãn nói, “Là một giọt nuớc Tào khê.”

 

Fugai: Ông ta dùng độc trị độc.

 

Genro: Pháp Nhãn không bao giờ hạ giá đã định.

 

Fugai: Chẳng có giá nhất định.

 

Genro: Giọt nước này từ nguồn;

[Fugai: Hoàng hà ô nhiễm tại nguồn.]

Không có gì độc hơn. . .

[Ai uống vào ắt mất mạng.]

Chớ nói biết nóng lạnh.

[Ai biết vị ấy.]

Bao nhiêu người uống được?

[Tôi đã uống rồi.]

 

 

 

92. TÀO SƠN BỐN KHÔNG

 

 Tào Sơn nói, “Không theo đường tâm của chim."

 

 Fugai: Ông thích nay đây mai đó hơn chăng?

 

 Như Huyễn: Quí vị từng nghe Kontiki chưa?

 

 Không mặc áo cho mình trước khi sinh.

 

Fugai: Sự trần truồng mang lại hạnh phúc chăng?

 

Như Huyễn: Vũ nữ Tokuyae mặc y phục dày trong lúc múa, nét hiền diệu chan hòa trong chiếc y.

 

 Không nói phút giây hiện tạivĩnh cửu.

 

Fugai: Ông chỉ cần lộ mặt ra.

 

Như Huyễn: Tôi không thích cái mặt đó.

 

 Không diễn tả mình trước khi sinh.

 

 Fugai: Người ta nên đọc không chữ.

 

Như Huyễn:  Tôi hiểu mười ngàn chữ Hán nhưng chúng chẳng làm tôi phiền.

 

Genro: Cứ như Tào Sơn nói, tôi sẽ hỏi tăng nhân các ông:

 [Fugai: Hỏi đi! Tôi sẽ đáp từng câu.]

Thứ nhất, các ông có thể đi bất cứ chỗ nào tùy thích, nhưng thế nào là đường chim?

[Đông hay tây?].

 

Thứ nhì, bây giờ các ông có thể mặc áo gì tùy thích, nhưng các ông mặc áo gì trước khi các ông sinh ra?

[Người văn minh không trần truồng đi dạo phố].

 

Thứ ba, hãy nói bất cứ điều gì tùy ý, nhưng thế nào là hiện tại?

 

[Như Huyễn: Lời bình của Fugai về câu này không đáng dịch. Tôi nói thay sư, “Câu hỏi hay quá chẳng thể trả lời.”]

 

Thứ tư, các ông có thể diễn tả cái gì tùy thích, nhưng trước khi sinh ra thì các ông ở chỗ nào?

 

[Fugai: Phù thủy biết trò ảo thuật].

 

 Genro: Thuốc nhà Tào Sơn cay.

 [Fugai: Còn dịu hơn mật ong].

 Mục đích là giết người.

[Khi tất cả bị giết chết, một người sống

 sinh ra.]

 Kiếm ba tấc lấp lánh;

 [Phật và Tổ sẽ sợ đến chết mất.]

 Mỗi nhát chém bén hơn.

 [Chớ tự chém mình nhé!]

 

 

 

93. ĐỨC SƠN SƯ TỬ

 

Một hôm Đức Sơn đang làm việc trong vườn chùa, thấy một ông tăng đang đi đến ở đầu đường, sư liền đóng cổng chùa lại.

 

 Fugai: Tham vấn đã xong.

 

Ông tăng gõ cổng.

 

 Fugai: Hành động trễ nãi.

Đức Sơn hỏi, “Ai đấy?”

 

 Fugai: Một quái vật!

 

Ông tăng đáp, “Sư tử con.”

 

 Fugai: Sư tử con lọt vào hang cáo.

 

Đức Sơn mở cổng.

 

 Fugai: Ông ta đưa đầu vào miệng sư tử.

 

Ông tăng lễ bái thầy.

 

 Fugai: Bộ lông chẳng giống sư tử.

 

Đức Sơn nhảy lên lưng ông tăng làm như cưỡi lên một con sư tử nhỏ, ghì nó xuống và nói, “Súc sinh! Ngươi từ đâu đến?”

 

 Fugai:  Đó là cách nuôi sư tử con.

 

Genro: Ban đầu tôi nghĩ ông ta là sư tử con thật, nhưng bây giờ tôi thấy sức ông ta không bằng một con cáo. Ông ta phải nhảy lên Đức Sơn ngay lúc cổng vừa mở, ghì sư xuống hết cơ cứu vãn.

 

Fugai: Đồ súc sanh.

 

Như Huyễn: Kangetsu nói đó là một cảnh hay. Nên hạ màn để kết thúc. Tôi đồng ý với Kangetsu. Genro giống như một lão nhà quê vô vị, ồn ào mà chẳng được tích sự gì. Gió nhẹ giữa mùa hè thổi vào phòng, Kangetsu và tôi cùng nhau làm việc. Tại sao chúng tôi không hỏi gió nhẹ? Nó là cái gì? Nó từ đâu đến? Chỉ chào đón nó, không gọi nó là ác quỉ hay thiên thần.

 

Genro: Tự gọi mình sư tử,

đến viếng kẻ thuần thú.

[Fugai: Đang rống như sư tử.]

Tiếng gầm bể tự viện.

[Tiếng vang từ lũng đồi]

Sư tử thành chú lừa,

[Nên học cách nhào lộn.]

Bại trước khi đá được. 

[Sau sấm, không có mưa.]

 

 

 

94. SỐNG MỘT MÌNH

 

Một ông tăng đến hỏi Vân Cư, “Làm thế nào con có thể sống một mình trên đỉnh núi?”

 

 Fugai: Ông lạc trong mây mù.

 

Vân Cư đáp, “Sao ông không bỏ thiền đường dưới thung lũng đi lên núi?”

 

 Fugai: Đây chẳng phải cách hàng phục ma.

 

Như Huyễn: Những người bạn Mỹ thường hỏi tôi làm thế nào tìm được “nơi yên tĩnh để thiền định?”. Câu trả lời thông thường của tôi là, “Trong nhà anh có chỗ nào yên tĩnh không?” Trong đời sống hàng ngày dù có bận rộn đến đâu, người ta cũng có thể tìm được những giờ phút nào đó để thiền định và một chỗ nào đó để ngồi yên. Chỉ khăng khăng tìm một chỗ yên tĩnh bên ngoài ngôi nhà mình ở là hoàn toàn sai. Ông tăng này không hòa mình được với những tăng nhân khác trong thiền viện và muốn sống một mình trên đỉnh núi. Dù cho Vân Cư đã dồn ông tăng vào thế kẹt bằng câu hỏi ấy, cũng không lạ gì Fugai cho phương pháp của Vân Cư quá nhạt nhẽo.

Nếu tôi là Vân Cư, tôi sẽ yêu cầu ông tăng cho tôi biết ngay lúc này ông ta đang ở đâu. Nếu ông ta lưỡng lự tôi sẽ đẩy ông ta ra khỏi phòng ngay.

 Genro: Nếu tôi là Vân Cư, tôi sẽ nói với ông tăng, “Nếu ông không chểnh mảng thiền đường của ông, tôi cho phép ông ở trên đỉnh núi. Nhưng làm sao ông có thể ở trên đỉnh núi mà không chểnh mảng thiền đường?”

 

Fugai: Tiêu diệt cả thiền đường và núi ấy.

 

Như Huyễn: Fugai giống như người vô chính phủ. Tôi không muốn làm người đồng đạo với ông tăng cấp tiến này. Câu nói đầu tiên của Genro thật sáng giá. Tại sao sư thêm câu cuối? Hãy xem các đồng đạo của tôi! Tất cả những người đó đều là những nhà kinh doanh và nội trợ giỏi. Không ai chểnh mảng việc đeo đuổi Thiền của mình. Bất cứ lời dạy nào tách rời khỏi cuộc sống hàng ngày thì chẳng phải là lời dạy chân thực.

 

Genro: Đẩy tăng đến vực sâu

[Fugai: Không có chỗ nào cao hơn và

rộng hơn.]

Ném ông ta xuống đó,

[Cho ông ta sống mãi.]

Nơi đây tăng sống mãi.

[Không cửa vào, không lối ra.]

Pháp Vân Cư siêu tuyệt.

[Người ta nên biết ơn.]

 

Như Huyễn: Hê!

 

 

 

 

 

 

95. LÂM TẾ MẮT CHÁNH

 

Ma Cốc hỏi Lâm Tế, “Quan Âm ngàn tay, mỗi tay có một mắt, mắt nào là mắt chánh?”

 

Fugai: Mắt nào chẳng phải mắt chánh?

 

Lâm Tế đáp, “Quan Âm ngàn tay mỗi tay có một mắt, mắt nào là mắt chánh? Nói mau! Nói mau!”

 

 Fugai: Kẻ địch bị vũ khí của mình đánh bại.

 

Ma Cốc kéo Lâm Tế xuống khỏi tòa và lên ngồi vào chỗ của Lâm Tế.

 

 Fugai: Sao chổi đến gần chòm sao khác.

 

Lâm Tế đứng lên hỏi, “Vì sao?”

 

 Fugai: Cả đoàn quân theo lệnh rút lui.

 

 Kangetsu: Ma Cốc không giữ vững mục tiêu.

 

Lâm Tế hét, “Katz!” và kéo Ma Cốc ra khỏi tòa.

 Fugai: Con rồng nằm.

 

 Như Huyễn: Cầm thương của địch tấn công địch.

 

Ma Cốc lặng lẽ bỏ đi.

 

 Fugai: Hai tướng hiểu nhau.

 Như Huyễn: Trong lịch sử Trung hoa, Khổng Minh là một tướng tài nổi tiếng, bỗng nhiên bị quân địch dưới sự chỉ huy của Trung Đạt bao vây. Lúc đó chỉ có một mình Khổng Minh, quân của Khổng Minh đang đi nghỉ phép. Khổng Minh bước ra trên bao lơn của một cái tháp nhìn qua phía địch và chơi đàn. Trung Đạt biết chiến thuật thượng đẳng của Khổng Minh, sợ rằng người của Khổng Minh đang mai phục chuẩn bị tấn công, đột nhiên ra lệnh cho quân của mình rút lui. Khổng Minh nổi tiếng là Ngọa Long Tiên Sinh [Ông Thầy Rồng Nằm], người không ai đánh bại được. Lời bình của Fugai chỉ câu chuyện này.

 Quan Thế Âm có một ngàn con mắt nhưng chỉ có một mắt là thật. Con mắt chánh đó tự hóa hiện thành một ngàn con mắt. Giống như mặt trăng đồng thời phản ảnh trong một ngàn cái hồ. Có phải các hồ mời mặt trăng hay là mặt trăng đi xuống cái hồ? Cái nào là chủ, cái nào là khách? Lâm Tế tinh ranh đặt câu hỏi có dụng ý, “Vì sao?” trước khi hét, “Kat!” Ma Cốc nên hét trả lại và đột ngột bỏ đi. Dở quá, thua trận thật không vinh quang

 

 Genro: Câu hỏi, “Vì sao?” của Lâm Tế khiến người ta do dự. Nếu trong tăng nhân các ông có ai đáp đúng được, thì có thể hai tay đánh đường xa mà đi. Đây là mật truyền của giáo lý Lâm Tế.

 

Fugai: Chớ đứng trên nóc nhà mà hét!

 

Genro: Điền Đan chiến sĩ thật tài ba.

[Fugai: Tướng giỏi khó tìm.]

Kế trận bày ra khiếp quỉ ma.

[Con đường vô thượng ngàn thánh chẳng

thể theo.]

Cho bò mang lửa xông vào địch,

[Trăm trận, trăm thắng.]

Một lúc được luôn bảy chục thành.

[Xưa nay chưa từng thua.]

 

Như Huyễn: Điền Đan là một chiến sĩ khác của Trung hoa. Khi bị thiếu quân, ông ta đã dùng bò đánh giặc bằng cách buộc những bó lửa trên lưng bò, và nhờ thế đã chuyển thất bại thành thắng lợi vinh quang

Tăng nhân không nên nói chiến tranh và đánh nhau. Điều đó trái với giới luật Phật giáo. Có nhiều thí dụ khác có thể dùng hay hơn các thí dụ này; một cành hoa cũng thành một minh họa tốt hơn. Trong tương lai, vào khoảng năm 2001, người học Thiền có thể quên chiến tranh là gì và thưởng thức Thiền của họ trong những khu vườn thanh bình đầy gió xuân êm dịu. 

 

 

 

96. NHAM ĐẦU BA GIỚI

 

Một ông tăng hỏi Nham Đầu, “Khi ba giới ập đến thì làm thế nào?”

 

Fugai: Hãy vác chúng lên vai.

 

Nham Đầu đáp, “Hãy ngồi xuống.”

 

 Fugai: Ông lại cho ông ta một gánh nặng nữa.

 

Ông tăng nói, “Con không hiểu.”

 

 Fugai: Ông còn chưa biết mình đã bị trượt.

 

Nham Đầu bảo, “Mang hòn núi kia đến đây, rồi tôi sẽ nói cho.”

 

Fugai: Một người biến mình thành Phật, cũng liền biến người khác thành Phật!

 

Genro: Nếu Nham Đầu không có câu thứ hai, người ta sẽ nghi ngờ Thiền của sư. 

 

Như Huyễn: Người ta có thể nghĩ sư có ý nói ngồi trên ba giới, hay bảo ông tăng ngồi. Kangetsu-san, chúng ta hãy uống trà đi.

 

Genro: Nếu ông tăng hỏi tôi khi ba giới ập đến thì làm thế nào, tôi sẽ đáp, “Dục giới, sắc giớivô sắc giới.” Nếu lúc ấy ông tăng nói con không hiểu, tôi sẽ đáp, “Núi đông đứng trên sông.”

 

 Fugai: Để tôi tham công án của tôi: Nếu ông tăng hỏi tôi, tôi sẽ nói, “Một giọt sương.” Nếu ông tăng vẫn không chịu hiểu, tôi sẽ nói, “Nó biến thành ngọc trên lá sen.”

Genro: Ba thế giới chồng chất;

 [Fugai: Sóng bủa trên trời.]

 Thiền tăng ngồi bồ đoàn.

 [Ném cái bồ đoàn ấy đi!]

 Nham Đầu mở miệng nói,

 [Thế giới vẫn ở trong tai tôi.]

 Mang núi kia lại đây.

 [Núi ấy tối hôm qua bị trộm lấy mất rồi.]

 

 

 

97. THÂN PHẬT

 

 Khi Phật đang giảng kinh Niết Bàn,

 

 Fugai: Chưa đầy đủ. Trước đó ông ở đâu? Chẳng phải ông lúc nào cũng ở đó sao?

 

Như Huyễn: Ông ta chưa từng ở chỗ nào hết. Nếu ông nghĩ rằng ông ta từng ở, ông phải nhận một phần đất Ấn. Sao ông không chờ đến lúc ông ta nói xong?

 

Ngài lấy tay xoa ngực nói, “Các ông nên nhìn kỹ thân vàng của tôi, nếu không về sau sẽ hối tiếc.”

 

Như Huyễn: Phật mong nhập Niết bàn vậy thì đây là dấu hiệu.

 

Fugai: Suỵt! Con cáo, nhà ngươi đã lừa nhiều người, bây giờ lại cố xóa bỏ lỗi lầm.

 

Như HuyễnTôi đã bảo ông lắng nghe cho kỹ.

Nếu ông nói, “Phật nhập Đại niết bàn, ông chẳng phải là đệ tử của tôi.”

 

Fugai: Tôi sẽ nói to, “Phật nhập Đại niết bàn! Phật nhập Đại niết bàn!” 

 

Nếu ông nói, “Phật không nhập Đại niết bàn, ông cũng không phải là đệ tử của tôi.”

 

Fugai: Tôi sẽ nói to, “Phật không nhập Đại niết bàn! Phật không nhập Đại niết bàn!”

Genro: Phật đã nhập diệt cả ngàn năm rồi. Nếu ông bảo ngài vẫn còn ở đây, là ông đang chấp nhận rằng ngài không có nhập Niết bàn. Nếu ông nói rằng ngài không có ở đây là ông đang chấp nhận rằng ngài đã nhập Niết bàn. Nếu ông nói rằng ngài không nhập Đại niết bàn cũng không phải không nhập Đại niết bàn, thì ông phải chấp nhận rằng Ngài không ở đây cũng chẳng phải Ngài không ở đây. Vậy, thân vàng của Ngài ở đâu? Các ông mỗi người hãy về phòng mình nghỉ cho khỏe.

 

 Fugai: Thầy ơi, thầy hãy về phòng thầy trước đi.

 

 Genro: Thầy già quá bận trước khi đi.

 Fugai: Sao chẳng chịu chuẩn bị trước?]

 Nên đã lộ ra ánh sáng vàng;

 [Ai thấy liền bị mù.]

 Thầy đã bịt mồm chư đệ tử.

 [Chưa từng có gì để nói.]

 Chuyện xấu trong nhà nên giữ im.

 [Trước khi ăn cắp hãy bịt tai lại.]

 

 

 

98. HƯU TỊNH DÙNG TRÒ CHƠI

 

 Hưu Tịnh làm giám viện cho Lạc Phố.

 

Fugai: Một địa vị trọng trách.

 

Một hôm Hưu Tịnh gõ chùy ra lệnh, “Chư tăng từ tòa thứ nhất đến tòa giữa, hãy ra đồng làm việc. Chư tăng còn lại, hãy vào núi đốn củi.”

 

Fugai: Tướng ra lịnh cho ba quân.

 

Ông tăng thủ tọa hỏi, “Còn Văn Thù làm gì?”

 

Như Huyễn: Mỗi Thiền đường có một pho tượng hay một bức tranh Văn-thù hay Bồ-đề-đạt-ma.

 

Fugai: Đúng là tăng thủ tọa.

 

 Ông tăng giám viện đáp, “Lệnh tôi chỉ đến các tăng ngồi trên tọa cụ. Chẳng dính dáng gì đến Văn Thù.”

 

Như Huyễn: Chúng ta đọc trong kinh Kim Cang, “Này Tu- bồ-đề, nếu có người nói rằng Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc nằm, hoặc ngồi, người ấy chẳng hiểu nghĩa lời tôi dạy.”

 

Fugai: Ông ta hiểu rõ địa vị của mình. 

 

 Sau này Viên Ngộ bình rằng, “Hưu Tịnh tạo điều kỳ đặc. Pháp của ông tăng thủ tọa tuyệt hảo xỏ xâu được chín cái vỏ ốc.”

 

Fugai: Chẳng có gì tuyệt hảo đối với tôi.

 

Như Huyễn: Có người hỏi Không Tử làm thế nào xỏ xâu được chín cái vỏ ốc, nhưng Khổng Tử không đáp được. Một người đàn bà bảo Khổng Tử đổ mật ong vào một đầu và cho một con kiến mang sợi chỉ từ đầu bên kia bò qua.

 

 “Thế ấy được rồi, nhưng để mở vòng xích, tôi có pháp riêng.”

 

Fugai: Hãy xem nào.

 

Như Huyễn: Ở Trung hoa còn có một câu hỏi khác là làm sao mở các vòng xích khóa lại với nhau. Không một ông thông thái nào giải đáp được, nhưng một người đàn bà đã dùng búa đập nát các vòng xích đó.

 

Viên Ngộ nói tiếp, “Nếu tôi bị ông tăng thủ tọa hỏi cách ấy, tôi sẽ đáp, ‘Đường ấy giống như tấm gương. Nó không tự chuyển mà chiếu tất cả những gì hiện đến’.”

 

Fugai: Hãy đập cái gương đi.

 

Genro: Nếu ai hỏi tôi - không chỉ xâu chín cái vỏ ốc hay mở các vòng xích - Văn Thù phải làm gì, tôi sẽ đánh y trước khi hỏi hết câu. Vì sao? Vì người cày ruộng và người đốn củi cũng chỉ làm theo lệnh.

Như HuyễnThực ra đó là lệnh của Văn Thù.

 

 Fugai: Hưu Tịnh bày Pháp thân (Dharmakaya), Viên Ngộ nói Hóa thân (Nirmakaya), và Genro tả Báo thân (Sambogakaya). Nếu tôi là ông tăng giám viện, tôi sẽ gõ chùy cách chức ông tăng thủ tọa ngay hôm đó.

 

 Genro: Xỏ xâu chín vỏ ốc,

Đập nát các vòng khoen,

[Fugai: Chơn trí vận hành không suy nghĩ.]

 

 

 Bánh xe Pháp tự chuyển.

 [Đại trí giống đại ngu.]

 

 Khổng Tửhiền triết,

Chẳng thắng được đàn bà.

[Bẩm sinh, không do tạo tác.]

 

Cây thông già mọc trên,

Tảng đá có tuyết phủ.

[Nó làm tôi rùng mình.]

 

Hoa mai sớm đón xuân,

Mỉm cười trong hàng giậu.

[Tôi yêu mùi thơm đó.]

 

 

 

 99. ĐẠI ĐIÊN BAO NHIÊU TUỔI

 

Hàn Thối Chi * hỏi Đại Điên là người có ngôi chùa ở chỗ Hàn Thối Chi bị đày đến, “Hòa thượng bao nhiêu tuổi?”

 

 Fugai: Ông ta tuổi khác ông.

 

Đại Điên giơ xâu chuỗi ra, nói, “Ông hiểu không?”

 

 Fugai: Ông dùng thứ nữ trang ấy sao?

Hàn Thối Chi nói, “Không, tôi không hiểu.”

 

 Fugai: Ông không biết xâu chuỗi này là gì ư?

 

Đại Điên đáp, “Ban ngày một trăm lẻ tám hạt chuỗi, ban đêm cũng một trăm lẻ tám hạt chuỗi.”

 

Fugai: Ông không biết cách nào tốt hơn để xử lý ông học trò này sao?

 

Hàn Thối Chi rất bực mình vì không hiểu được ông tăng già này, và trở về nhà.

 

 Fugai: Ông đang cố đóng đinh vào hư không chăng?

 

Về đến nhà, vợ ông ta hỏi, “Có việc gì mà ông không hài lòng?”

 

 Fugai: Đây chẳng phải chuyện đàn bà.

 

Lúc ấy nhà học giả kể cho vợ nghe tất cả chuyện đã xảy ra.

 

Fugai: Như vậy thì có gì hay? Sao ông không tranh luận trường hợp của ông như ông đã phản kháng hoàng đế? 

 

Bà vợ gợi ý, “Sao ông không trở lại chùa hỏi ông tăng già ấy ông ta muốn nói gì?”

 Fugai: May mắn là ông có được vợ hiền.

Hôm sau, trời vừa sáng nhà Khổng học đã đến chùa và gặp ông tăng thủ tọa tại cổng.

 

 Fugai: Bất hạnh quanh quẩn bước chân ông.

 

Ông tăng thủ tọa hỏi, “Sao ngài đến đây sớm vậy?”

 

 Fugai: Sao không?

 

Hàn Thối Chi đáp, “Tôi muốn gặp thầy của huynh để hỏi một câu.”

 

 Fugai: Ông biết ông ta ở đâu không?

 

“Ngài có chuyện gì với hòa thượng?” Ông tăng thủ tọa hỏi, vì thế nhà Khổng học lặp lại câu chuyện.

 

Fugai: Thầy chẳng bao giờ nói những lời này. Ông đang phỉ báng thầy.

Ông tăng thủ tọa hỏi, “Sao ngài không hỏi tôi?”

 

 Như Huyễn: Lên rồi!

 

Lúc ấy Hàn Thối Chi hỏi, “Ngày một trăm lẻ tám hạt chuỗi, đêm một trăm lẻ tám hạt chuỗi, có nghĩa là gì?”

 

 Fugai: Hãy tìm kinh Dịch.

 

 

Ông tăng thủ tọa nhịp răng ba lần.

 

 Fugai: Ông đang mời phiền phức đến.

 

Cuối cùng Hàn Thối Chi gặp Đại Điênmột lần nữa hỏi lại câu hỏi ấy, ngay đó ông thầy cũng nhịp răng ba lần.

 

 Fugai: Chớ nghĩ rằng ông thấy Thiền.

 

Nhà Khổng học nói, “Tôi biết tất cả Phật pháp đều giống nhau.”

 

Fugai: Mặt trăng chỉ là một, nhưng chiếu khắp núi, khe khác nhau.

 

Đại Điên đáp, “Ông không nói như vậy.”

 

 Fugai: Ông chuẩn bị vây máu chưa?

 

Hàn Thối Chi đáp, “Có. Vài phút trước đây tôi đã gặp ông thủ tọa ngoài cổng và cũng hỏi ông ta câu này. Ông ta trả lời tôi cũng y như vậy.”

 

Fugai: Ông nói cái gì? Chuyện này trước kia chưa bao giờ xảy ra.

 

Đại Điên cho gọi ông tăng thủ tọa đến và nói, “Tôi hiểu vài phút trước đây ông đã chỉ bày Phật pháp. Có đúng không?” 

 

 Fugai: Mặt trận động rồi.

 

Ông tăng thủ tọa đáp, “Dạ đúng.”

 Fugai: Kẻ ngu này chẳng biết cách chuyển mình.

 

Đại Điên đánh ông thủ tọa và đuổi liền ra khỏi chùa.

 

 Fugai: Giáp giết người mà Ất bị treo cổ.

 

Genro:  Tại sao ông tăng thủ tọa bị trục xuất? Nếu đó là hình phạt, thì chính ông thầy cũng phải chịu y như vậy, tại sao ông thầy không tự trừng phạt mình? Nếu không phải ông ta bị trừng phạt, thì tại sao bị trục xuất? Đây là bí mật của giáo lý Thiền đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nếu lúc đó Đại Điên bày tỏ Thiền của sư, thì không những sư làm hỏng người khác mà còn giết chết sự sống trí tuệChư tăng, chớ để bị sấm sét kinh động thì sau đó các ông sẽ thấy sao trời vô số

 

 Fugai: Cuối cùng, Đại Điên đã có bạn.

 

Genro: Ngày đêm trăm lẻ tám. . .

[Fugai: kết thúc và khởi đầu.]

Như vậy có nghĩa gì?

[Mặt đối mặt thấy rõ ràng.]

Chạm răng nên bị đuổi.

[Đã có cơ hội tốt.]

Cây bắc ở nam sinh quả khác.

[Khi đổi đất thì luôn luôn như vậy.]

Cái nghi tạng chủ gia tăng;

[Tấm gương của ông không được đánh

Bóng kỹ lưỡng.]

Bây giờ biết tro Phật không dễ sờ.

[Ông ta nghĩ rằng nó được nhập cảng,

nhưng thực ra nó được làm ở Trung hoa.]

 

 

 

100. QUI SƠN PHƯƠNG TRƯỢNG

 

 Trên tường phòng của Qui Sơn có một bài kệ:

 

 “Phương trượng của Qui Sơn,

 [Fugai: Nó được xây lúc nào?]

 Dốc quá không thể trèo

 [Tôi có thể bước đi như trên đất bằng.]

 Nếu có ai vào đó,

 [Hãy bước cẩn thận.]

 Sẽ thành đại tướng quân.”

[Chớ quên còn một đại tướng quân

khác nữa.]

 

Vân Phong nói về bài kệ, “Qui Sơn sanh ra đã là Thiền sư.”

Fugai: Táo ngào đường!

 

Một ông tăng hỏi Vân Phong, “Hòa thượng sắp làm thơ gì cho phòng của hòa thượng?” 

 Fugai: Hỏi hay lắm.

 

Vân Phong đáp bằng cách giơ ra bài thơ của sư: 

 Fugai:  Kẻ bắt chước!

 

“Phương trượng của Thúy Nham

Không bao giờ có cửa.

 [Fugai: Khó vào đó.]

Tăng nào vào trong đó,

[Ông ta đang đi trên lưỡi kiếm.]

Tức khắc thấy Thúy Nham.”

[Đang trượt băng.]

 

Ông tăng lễ bái và đứng lên.

 Fugai: Ông ta có gì để nói?

 

Vân Nham nói, “Ông có thấy Thúy Nham không?”

 Fugai: Chung quanh toàn là kẽm gai.

 

Ông tăng ngập ngừng.

 Fugai: Tôi đã nói rồi, ông ta không thể vào được.

 

Vân Nham đánh phất tử vào miệng ông tăng.

 Fugai: Kìa! Cửa mở rồi.

 

Genro: Phòng của Qui Sơn khó thấy nhưng dễ vào.

Phòng của Thúy Nham dễ thấy nhưng khó vào.

Trong phòng của tôi cũng có một bài thơ:

 

Trống không chẳng trong, ngoài.

 Nếu chẳng có trong, ngoài,

 Tôi hỏi tăng các ông,

 Làm sao mà vào được?

 

 Fugai: Tôi chẳng vào phòng đó.

Genro: Vách đứng ngón chân bám;

[Fugai: Trên dốc dứng có phần bằng.]

Đất bằng dấu bẩy cọp.

[Trên đất bằng có chỗ dốc đứng.]

Mỗi mỗi lập chùa riêng,

Tùy theo thói nhà họ.

[Phải làm những hành động ngu ngốc

để độ kẻ khác.]

 Nghiệp vàng còn lấp lánh.

[Đời này sang đời khác mang phiền phức

 bất tận.] 

 

*



* Hàn Thối Chi là một học giả Khổng giáo, được bổ nhiệm làm Tổng quản Thư khố nhà vua, nhưng bị lưu đày ra khỏi kinh đô đến tám ngàn dặm (Tàu) bởi vì ông chống đối nhà vua thờ tro hài cốt của Phật. (Thiên Khi Như Huyễn).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15579)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
(Xem: 23030)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14052)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12978)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55109)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9171)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14444)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14165)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14204)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13884)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36322)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18167)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19156)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20289)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17638)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31535)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15942)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14682)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46175)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35937)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34383)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19486)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18947)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20193)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18369)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19843)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19530)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33416)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34481)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54521)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37727)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21136)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17882)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63653)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17390)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49658)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27442)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20277)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23035)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18893)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16325)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17923)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20937)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14472)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16865)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16374)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17476)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21982)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15102)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13506)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14368)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15398)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14989)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12699)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13351)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27397)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12515)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13190)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14488)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16238)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15419)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13201)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21651)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22730)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15086)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14948)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46187)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22457)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12620)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18906)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14738)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13840)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47500)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13656)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14576)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33318)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38386)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31235)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12529)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43421)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46666)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant