Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thân Tịnh Độ Luận

19 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 29157)
Thiên Thân Tịnh Độ Luận

THIÊN THÂN TỊNH ĐỘ LUẬN
Nguyên tác: Vasubandhu's discourse On The Pure Land
Tác giả: Thiên Thân Tôn Giả 
Dịch từ Hoa Ngữ: Hisao Inagaki
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển- 04/12/2010

Thi Kệ Ngưỡng Vọng Vãng Sinh: Luận Theo Kinh Vô Lượng Thọ

blankÔ Đức Thế Tôn, với lòng nhất tâm,
Con xin quy y với Đấng Vô Lượng Quang
Chiếu soi khắp cả mười phương,
Và ngưỡng vọng vãng sinh về Tịnh Độ Hòa Bình và An Lạc] (1)

Nương theo sự diễn giải của kinh
Của sự biểu hiện công đức chân thật,
Con viết những vần kệ ngưỡng mộ này trong hình thức dõng mãnh,
Do thế y theo Phật Pháp. (2)

Khi con quán chiếu về tính tự nhiên của Quốc Độ ấy,
Con thấy rằng nó vượt hơn tất cả những cõi nước hiện hữu trong ba cõi.
căn bản như hư không,
Rộng rãi bao la và không cương giới. (3)

Hiển hiện Đại Từ Bi tự nhiên trong Chính Đạo
Và từ gốc rể của phẩm hạnh trần gian tuyệt vời trước đây khởi sinh
Rực rở hoàn toàn với ánh sáng trong lành
Như tấm gương hay mặt trời hay mặt trăng. (4)

bao gồm những trân bảo hiếm hoi,
Và được phú cho với những sự trang hoàng tuyệt diệu.
Ánh sáng trong lành rực rở chói lòa
Và tĩnh lặng, bừng sáng toàn thế giới. (5)

Châu bảo trang hoàng, mềm mại và mượt mà như cỏ
Uốn bên phải và rẻ bên trái.
Chúng phát sinh cảm giác hoan hỉ trong những ai chạm phải,
Vượt hơn những cảm nhận sinh ra khi cỏ ca chiên lân đà [1] vuốt ve (6)

Vô vàn trạng thái khác nhau của châu báu rộ nở
Rãi rác vô số dọc theo hồ nước, dòng suối, dòng sông.
Khi một làn gió nhẹ thổi qua bông hoa và cây lá,
Ánh sáng phản chiếu xen lẩn và chiếu sáng khắp mọi phương. (7)

Cung điện và những tháp báo đủ loại
Bao quát những phong cảnh không chướng ngại khắp mười phương
Có những cây cối phô bày nhiều màu sắc,
Tất cả bao quanh với những hàng rào bằng trân bảo quý giá. (8)

Những màn lưới treo vô số châu báu
Giăng ngang bầu trời.
Khi chuông linh đủ loại rung lên,
Chúng tuyên dương những pháp bảo tuyệt vời. (9)

Bông hoa và y cà sa tuyệt đẹp rơi xuống,
vô biên hương báu đủ loại tỏa mùi thơm khắp mọi nơi.
Tuệ trí của Đức Phật tinh khiết và bừng sáng như mặt trời;
Xua tan bóng tối của thế giới si mê. (10)

Danh xưng thánh thiện giác ngộ con người xa thẩm và sâu rộng;
Vi tế và diệu kỳ và được nghe mọi nơi trong khắp mười phương.
Vùng đất được thủ hộ vững vàng bởi A Di Đà,
Đấng Giác Ngộ, Đấng Pháp Vương. (11)

Những bậc hiền nhân tham dự giống như những đóa hoa tinh khiết vây quanh Đức Như Lai
Được sinh ra ở đấy, hóa sinh từ trong những Đóa Hoa Giác Ngộ.
Tất cả thụ hưởng hương vị của Phật Pháp,
Và lấy thiền và định làm thực phẩm. (12)

Vĩnh viễn xa lìa những phiền não của thân thểtinh thần,
Tất cả hưởng thụ niềm an lạc, mà không bị trở ngại.
Trong thế giới diệu kỳ này của Đại Thừa
Tất cả chúng sinhbình đẳng và ngay cả những tên gọi của những chúng sinh không xứng đáng cũng không nghe đến ở đấy. (13)

Đàn bà, những người xấu xí và khiếm khuyết và
Những ai có hạt giống của Nhị thừa không sinh ra ở đây,
Bất cứ điều gì chúng sinh có thể khát ngưỡng
Họ đều được đầy đủ tất cả. (14)

lý do này con ngưỡng vọng được sinh
quốc độ của Đức Phật Di Đà.
Ngài ngự tọa trên tòa hoa sen thanh khiết diệu kỳ
Trang hoàng với vô số châu báu tuyệt hảo. (15)

Thân thể của Ngài hiển lộ ánh sáng diệu kỳ một sải tay;
Hình tướng của Ngài tuyệt diệu không thể sánh lường đến những chúng sinh khác.
Âm thinh phi thường của Thế Tôn như Phạm Thiên
Được nghe khắp mười phương.(16)

Giống như đất, nước, lửa, gió
không gian, Ngài không có những tư tưởng phân biệt.
Chư thiêncon người, không lay động trong sự thành tựu tâm linh của họ,
Được sinh ra từ đại dương của tuệ trí. (17)

Giống như núi Tu Di, vua của các ngọn núi,
Đức Phật A Di Đàtối thượng, diệu kỳ, và không thể so sánh.
Chư thiên và những bậc hiền nhân cao quý
Tôn kính, đi nhiễu chung quanh Ngài và ngước nhìn Ngài một cách trìu mến. (18)

Khi con quán chiếu Nguyện Lực Nguyên Sơ của Ngài,
Con thấy rằng những ai gặp được sẽ không trôi qua trong tuyệt vọng.
Người ta có thể đạt đến một cách nhanh chóng
Biển lớn của kho tàng công đức. (19)

Vùng đất của hòa bình, an lạcthanh tịnh và tĩnh lặng;
Đức Phật luôn luôn chuyển bánh xe pháp vô nhiễm.
Được chuyển hóa, chư Phật và Bồ Tát sáng rực toàn thế giới như mặt trời,
Trong khi duy trì sự bất động như núi Tu Di. (20)

Ánh sáng thanh tịnh, huy hoàng của chư Bồ Tát,
Trong sự bừng sáng đồng thời của một niệm,
Chiếu soi rực rở mỗi một chúng hội của Đức Phật
Và đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh. (21)

Họ trổi âm nhạc, bông hoa, và y áo cõi trời,
Hương báu, và v.v…, và cúng dường chư Phật;
Tất cả ca ngợi và ngưỡng mộ công đức của chư Phật
Mà không có một tâm niệm phân biệt. (22)

Nếu bất cứ thế giới nào của vũ trụ
Không có kho tàng công đức của Phật Pháp,
Con quyết tâm được sinh ra ở đấy.
thuyết giảng Giáo Pháp như một Đức Phật . (23)

Con đã viết luận văn này và sáng tác những vần kệ
Với nguyện ước được thấy Đức Phật Di Đà
Và cùng với tất cả chúng sinh,
Được sinh ra trong vùng đất của Hòa Bình và Tịnh Lạc. (24)

Tôi đã trình bày chi tiết, bằng kệ văn, những thông điệp từ Kinh Đại Bổn Di Đà (Kinh Vô Lượng Thọ).

LUẬN GIẢI

I. Ba Thực Tập Chính Niệm Đầu Tiên

Những vần kệ Ngưỡng Vọng Vãng Sinh này biểu lộ điều gì? Chúng cho thấy rằng chúng ta quán chiếu về cõi Tịnh Độ, vùng đất của Hòa Bình và An Lạc, thấy Đức Thế Tôn Di Đà và ngưỡng vọng được sinh về Cực Lạc.

Làm thế nào chúng ta quán chiếuđánh thức niềm tin? Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc, cùng thấy Đức Thế Tôn Di Đà.

Những gì là Năm Cánh Cửa Thực Hành Chính Niệm? Đấy là: phụng thờ, ca ngợi, ngưỡng mộ, quán chiếuhồi hướng công đức.

1- Thế nào là Phụng thờ? – Đấy là hành động thân thể để phụng thờ [lễ lạy] Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Bậc Giác Ngộ hoàn toànChúng ta thực hiện hành động này vì chúng ta ngưỡng vọng được sinh về cõi Phật Di Đà.

2- Làm thế nào để Ca ngợitán dương Đức Phật Di Đà? - Chúng ta ca ngợitán dương Ngài bằng phương tiện của ngôn ngữChúng ta xưng Danh Hiệu của Đức Thế Tôn ấy mà danh hiệu ấy diễn tả Hào quanghóa thân của Tuệ Trí của Ngài, nguyện ước thực hành phù hợp với Giáo Pháp, tương ứng với ý nghĩa của Danh Hiệu.

3- Ngưỡng mộ đến cõi Tịnh Độ như thế nào? - Chúng ta liên tục phân tích; sửa đổi tư tưởng của chúng ta đối với việc cuối cùng đạt đến sự vãng sinh về vùng đất Hòa Bình và An Lạc, chúng ta nguyện ước việc thực hành thiền định một cách đúng đắn.

4- Quán chiếu có ba loại:

a- Quán chiếu về sự biểu hiện công đức huy hoàng của Cõi Phật.

b- Quán chiếu về công đức huy hoàng của Đức Phật Di Đà.

c- Quán chiếu về công đức huy hoàng đủ loại Bồ Tát.

5- Hồi hướng công đức của sự thực hành là như thế nào? - Chúng ta không quay lưng lại với những chúng sinh khổ đau, mà liên tục quyết tâm trong tâm thức chúng ta để hoàn hảo lòng Đại Từ Bi bằng việc hồi hướng công đức ở bên trên tất cả mọi thứ khác.

I- Quán chiếu về cõi Tịnh Độ

Chúng ta quán chiếu về những khía cạnh rực rở huy hoàng kỳ diệu của Cõi Phật như thế nào? Những phương diện diệu kỳ của Cõi Phật được cung ứng với năng lực không thể nghĩ bàn, và tính tự nhiên của những phương diện này giống như ngọc ước Ma ni.

Về sự quán chiếu những công đức diệu kỳ của Cõi Phật, có mười bảy phương diện. Những gì là mười bảy? Đấy là những công đức toàn hảo huy hoàng: 1- Thanh tịnh, 2- Rộng lớn, 3- Tự nhiên căn bản, 4- Hiện tướng rực rở, 5- Nhiều vẻ quý báu trang nghiêm, 6- Bừng sáng diệu kỳ, 7- Cảm giác siêu việt, 8- Ba nhân tố, 9- Mưa, 10- Ánh sáng, 11- Danh xưng tuyệt diệu, 12- Đức Phật Thế Tôn, 13- Thân quyến, 14- Nuôi dưỡng, 15- Tự do khỏi phiền não, 16- Đại nguyên lý môn, 17- Đầy đủ tất cả mọi nguyện vọng.

Chi tiết mười bảy phương diện:

1.- Hoàn thành công đức kỳ diệu thanh tịnh được diễn tả trong những dòng kệ: 

Khi con quán chiếu về tính tự nhiên của Quốc Độ ấy,

Con thấy rằng nó vượt hơn tất cả những cõi nước hiện hữu trong ba cõi.

( 3 ab)

2.- Hoàn thành công đức kỳ diệu rộng lớn được diễn tả trong những dòng kệ:

Căn bản như hư không,

Rộng rãi bao la và không cương giới (3cd)

3.- Hoàn thành công đức tự nhiên căn bản được diễn tả trong dòng kệ:

Hiển hiện Đại Từ Bi tự nhiên trong Chính Đạo

Và từ gốc rể của phẩm hạnh trần gian tuyệt vời trước đây khởi sinh

(4 ab)

4.- Hoàn thành công đức kỳ diệu trang nghiêm đủ loại trân bảo được diễn tả trong những dòng kệ sau:

bao gồm những trân bảo hiếm hoi,

Và được phú cho với những sự trang hoàng tuyệt diệu.

(5 ab)

5.- Hoàn thành công đức kỳ diệu bừng sáng rực rở được diễn tả trong những dòng kệ:

Ánh sáng trong lành rực rở chói lòa

Và tĩnh lặng, bừng sáng toàn thế giới. (5 cd)

6.- Hoàn thành công đức kỷ diệu cảm nhận được diễn tả trong những dòng kệ sau:

Châu bảo trang hoàng, mềm mại và mượt mà như cỏ

Uốn bên phải và rẻ bên trái.

Chúng phát sinh cảm giác hoan hỉ trong những ai chạm phải,

Vượt hơn những cảm nhận sinh ra khi cỏ ca chiên lân đà vuốt ve. (kệ 6)

Quan tâm đến việc hoàn thành công đức kỳ diệu của ba nhân tố, chúng ta phải biết rằng có ba nhân tố. Đấy là nước, đất, và bầu trời.

7.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của nước được diễn tả trong những dòng kệ:

Vô vàn trạng thái khác nhau của châu báu rộ nở

Rãi rác vô số dọc theo hồ nước, dòng suối, dòng sông.

Khi một làn gió nhẹ thổi qua bông hoa và cây lá,

Ánh sáng phản chiếu xen lẩn và chiếu sáng khắp mọi phương. (7)

8.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của đất được diễn tả trong những dòng kệ:

Cung điện và những tháp báo đủ loại

Bao quát những phong cảnh không chướng ngại khắp mười phương

Có những cây cối phô bày nhiều màu sắc,

Tất cả bao quanh với những hàng rào bằng trân bảo quý giá. (8)

9.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của bầu trời được diễn tả trong những dòng kệ:

Những màn lưới treo vô số châu báu

Giăng ngang bầu trời.

Khi chuông linh đủ loại rung lên,

Chúng tuyên dương những pháp bảo tuyệt vời. (9)

10.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của mưa được diễn tả bằng những dòng kệ:

Bông hoa và y cà sa tuyệt đẹp rơi xuống,

vô biên hương báu đủ loại tỏa mùi thơm khắp mọi nơi.(10 ab)

11.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của ánh sáng được diễn tả trong những dòng kệ:

 Tuệ trí của Đức Phật tinh khiết và bừng sáng như mặt trời;

Xua tan bóng tối của thế giới si mê. (10 cd)

12.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của danh hiệu được diễn tả bằng những dòng kệ:

Danh xưng thánh thiện giác ngộ con người xa thẩm và sâu rộng;

Vi tế và diệu kỳ và được nghe mọi nơi trong khắp mười phương.(11 ab)

13.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của Đức Thế Tôn được diễn tả bằng những dòng kệ:

Vùng đất được thủ hộ vững vàng bởi A Di Đà,

Đấng Giác Ngộ, Đấng Pháp Vương. (11cd)

14.- Hoàn thành công đức diệu kỳ của thân quyến được diễn tả trong những dòng kệ:

Những bậc hiền nhân tham dự giống như những đóa hoa tinh khiết vây quanh Đức Như Lai

Được sinh ra ở đấy, hóa sinh từ trong những Đóa Hoa Giác Ngộ. (12 ab)

15.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của thực phẩm được diễn tả trong những dòng kệ:

Tất cả thụ hưởng hương vị của Phật Pháp,

Và lấy thiền [quán] và định[chỉ] làm thực phẩm. (12cd)

16.- Hoàn thành công đức kỳ diệu trong sự tự do chắc chắn khỏi phiền não trong những dòng kệ:

Vĩnh viễn xa lìa những phiền não của thân thểtinh thần,

Tất cả hưởng thụ niềm an lạc, mà không bị trở ngại.(13 ab)

17.- Hoàn thành công đức kỳ diệu trong việc cung cấp cánh cửa của Đại nguyên tắc được diễn tả trong những dòng kệ:

Tất cả chúng sinhbình đẳng và ngay cả những tên gọi của những chúng sinh không xứng đáng cũng không nghe đến ở đấy. (13cd)

Đàn bà, những người xấu xí và khiếm khuyết và

Những ai có hạt giống của Nhị thừa không sinh ra ở đây,(14ab)

Chúng ta phải biết rằng phần thưởng của Tịnh Độgiải thoát khỏi hai loại chúng sinh không xứng đáng: (1) là chính họ và (2) danh xưng của họ. Chúng sinh có ba loại: (1) thành viên của nhị thừa ,(2) đàn bà và (3) những người xấu xí và khiếm khuyết. Bởi vì sự vắng mặt của ba loại không toàn hảo, ở đấy nói rằng ‘tự những chúng sinh không xứng đáng không tìm thấy ở đấy.’ Danh xưng cũng là ba loại. Không chỉ ba loại chúng ta như vậy tự không hiện hữu, mà ngay cả tên gọi của “nhị thừa”, ‘đàn bà’, và ‘những người xấu xí và khiếm khuyết’ cũng không nghe đến. Do vậy, nói rằng ‘ngay cả danh xưng không xứng đáng cũng không nghe thấy ở đấy.’ ‘Bình đẳng’ có nghĩa là thể hiện bình đẳng và có cùng đặc trưng.

Hoàn thành công đức kỳ diệu trong việc đầy đủ tất cả những nguyện vọng được diễn tả trong những dòng kệ:

Bất cứ điều gì chúng sinh có thể khát ngưỡng

Họ đều được đầy đủ tất cả. (14cd)

II- Tự LợiLợi Tha Toàn Hảo

Tôi đã giải thích một cách ngắn gọn mười bảy loại công đức kỳ diệu của cõi Phật Di Đà, mà đấy là biểu hiện sự toàn hảo của Đức Như Lai của cả năng lực công đức lớn cho lợi ích của riêng Ngài và công đức vì lợi ích cho những người khác.

III- Cõi Tịnh Độ Hướng Đến Thực Tại Tối Hậu

Những trang nghiêm của cõi Phật Vô Lượng Thọ là những khía cạnh hiện tượng của một thế giới kỳ diệu phát sinh từ thực tại tối hậu. Tôi đã giải thích theo thứ tự qua mười sáu đối tượng toàn hảo các trang nghiêm (từ thứ hai đến thứ mười bảy) và điều này (trang nghiêm thứ nhất). Điều này chúng ta phải biết.

IV- Quán Tưởng Đức Phật Di Đà

Quán tưởng hoàn thành công đức kỳ diệu về Đức Phật là gì? Chúng ta phải biết rằng có tám khía cạnh. Tám khía cạnh ấy là gì? Chúng là: 

  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của pháp tòa.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của thân thể.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của lời nói.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu hành vi tinh thần.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của chúng hội.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của năng lực tối thượng.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của giáo chủ.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của phương tiện chắc chắn.

1.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của pháp tòa là gì? Nó được nói trong:

Ngài ngự tọa trên tòa hoa sen thanh khiết diệu kỳ

Trang hoàng với vô số châu báu tuyệt hảo. (15)

2.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của thân thể là gì? Nó được nói trong:

Thân thể của Ngài hiển lộ ánh sáng diệu kỳ một sải tay;

Hình tướng của Ngài tuyệt diệu không thể sánh lường đến những chúng sinh khác.(16 ab)

3.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của lời nói là gì? Nó được nói trong:

Âm thinh phi thường của Thế Tôn như Phạm Thiên

Được nghe khắp mười phương.(16 cd)

4.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của hành vi tinh thần là gì? Nó được nói trong:

Giống như đất, nước, lửa, gió

không gian, Ngài không có những tư tưởng phân biệt.(17ab)

Đức Phật Di Đà không có những tư tưởng phân biệt bởi vì Ngài không có tâm phân biệt.

5.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của chúng hội là gì? Nó được nói trong:

Chư thiêncon người, không lay động trong sự thành tựu tâm linh của họ,

Được sinh ra từ đại dương của tuệ trí. (17)

6.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của năng lực tối thượng là gì? Nó được nói trong:

Giống như núi Tu Di, vua của các ngọn núi,

Đức Phật A Di Đàtối thượng, diệu kỳ, và không thể so sánh.(18 ab)

7.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của Giáo Chủ là gì? Nó được nói trong:

Chư thiên và những bậc hiền nhân cao quý

Tôn kính, đi nhiễu chung quanh Ngài và ngước nhìn Ngài một cách trìu mến. (18 cd)

8.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của phương tiện chắc chắn là gì? Nó được nói trong :

Khi con quán chiếu Nguyện Lực Nguyên Sơ của Ngài,

Con thấy rằng những ai gặp được sẽ không trôi qua trong tuyệt vọng.

Người ta có thể đạt đến một cách nhanh chóng

Biển lớn của kho tàng công đức. (19)

Khi chư Bồ Tát chưa đạt đến tâm thanh tịnh để thấy Đức Phật, họ sẽ cuối cùng có thể thực chứng Pháp thân Bình Đẳng và sẽ bình đẳng với những Bồ Tát tâm thanh tịnh và những vị ở những tầng bậc cao hơn trong việc thân chứng tịch tĩnhbình đẳng.

Tôi đã giải thích ngắn gọn tám khía cạnh về hành vi của Đức Phật, minh chứng rằng những công đức kỳ diệu của Đức Thế Tôn vì lợi ích của riêng Ngài và cho những người khác đã được hoàn tất qua thứ tự. Quý vị phải thể nhận ngụ ý của điều này.

V- Quán Chiếu Về Những Bồ Tát

Quán chiếu về việc hoàn thành những công đức kỳ diệu của những Bồ Tát là gì? Đấy là quán chiếu về những vị Bồ Tát, mà trong những vị ấy chúng ta thấy sự hoàn thành những công đức của việc thể hiện bốn điều thực tập đúng đắn. Quý vị phải thể nhận ngụ ý của điều này.

Bốn điều thực tập đúng đắn là gì?

1- Thứ nhất, trong khi cư ngụ bất động trong cõi Phật, chư Bồ Tát thể hiện nhiều thân chuyển hóa khác nhau khắp mười phương, biểu lộ sự thực hiện những thực tập phù hợp với Giáo Pháp và dấn thân liên tục trong Phật sự. Kệ nói rằng:

Vùng đất của hòa bình, an lạcthanh tịnh và tĩnh lặng;

Đức Phật luôn luôn chuyển bánh xe pháp vô nhiễm.

Được chuyển hóa, chư Phật và Bồ Tát sáng rực toàn thế giới như mặt trời,

Trong khi duy trì sự bất động như núi Tu Di. (20)

Vì các ngài tìm cách để làm cho những chúng sinh có thể khai mở như những hoa sen trong đầm lầy.

2- Thứ hai, bất cứ lúc nào họ muốn, thân thể các ngài điều tiếtchuyển hóa phóng ra hào quang vĩ đại và chiếu đến đồng thời tất cả thế giới trong mười phương và trong một thoáng suy nghĩ nhằm để dạy dỗ và hướng dẫn chúng sinh; vì các ngài tìm cách để tiêu trừ khổ đau của chúng sinh bằng những phương tiện, thực hànhhoạt động thực tiển đa dạng. Kệ nói rằng:

Ánh sáng thanh tịnh, huy hoàng của chư Bồ Tát,

Trong sự bừng sáng đồng thời của môt niệm,

Chiếu soi rực rở mỗi một chúng hội của Đức Phật

Và đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh. (21)

3- Thứ ba, đã chiếu soi tất cả thế giới không thiếu nơi nào, các ngài chiếu sáng mỗi một chúng hội của chư Phật. Trên một mức độ đo lường rộng rãi mênh mang, các ngài cúng dường đến chư Phật, chư Thế Tôn, đỉnh lễca ngợi đức độ của các Ngài. Kệ nói rằng:

Họ trổi âm nhạc, bông hoa, và y áo cõi trời,

Hương báu, và v.v…, và cúng dường chư Phật;

Tất cả ca ngợi và ngưỡng mộ công đức của chư Phật

Mà không có một tâm niệm phân biệt. (22)

4- Thứ tư, các ngài thăm viếng những vị trí trên tất cả mọi thế giới trong mười phương nơi Ba Ngôi Tôn Quý không hiện hữuThiết lập và vinh danh công đức như đại dương quý báu của Phật, Pháp, và Tăng, các ngài biểu lộgiải thích những sự thực hành đúng đắn cho tất cả. Kệ nói rằng:

Nếu bất cứ thế giới nào của vũ trụ

Không có kho tàng công đức của Phật Pháp,

Con quyết tâm được sinh ra ở đấy.

thuyết giảng Giáo Pháp như một Đức Phật . (23)

VI- Tất Cả Những Sự Biểu Hiện Kỳ Diệu Thâm Nhập Vào Trong Tâm –Nguyện

Tôi (Vasubadhu) đã giải thích trên sự quán chiếu việc hoàn thành những công đức kỳ diệu của cõi Phật, Đức Phật và chư Bồ Tát. Ba loại hoàn thành này được trang nghiêm với thệ nguyệnChúng ta phải thể nhận những hàm ý này.

VIIThâm Nhập vào trong Giáo Pháp Một Nguyên Lý

Trình bày tóm tắt, các ngài thâm nhập vào trong Giáo Pháp Một Nguyên Lý. Giáo Pháp Một Nguyên Lý là Nguyên Tắc Thanh Tịnh; Nguyên Tắc Thanh TịnhPháp ThânĐiều Kiện được thân chứng qua Tuệ Trí Chân Chính.

IX- Hai Loại Thanh Tịnh

Thanh tịnh được phân biệt thành hai loại. Chúng ta phải nhận ra điều này. Những gì là hai loại? Thứ nhất,Thanh tịnh của cõi Phật như nơi cư trú. Thứ hai, Thanh tịnh của những cư dân ở đấy.

1- Sự thanh tịnh của cõi Phật liên hệ đến việc hoàn thành mười bảy loại trang nghiêm của cõi Phật ấy; những điều này gọi là sự thanh tịnh của cõi Phật

2- Sự thanh tịnh của cư dân liên hệ đến tám loại trang nghiêm của Đức Phật và bốn loại trang nghiêm của Bồ Tát; những điều này được gọi là sự thanh tịnh của cư dân.

Vì thế Một Nguyên lý Giáo Pháp bao hàm hai loại thanh tịnh này. Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

X- Chuyển hóa chúng sinh với phương tiện thiện xảo

Vì thế, chư Bồ Tát thực hành thiền định (Shamatha) phô bày sâu đậm và thiền quán (vipashyana) hiển lộ rộng lớn, và vì thế đạt đến tâm nhu nhuyến. Các ngài thể chứng thật sự cả những biểu hiện rộng lớn và nguyên tắc bao quát tất cả. Vì thế các ngài hoàn thành chuyển hóa công đức bằng những phương tiện thiện xảo.

Sự chuyển hóa công đức của chư Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo là gì? Sự chuyển hóa công đức bằng phương tiện thiện xảo là biến tất cả những công đức và gốc rể của những sự tích tập thánh thiện bằng việc thể hiện năm loại thực hành, chẳng hạn như phụng thờ, đến tất cả chúng sinh, tiêu trừ khổ não của họ, và các ngài không tìm kiếm sự hưởng thụ những khoái lạc vì sự sống của chính các ngài, nhưng nguyện ước ôm ấp tất cả chúng sinh và hổ trợ họ đạt đến vãng sinh về cõi Phật hòa bình và an lạc cùng với chính các ngài. Điều này gọi là “sự hoàn thành chuyển hóa công đức của chư Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo.”

XI- Tiêu Trừ những Chướng Ngại đến Giác Ngộ

Đã chủ động phương pháp hoàn thành sự chuyển hóa công đức, bây giờ chư Bồ Tát có thể tiêu trừ ba loại chướng ngại đến Giác Ngộ. Những gì là ba?

1- Thứ nhất, bằng việc thâm nhập vào cánh cửa của tuệ trí, các ngài không tìm sự khoái lạc cho riêng mình, và vì thế các ngài diệt trừ bất cứ tư tưởng nào của chấp ngã.

2- Thứ hai, bằng việc thâm nhập vào cánh cửa của từ bi, các ngài giải thoát khổ đau của tất cả chúng sinhtiêu trừ sự miễn cưỡng do dự để ban hòa bình cho họ.

3- Thứ ba, bằng việc thâm nhập vào cánh cửa của phương tiện thực tiển, các ngài đạt đến từ bi cho tất cả chúng sinh và vì thế diệt trừ bất cứ tư tưởng nào tìm cầu sự ngưỡng mộ và tôn trọng của người khác.

Đây gọi là sự diệt trừ ba loại chướng ngại đến Giác Ngộ.

XII- Thành Tựu Phù Hợp với Giác Ngộ

Đã tiêu trừ ba loại chướng ngại đến Giác Ngộ, chư Bồ Tát bây giờ có thể hoàn toàn đạt đến ba loại tâm trong sự phù hợp Giác Ngộ. Những điều này là gì?

1- Thứ nhất, tâm thanh tịnh vô nhiễm: các ngài đạt đến tâm này vì các ngài không tìm cầu sự khoái lạc của riêng các ngài.

2- Thứ hai, tâm hòa bình thanh tịnh: chư Bồ Tát đạt đến tâm này vì các ngài tìm cách tiêu trừ khổ đau của tất cả chúng sinh.

3- Tâm thanh tịnh an lạc: chư Bồ Tát đạt đến tâm này vì các ngài có thể làm cho tất cả chúng sinh tiếp cận Đại Giác Ngộ và vì mục tiêu này các ngài tiếp đón và đưa chúng sinh đạt đến việc vãng sinh vào cõi Cực Lạc.

Những điều này được gọi là “hoàn toàn đạt đến ba tâm phù hợp với Giác Ngộ”. Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

XIII- Tóm Tắt Một Số Thuật Ngữ Chìa Khóa

Ba cánh cửa đã đề cập ở trên – tuệ trí, từ bi, và phương tiện thiện xảo – bao hàm Bát nhã; Bát nhã chứa đựng phương tiện thiện xảoChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Ba loại tiêu trừ kể trên – tiêu trừ bất cứ tư tưởng nào của ngã chấp, tiêu trừ sự miễn cưỡng do dự ban bố hòa bình cho tất cả chúng sinh, và tiêu trừ bất cứ tư tưởng nào tìm cầu sự ngưỡng mộ và tôn trọng bởi những người khác – là những cung cách của việc loại bỏ những chướng ngại đến Giác NgộChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Ba loại tâm đề cập ở trên – tâm thanh tịnh vô nhiễm, tâm hòa bình thanh tịnh, và tâm thanh tịnh an lạc – được phối hợp để hình thành “tâm tối thượng, an lạc, vô tỉchân thật.” Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

XIV- Hoàn Thành những Thệ Nguyện và Hành Động

Trong cách này, tâm tuệ trí, tâm thiết thực, tâm vô chướng ngại, tâm vô thượngchân thật của chư Bồ Tát đem đến sự vãng sinh trong cõi Tịnh Độ của PhậtChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Điều này được gọi là ‘sự hoàn thành những hành động của Bồ Tát, Ma Ha Tát, khi khao khát thâm nhập qua năm cánh cửa của Pháp Bảo.’ Những hành động của thân thể, lời nói, tâm ý, tuệ trítuệ trí của phương tiện thiện xảo như được đề cập ở trên là những cánh cửa của Pháp Bảo làm cho thích ứng đến con đường vãng sinh về cõi Tịnh Độ.

XV- Hoàn Thành Những Hành Động Lợi Ích

Một lần nữa, có năm cánh cửa, mà chúng nhằm để sản sinh năm loại công đứcChúng ta phải thể nhận hàm ý này. Những gì là năm cánh cửa? Chúng là:cánh cửa của tiếp cận, cánh cửa của chúng hội lớn, cánh cửa của nơi cư trú, cánh cửa của phòng nhà, và cánh cửa của nơi giải trí.

Trong năm cánh cửa, bốn cánh cửa đầu sản sinh công đức trong phương diện ‘đi vào’ và cánh cửa thứ năm sản sinh công đức trong phương diện ‘đi ra’.

1- Cánh cửa thứ nhất trong phương diện ‘đi vào’ là để phụng thờ lễ bái Đức Phật Di Đà nhằm để được vãng sinh trong cõi Phật; bằng điều này, chúng ta đạt đến việc vãng sinh vào cõi Hòa Bình và An Lạc, và vì thế nó được gọi là Cánh cửa thứ nhất trong phương diện ‘đi vào’[Tịnh Độ].

2- Cánh cửa thứ hai trong phương diện ‘đi vào’ là để ca ngợi Đức Phật Di Đà, trong khi trì danh hiệu Phật trong sự phù hợp với ý nghĩathực hành trong sự phù hợp với ánh sáng của tuệ trí; bằng điều này chúng ta tham dự chúng hội lớn. Điều này được gọi là cánh cửa thứ hai trong phương diện ‘đi vào’.

3- Cánh cửa thứ ba trong phương diện ‘đi vào’ là ngưỡng mộ một cách nhất tâmchân thành để được vãng sinhthể hiện sự thực hành thiền định (shamatha) tĩnh lặng; bằng điều này chúng ta có thể đến cõi Sen báu. Điều này được gọi là cánh cửa thứ ba của phương diện ‘đi vào.’

4- Cánh cửa thứ tư trong phương diện ‘đi vào’ là quán chiếu một cách nhiệt tình những trang nghiêm kỳ diệu và vì thế thực tập thiền quán (vipashyana); bằng điều này chúng ta có thể đến cõi Tịnh Độ, nơi mà chúng ta sẽ thụ hưởng những sự hấp dẫn đủ loại của Giáo Pháp. Điều này được gọi là cánh cửa thứ tư của “đi vào.”

5- Cánh của thứ năm của phương diện ‘đi ra’ là quán chiếu với lòng đại từ bi với tất cả chúng sinh đau khổ, biểu hiện thân thể thích hợpchuyển hóa, và thâm nhập vào khu vườn sinh tử và khu rừng đam mê tội lỗi, nơi những Bồ Tát diễn bày, những năng lực biểu hiện siêu việt, vì thế, các ngài cư trú trong tầng bậc giáo hóa chúng sinh khác qua sự chuyển hóa công đức của Đức Phật Di Đà bằng Năng Lực của Thệ Nguyện Nguyên Sơ của các ngài. Điều này được gọi là cánh cửa thứ năm trong phương diện ‘đi ra’ [hóa độ].

Chư Bồ Tát hoàn thành sự thực tập vì lợi ích của riêng các ngài với bốn cánh cửa trong phương diện ‘đi vào’. Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Qua cánh cửa thứ năm của ‘đi ra’ chư Bồ Tát hoàn thành sự thực tập về việc làm lợi ích cho người khác bằng việc chuyển hóa công đứcChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Do thế, bằng việc thể hiện năm sự thực hành chính niệm, Bồ Tát hoàn thành cả tự lợilợi tha, và vì vậy nhanh chóng đạt đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Kết thúc sự trình bày giản lược của tôi về căn bản của Những Vần Kệ Ngưỡng Vọng Vãng Sinh, Luận theo Kinh Vô Lượng Thọ (hay Kinh Đại Bổn Di Đà).

[1] Ca Thi Lân Ðà [kacilindika]là một thứ cỏ rất mềm mại, mịn màng ở Ấn Ðộ, người khi chạm vào cỏ ấy sanh lòng vui vẻ êm dịu

[Bibliography] H. Inagaki, Ojoronchu: T'an-luan's Commentary on Vasubandhu's Discourse on the Pure Land: A Study and Translation, Nagata Bunshodo, Kyoto, 1998, pp. 120-291.

Tuệ Uyển chuyển ngữ - 16/12/2010

http://www12.canvas.ne.jp/horai/jodoron.htm

 

GHI CHÚ THÊM CỦA BBT

Vasubandhu
(skt): Bà Tẩu Bàn Đầu—Bà Tu Bàn Đầu—Bạt Tu Bàn Độ—Thế Thân—Thiên Thân—Đại triết gia Bà Tẩu Bàn Đậu (Vasubandhu) hay Thế Thân sanh tại Bạch Sa Ngõa thuộc xứ Kiện Đà La, sanh 900 năm sau ngày Phật nhập Niết bàn. Ngài là con thứ hai trong số ba người con của một gia đình Bà La Môn. Cả ba người đều được gọi là Bà Tẩu Bàn Đầu và cả ba đều trở thành Tỳ Kheo Phật giáo. Thời niên thiếu, ngài đã gắn bó với giáo thuyết Tiểu Thừa, trường phái Kinh Lượng Bộ. xuất gia theo Hữu Bộ. Ngài âm thầm đến Ca Thấp Di La để học triết học A Tỳ Đàm. Khi trở về cố hương, ngài viết bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, có lẽ đây là bộ luận nổi tiếng nhất trong các bộ A Tỳ Đạt Ma Luận, Nhưng sau đó không thỏa mãn với giáo lý chính của trường phái này, ngài đã được người anh là Vô Trước (Asanga) giúp chuyển tu từ Tiểu Thừa sang Đại Thừa. Vào ngày lễ đổi tông phái ấy, ông muốn cắt bỏ cái lưỡi đã phỉ báng Đại Thừa, nhưng ngài Vô Trước đã can ngăn và khuyên ông nên dùng chính cái lưỡi ấy chuộc lỗi. Ông đã viết bộ Duy Thức Học và những tác phẩm Đại Thừa khác. Ông là tổ thứ 21 của dòng Thiền Ấn Độ. Thế Thân Bồ tát là một trong những nhà triết học Phật giáo nổi tiếng người Ấn Độ. Cùng với người anh của ngài là Vô Trước (Asanga) đã sáng lập ra hai trường phái Sarvastivada và Yogachara. Ngài và người anh là Vô Trước được xem như là một trong hai nhân vật chính trong việc phát triển trường phái Du Già. Thế Thân (Vasubandhu) còn là tác giả của 30 ca khúc Trimshika, giải thích học thuyết Yogachara. Ngài còn trước tác những bộ luận nổi tiếng gồm các bộ “Nhị Thập Luận,” và bộ “Tam Thập Luận,” vân vân. Hiện nay bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận vẫn còn lưu trữ với 60 quyển của bản Hán dịch. Bản văn Phạn ngữ đã bị thất lạc, nhưng may chúng ta có một bản chú giải do Yasomitra viết mệnh danh là A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Thích Luận; nhờ tác phẩm nầy mà cố giáo sư Louis de la Vallée-Pousin ở Bỉ dễ dàng trong việc tái tạo bản văn thất lạc và được kiện toàn bởi Rahula Sankrityayana người Tích Lan. (Trích từ Tự điển Phật Học Thiện Phúc)

blank
Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13433)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
(Xem: 11719)
Cái biết sáng ngời hay Phật tánh, Chân tâm, Tánh giác… thật ra không có tên gọi, không thể dùng lời diễn tả, không thể tưởng tượng suy lường.
(Xem: 11239)
Ngài chào đời như ánh bình minh rực rỡ, như đoá đàm ưu bừng nở, gió nhạc êm đềm, chim hót líu lo, núi Tu di cúi đầu đón mừng bậc Thầy nhân thiên ba cõi.
(Xem: 11955)
Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, tiếng Pali gọi là Vesak. Vesak là tên của một tháng, thường trùng vào tháng năm dương lịch.
(Xem: 10276)
Ngày Phật Ðản tin về mùa kỷ niệm Rộn ràng lên người con Phật năm châu Nghe niềm vui mang sắc thái nhiệm màu
(Xem: 29275)
Phật Đản người ơi Phật Đản về Cho lòng nhân loại bớt tái tê Chiến tranh thù hận mau chấm dứt Từ bi tỏa sáng khắp lối về.
(Xem: 11968)
giờ phút linh thiêng gió lặng chim ngừng trái đất rung động bảy lần khi bất diệt đi ngang dòng sinh diệt...
(Xem: 11972)
Ngài từ bi quán sát thương tưởng đến tất cả chúng sanh, bằng mọi phương tiện không phân biệt giai cấp, đem giáo pháp giải thoát tưới tẩm cho bất cứ ai cần đến.
(Xem: 10968)
Phật nói: “Hạnh phúc thay chánh pháp cao minh” tức là sau khi sinh ra ngài đã tìm được con đường tận diệt khổ đau trong cuộc đời này...
(Xem: 19646)
Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó.
(Xem: 7359)
Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động.
(Xem: 11394)
Tục lệ Lễ hội Liên hoa đăng (Lotus Lantern Festival) ở Hàn quốc có nguồn gốc rất lâu đời, có lẽ từ thời vương quốc Silla thống nhất Triều tiên ở thế kỷ thứ 7.
(Xem: 35354)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 12879)
Trời cuối đông xao xác lá me rơi Đôi mắt biếc đong đầy nỗi nhớ Bờ mi lạnh...
(Xem: 12232)
Hoa cải vàng trước ngõ Lóng lánh giọt sương đêm Nắng mai lùa trong gió Rung rinh những đọt mềm.
(Xem: 17374)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11495)
Đạo Phật khơi mở để giúp con người thấy được “Đạo” đang có sẵn trong chính lòng mình. Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 22135)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 11854)
Mái tranh nghèo của mẹ vẫn còn khói bếp. Mái bếp qua bao mùa mưa nắng vẫn tần tảo một mầu buồn in hằn năm tháng.
(Xem: 15950)
Hàng năm, cứ tháng Tư về là mỗi độ sen hồng lung linh sắc màu được tích tụ sâu trong lòng đất Việt. Một loài hoa có hương thơm nhẹ nhàng tinh khiết...
(Xem: 12138)
Mít đã học thuộc làu làu câu ca dao từ thuở lên năm, nhưng phải đợi đến hơn bốn mươi tuổi, thực sự nuôi con, thực sự lo lắng đau khổ vì con...
(Xem: 14124)
Đối với người Việt Nam chúng ta, bà mẹ nào cũng là suối nguồn của tình thương, bao dung chở che con cháu như trời cao biển rộng...
(Xem: 12629)
Sự tích Phật đản sanh có một chi tiết rất bình thường mà cũng rất khác thường. Đó là đức Phật đã giáng sinh dưới gốc cây vô ưu.
(Xem: 13233)
Kinh Phổ diệu là một bộ kinh có nội dung đồ sộ, mô tả cuộc đời đức Phật với những thần thông biến hóa, là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh điển Đại thừa...
(Xem: 13683)
Vu Lan không những là lễ hội của đạo hiếu mà còn là cơ hội để Phật tử tôn vinh trái tim của người Mẹ, từ đó tưới tẩm cho hạt giống tình thương nẩy mầm...
(Xem: 20029)
Cuộc sống vốn là sự hỗ tương giữa con người với thiên nhiên. Từ ngàn xưa, con người đã cảm nhận được sự cần thiết của cỏ, cây, hoa, lá theo thời gian.
(Xem: 14431)
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu.
(Xem: 13568)
Rước một cành lộc xuân Bao niềm vui hớn hở Theo mẹ đi lễ chùa Một bài thơ vừa nở
(Xem: 12370)
Hàng năm cứ vào mỗi độ tháng tư âm lịchhoa sen bắt đầu nở. Hoa sen nở báo hiệu mùa Phật Ðản trở về như để đón mừng Ðức Thế Tôn ra đời.
(Xem: 11910)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34770)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 13427)
Trở về quê có nghĩa là quay về với khung cảnh chứa đựng nhiều hình ảnh thuộc về kỷ niệm, những kỷ niệm ấu thơ, hồn nhiên, vô tư và vô lo.
(Xem: 13747)
Có lẽ tuổi ấu thơ vô tư vô lự, là độ tuổi đẹp nhất đời người. Vì thế, người xưa đã ưu ái dành tên gọi mùa xuân để chỉ thị độ tuổi ấy.
(Xem: 32011)
Những phương pháp và lời hướng dẫn mà Đức Phật đã đề ra giúp chúng ta có thể từng bước tiến đến một sự giác ngộ sâu xa và vượt bậc, và đó cũng là kinh nghiệm tự chúng Giác Ngộ của Đức Phật.
(Xem: 13227)
Càng xa cách càng nhớ nhung, càng cần thiết một khung cảnh quen thuộc để an ủi tâm hồn. Một ngôi chùa, một tinh xá, thiền viện để ngày cuối tuần trở về.
(Xem: 13081)
Một thiền sư Ni đời Đường bút hiệu Mai Hoa Ni viết một bài thơ. Sư nói mình đi tìm xuân, lội khắp đầu non, giày cỏ vương mây khắp chốn.
(Xem: 13444)
Dàn trải nét hân hoan tươi mới khắp tận núi khe sông hồ, đâu đâu cũng thấy một màu xuân. Nếu để lòng buồn vui theo cảnh, đó gọi là khách của mùa Xuân...
(Xem: 13321)
Mỗi người hái một lộc xuân Vô tình vùi dập bao mầm cây xanh Người ơi sao nỡ đoạn đành Bẻ đi một nhánh tươi xanh cuộc đời
(Xem: 18061)
Trong đạo Phật, hiếu hạnh được xem là đứng đầu trong tất cả các đức hạnh. Điều này đã được đức Phật chỉ dạy trong rất nhiều kinh điển.
(Xem: 14945)
Tôi gặp cành mai ấy lần đầu, khi trời Tây còn ủ dột trong sương mù và mưa tuyết. Thời ấy nói tiếng Đức chưa rành, còn lớ ngớ chưa biết đâu là đâu, chỉ biết lạnh.
(Xem: 15753)
Mùa xuân, hơi lạnh cứ se se khiến không gian ở đâu cũng trở nên dễ chịu, thoáng đãng. Có lẽ vậy mà lòng người bỗng nhẹ nhàng thư thái hơn chăng?
(Xem: 14891)
Với tôi, hình như mùa xuân ở mỗi nơi thì mỗi khác. Và, mùa xuân ở nơi cổng chùa dường như thanh giản, nhẹ nhàng, đáng quý và đáng sống hơn...
(Xem: 15870)
Lòng tốt gõ cửa trái tim Lòng ta ngập tràn an lạc Lòng tốt gõ cửa mùa xuân...
(Xem: 20825)
Vườn thiền trầm lặng xuyết hoa vân Mây nước thanh thanh vẽ tuyệt ngần Hương thoảng lối thơ, vờn thủy mặc...
(Xem: 21345)
mẹ bồng con bên sông đăm đăm nhìn nước bạc thương con cá lạc dòng quảy lộn bến bờ xa...
(Xem: 35189)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 27560)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 43983)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37933)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 15158)
Một tia sáng bừng lên như ngôi sao năm cánh trong tim anh, tim chị, tim em và trong cả tim tôi...
(Xem: 15083)
Một thân Thái tử… vào đời, Rời Đâu-suất hóa hiện người trần gian Mượn cung điện ngọc huy hoàng...
(Xem: 13014)
Mặt trời sắp lặn sau núi, chỉ còn sót lại ánh sáng hanh vàng cuối ngày nhợt nhạt, bà Sâm vẫn còn ngồi trên manh chiếu được trải ở góc hè của một ngôi nhà hoang vắng chủ.
(Xem: 12672)
Suốt cả hai ngày nay, lão xích lô không chạy được cuốc nào. Lão nằm tréo chân trên chiếc xích lô, miệng phì phèo điếu thuốc, lòng buồn bã vô cùng.
(Xem: 15641)
Trong kinh Tăng Chi I, đức Phật dạy rằng: “Đối với bậc chân nhân, thiện nhân, hai đặc tính này sẽ được biết đến, đó là biết ơnđền ơn đúng pháp.”
(Xem: 27771)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 14995)
Nắng ấm lên rồi xuân đã sang Đất trời lồng lộng gió thênh thang Em vui xuân mới lòng như hội...
(Xem: 11430)
Buổi sáng, khi những đứa trẻ lên xe bus đến trường, người mẹ cũng vội vàng ra xe đến sở làm. Sau đó không lâu, có ba người khách tuần tự đến dù không bao giờ hẹn.
(Xem: 53224)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 16552)
chẳng phải là bài thơ hẹn ước chẳng phải là ý tưởng vẽ vờimùa xuân năm nay lại như cánh gió hân hoan đi về...
(Xem: 13199)
con tìm thấy… một loài hoa chợt nở trong sương đặt tên cho mẹ là hoa nhân ái
(Xem: 20723)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 12649)
Cứ mỗi độ Xuân sắp về, anh em huynh đệ chúng tôi phần đông đi học xa hay làm việc khắp nơi đều trở về thăm chùa tổ, chúc thọ Hòa thượng Bổn sư.
(Xem: 15625)
Bóng ai thả bước qua cầu Long lanh tà áo một màu chứa chan...
(Xem: 15535)
Áo bạc trăng vàng soi mênh mông Hoa bay gió thoảng chở ý xuân Thiền nhân lững thững con đường dốc...
(Xem: 14813)
Vòng xe xuống phố với người Em trôi trong nắng rạng ngời mong manh Nụ cười mây trắng trời xanh...
(Xem: 15635)
Nhẹ nhàng buông thả tứ thiền thi Mai nở vàng sân đúng hẹn kỳ Chim hót trời xanh lừng nhã nhạc...
(Xem: 13065)
Về mặt lý thuyết, khi tổ chức ngày lễ, thì phải tìm cách cho nó càng khác với ngày thường càng hay, tranh ảnh, màu sắc đóng góp vào điều đó.
(Xem: 11790)
Gọi nắng xuân về là thắp lên ngọn đèn trí tuệ trong mỗi chúng ta để tự mình thấy được những nguyên nhân đích thực của khổ đau và hạnh phúc.
(Xem: 12322)
Hằng năm, trong khoảng tháng 5 Dương lịch, người con Phật trên khắp hành tinh, hân hoan và trang trọng kính tưởng ngày đức Thích Tôn đản sanh nơi thế giới Ta-bà.
(Xem: 12599)
Năm hết Tết tới, xin kính mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại của các huynh trưởng trẻ quen thuộc A,B,C xoay quanh vấn đề mùa Xuân.
(Xem: 13506)
“Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình Sáng nay thức dậy choàng thêm áo Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh”
(Xem: 12501)
Mùa xuân, mùa của những chồi xanh thay lá, mùa của ngàn cánh hoa khoe sắc, mùa của hạnh phúc vui tươi luôn trỗi dậy trong lòng mỗi người khi gặp nhau...
(Xem: 25016)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 12003)
Mùa xuân tuy không có pháo như truyền thống, nhưng bù lại tiếng vỗ tay của hội chúng cũng gây ấn tượng phần nào chào đón xuân sang.
(Xem: 12786)
Xuân về, rồi Xuân đi. Hôm nay Xuân lại về nữa. Nói đến Xuân, chúng ta liền nghĩ ngay đến mùa đổi mới, hay mùa cuối hoặc mùa đầu tiên của năm.
(Xem: 11633)
Trồng tre vào đầu năm mới để thể hiện tinh thần của người Việt. Và trồng tre trước cửa nhà trong những ngày đầu năm còn để đánh dấu những ngày vui, ngày hạnh phúc...
(Xem: 13775)
Khói nhang ngày Tết là nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp lễ của Phật giáo, hoặc các dịp chạp giỗ, lễ Tết. Nén nhang như chiếc cầu nối thiêng liêng...
(Xem: 14129)
Trên thế giới có tất cả 24 loài mai thuộc họ mai, tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào.
(Xem: 12935)
Mùa xuân là tặng phẩm của đất trời, bởi khi mùa xuân tới cây cỏ đơm hoa, mọi loài sinh sôi nẩy nở. Và mùa xuân cũng là tặng phẩm của lòng người...
(Xem: 12771)
Muốn giải thoát sanh tử, chúng ta cần phải biết gốc của sanh tử là gì? Theo pháp Mười hai nhân duyên, Phật dạy gốc của sanh tửVô minh.
(Xem: 13034)
Bốn mùa đã không thì làm gì có mùa Xuân, mùa Hạ. Thế mà nói ngày Xuân, tháng Xuân, mùa Xuân là nhằm trong cửa phương tiện tương đối luận bàn.
(Xem: 13946)
Đỉnh núi Thái sơn cao Mơ hồ con tưởng tượng Hay biết tình cha đâu Người đi, con lên bốn!
(Xem: 13020)
Xuân là sức sống trong ta, Bình an thuở trước mượt mà thuở sau. Mặc cho đời có bể dâu...
(Xem: 13640)
Trao nhau lời chúc thân thương Nghe niềm xuân trải xanh đường cỏ non Tình thương hơi thở thon von Nối vòng tay giáp vòng tròn từ tâm.
(Xem: 12481)
Theo tư tưởng Phật giáo phát triển, đức Phật Di Lặc xuất hiện ra đời vào ngày mới đầu năm – ngày Mùng Một Tết, đặc biệt là giờ phút giao thừa an lạc, linh thiêngvui vẻ.
(Xem: 14466)
Nắng đi từng bước thắm hồng Tình xuân lai láng đầy long cỏ cây Dịu dàng những cánh hoa may...
(Xem: 13321)
Mùa xuân ta có mặt nhau dù nhìn nhau kỹ trước sau đã từng; Bụi đời mòn mỏi đôi chân...
(Xem: 13800)
Nồi bánh cuộn long sùng sục Lửa đun lâu lâu lại cười Tuổi già lòng như ngày trẻ Cời than ngồi chờ đêm vơi
(Xem: 14650)
Ngày tháng qua nhanh Như điếu thuốc cháy nóng ngón tay Nhìn xuống Hoàng hôn...
(Xem: 11898)
Sau mùa tuyết lạnh ở xứ sở Phù tang, người ta bảo mùa đẹp nhất của Nhật bản là mùa này, khi cái nắng nhè nhẹ đưa hơi xuân về...
(Xem: 12744)
Dù đi đâu, ở phương trời nào hay bản lai thế giới nào thì chất xuân vẫn một màu uyên nguyên tròn đầy. Vì bản chất của xuân là trong ngần...
(Xem: 28316)
Sớm mai dậy nâng chén trà tỉnh thức Ngắm bình minh thắp nắng đẹp trong vườn Chim tung cánh hót vang lời hạnh phúc...
(Xem: 11821)
Tôi có quan niệm, dịch không phải để cho mình đọc mà để cho mọi người đọc. Vì vậy nên khi dịch, tránh dùng văn tự cầu kỳ, bóng bẩy làm người đọc tụng khó hiểu.
(Xem: 12669)
Ngữ tình vương vấn. Tâm cảnh xao động. Mối tương dữ sâu sắc giữa thiên nhân trong lần Kim Trọng trở lại vườn Thúy tìm Kiều.
(Xem: 15094)
Thiền sư Linh Vân thấy hình tượng kiếm khách để ký thác bản tâm giác ngộ rất hấp dẫnnổi bật, dễ gây cảm xúc hùng mạnh. Bản tâm giác ngộ cũng oai hùng cao cả...
(Xem: 12033)
Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết...
(Xem: 11796)
Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI...
(Xem: 12899)
Vua Trần Nhân Tông là một minh quân đời thứ 3 triều Trần. Từ lúc còn là Thái Tử, Ngài đã được vua cha cho học Thiền cùng Tuệ Trung Thượng Sĩ...
(Xem: 12010)
Nhân nói về mùa Xuân Di-lặc và vị Phật tương lai – Ngài Bồ-tát Di-lặc, có lẽ cũng cần tìm hiểu thêm về một vị Di-lặc khác: Luận sư Di-lặc, thầy của Luận sư Vô Trước.
(Xem: 11541)
Mùa xuân tự tínmùa xuân tự tin rằng, chính bản thân mình có khả năng tiếp nhận những cái không phải là mình, để tinh lọc và tạo ra được sức sống cho chính mình...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant