Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Kiện Thành Đạo Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni

26 Tháng Giêng 201511:57(Xem: 10574)
Sự Kiện Thành Đạo Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni


SỰ KIỆN THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI


Thích Giác Nguyên

phatthanhdaoKhi Thái tử Sĩ-đạt-ta từ bỏ hoàng cung giữa đêm khuya, vượt thành, cắt tóc xuất gia, khoác áo sa-môn, trải qua những tháng năm dài lên đường tầm sư học đạo. Đầu tiên ngài đến với vị đạo sĩ thời danh là Alàràma Kàlàma. Không bao lâu, Ngài đã thâm nhập những áo nghĩa của thầy và thực tập thiền định đến cảnh giới Vô sở hữu xứ (Akincannayatana) là từng định thứ ba của cõi trời Vô sở hữu. Đây là dạng an định bằng một kỹ thuật trực giác, hay còn gọi là Thiền Cảm giác; còn định còn an lạc, hết định thì trở lại trạng thái đời thường. Không chứng ngộ được chân lý tối hậu về sự nhàm chán, lìa bỏ luyến ái vô minh, chấm dứt mọi đau khổ. Cũng như sự tỉnh thức mọi lúc mọi nơi để đạt đến Niết bàn tịch tịnh.

Chính vì thế Ngài từ giã đạo sĩ ra đi tìm tới thọ giáo với một danh sư khác tên Uất-đầu-lam-phất (Uddaka Ràmaputta), cũng là thầy buổi đầu của Tôn giả Xá-lợi-phất. Trải qua thời gian không đầy một tuần, Ngài đã thấu triệt giáo lý của thầy và đạt đến tầng định thứ tư cũng còn gọi đệ bát thiền của cõi trời phi tưởng, phi phi tưởng. Nơi đó không còn tri giác (sanna) mà cũng không có không tri giác (N’eva sanna N’àssan-nàyatana). Đạt đến trạng thái này, siêu vượt tam giới (Dục, Sắc và Vô sắc). Tâm chìm lắng trong cảnh giới chơn không trơ lặng, không thể nói là có tâm hay không tâm.

Đây là loại thiền cao nhất vào thời bấy giờ không ai hơn được. Nhưng đối với Ngài đó cũng chưa phải là mục tiêu cứu cánh. Mặc dù Ngài đã hoàn toàn chế ngự được tâm mình, như lấy gạch đè cỏ cho héo úa chết khô, nhưng gốc rễ phiền não sanh tử vẫn còn; Một khi nước ái dục tưới vào thì chúng lại hiển hiện mọc lên xanh tốt. Do đó không làm sao vượt qua sanh tử, giải thoát hoàn toàn để không còn dính mắc khổ ách trầm luân. Vì vậy không làm Ngài thỏa mãn trong cuộc truy nguyên sanh tử, thấu đạt chơn lý. Chính vị danh sư này khi qua đời được sanh lên thiên giới và theo truyền thuyết, sau khi hưởng hết phước trời, ông lại bị đọa làm con trùng ở trong yếm trâu. Ngài nhận thấy rằng không ai có đủ năng lực để dẫn dắt Ngài thành tựu mục tiêu cứu cánh, thoát khỏi vòng vô minh sanh tử. Từ đó Ngài không tìm cầu, vay mượn bên ngoài nữa và bắt đầu nghĩ ra phương thức trải nghiệm khác.

Sa môn Cồ Đàm tìm đến núi rừng Dungsiri, với nhiều cây xanh có gai, phủ đầy cát trắng. Tại đây nhiều đạo sĩ thực hành các lối tu khổ hạnh. Có người chỉ đứng một chân, hoặc treo mình trên cây chúc đầu xuống đất; có người lấy gậy tự đập vào thân thể, hoặc vùi mình trong cát nóng; có người chỉ uống nước, ăn hoa quả trong rừng, tu tập yoga thiền định v.v... Sở dĩ họ làm như thế, nhằm chế ngự sự thèm khát dục vọng và các cảm thụ của thân xác, để tập trung tinh thần, hòa nhập tâm linh vào đại thể Phạm thiên.

Ngài quanh quẩn trong khu rừng già bên cạnh làng Uruvela, quê hương của nàng mục nữ Sujàta, tại đây Sa-môn Cồ Đàm gặp năm anh em A Nhã Kiều Trần Như (Ajnata Kaudinya). Có thuyết cho đây là những người trong hoàng tộc mà vua Tịnh Phạn phái đi để tìm Ngài, sau đó họ ở lại tu chung với Ngài. Họ cùng Ngài thành lập một nhóm tu khổ hạnh riêng biệt, mỗi ngày chỉ ăn vài hạt mè, hoặc uống chút nước, khiến còn da bọc xương, mà trong kinh dẫn là nếu lấy tay sờ vào bụng thì đụng cả những đốt xương sống phía sau lưng.

Một hôm, Ngài định xuống sông tắm gội, nhưng vì quá kiệt sức, chân bước không vững, Ngài ngã quỵ xuống đất ngất xỉu, nằm bất động bên bờ. Từ xa, nàng Mục nữ Sujàta trông thấy sanh lòng cảm kính, bèn vội đến mở lấy túi da đựng sữa đề hồ rót vào miệng Ngài. Sữa theo hơi thở từ từ trôi vào cổ họng, chân tay Ngài dần dần lay chuyển. Ngài vẳng nghe bên tai tiếng đàn lúc nhặt lúc khoan, khi trầm khi bổng, phát ra những tiết tấu thanh tao dìu dặt mỗi lúc một gần, khiến Ngài hồi tỉnh. Thì ra tiếng đàn của một ông lão hành khất với đôi mắt mù lòa qua lại bến sông kiếm tiền độ nhựt. Ngài bèn hỏi ông lão:

– Làm sao mà ông khảy lên được những tiếng đàn tuyệt vời như thế?

Ông lão đáp: “Người chơi đàn phải biết quy luật âm điệu, không lên dây căng quá, hoặc chùn quá. Nếu căng quá đàn sẽ đứt dây, chùng quá sẽ lạc điệu. Chỉ nên canh dây vừa phải thì mới phát ra những âm thanh bổng trầm dìu dặt.”

Nghe xong điều này, Ngài chợt nhận ra rằng, sự tu hành cũng như thế, ta không nên ép xác hoặc hưởng thụ, mà phải như lên dây đàn vừa mức. Khổ hạnh thái quá chỉ làm mỏi mệt thân xác, suy giảm năng lượng tinh thần. Mặc dù các triết gia cũng như các tu sĩ khổ hạnh thời đó, quả quyết cho lối tu ép xácđiều kiện tối thượng để đạt đến đạo lý cứu cánh. Ngài liền dứt khoát từ bỏ lối tu lầm lạc này, cũng như khi xưa còn ở hoàng cung, Ngài hưởng thụ vật chất xa hoa quá nhiều đã làm chướng ngại trên đường tiến hóa đạo đức. Nghĩ như vậy rồi, Ngài quyết định thực hiện con đường Trung đạo, ngày dùng một bữa vào lúc mặt trời gần đứng bóng. Đây là phương tiện của chư Phật ba đời, cũng là pháp môn tối yếu để hướng dẫn cho Ngài sớm thành tựu đạo quả sau này.

Khi nhìn thấy Ngài dùng phẩm thực đạm bạc từ nàng mục nữ Sujàta dâng cúng và những tín thí quanh làng, năm người khổ hạnh cùng tu chung với Ngài liền chê trách, khinh bỉ Ngài, vì đã phá hủy quy củ truyền thống. Họ âm thầm từ bỏ Ngài sang vùng Ba-la-nại (Varanasi) trong Vườn Nai (Isipatana) để ẩn tu.

Một hôm Ngài xuống sông Ni-liên-thiền (Nairanjana) nay là sông Lilajan, tắm gội sạch sẽ, rồi lội qua sông, lên bờ vào chừng hơn 100m, đến dưới gốc cây Tất-bát-la (Pippala) có tàng che to lớn. Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”.

Sau 49 ngày đêm, chuyên sâu vào thiền quán, tu tập tâm ly dục, ly ác pháp, đức Thích-Ca chiến thắng nội chướng lẫn ngoại ma, nào tham luyến, dục vọng, phiền não, sân hận, đói khát, cô đơn v.v...luôn hiện đến quấy nhiễu. Đêm cuối cùng, vào lúc canh một, Ngài hướng tâm về Tuệ giác, nhớ lại những kiếp quá khứ, từ một kiếp, hai kiếp, ba kiếp đến trăm ngàn muôn ức kiếp. Hoặc ở thế giới này hay thế giới khác, hoặc ở quốc độ này hay quốc độ khác, hoặc ở gia đình này hay gia đình khác, hoặc mang thân này hay thọ thân khác...Tất cả từng chủng loại, tên tuổi, gia thế, sự nghiệp, sống chết, khổ vui của mỗi kiếp tái sinh như thế nào, Ngài đều biết rõ như trong lòng bàn tay. Ngài cũng thấy như vậy với tất cả những loài sanh ra từ thai, loài sanh ra từ trứng, loài sanh từ nơi ẩm ướt và loài sanh từ phân thân biến hóa. Thấu rõ thân này vốn không có thực, vốn không có nguồn, vô thỉ vô chung, không từ đâu đến, không đi về đâu. Cũng như sao mai ở bất kỳ thời gian nào cũng luôn hiện diệnvị trí đó, không lặn cũng không lên, không hiện cũng không ẩn. Ẩn hiện là do vô minh bất giác mà bày ra sự phân biệt tối sáng. Mặt thật xưa nay hiện tiền, không trụ chấp, không vướng mắc, không đầu không cuối, cũng chẳng phải không đầu, không cuối. Chỉ vì động dụng nên cứ nghĩ rằng những gì ta nhận thấy có sự dời đổi là có đến có đi. Như thế Ngài đã chứng được Túc mạng Minh.

Sang canh hai, mây đen vần vũ trên bầu trời u ám, từng ánh chớp lóe sáng như chọc thủng không gian. Những tiếng sấm vang rền làm chuyển rung mặt đất. Từng cơn mưa xối xả trút xuống cội Tất-bát-la đại thọ, Ngài vẫn ngồi bất động, hướng tâm thanh tịnh, vận dụng trí tuệ của mình đi sâu trên con đường khám phá những hiện tượng vũ trụ.

Ngài thấy biết rõ vô lượng vô số thế giới từng co giãn sanh ra, hình thành, biến hoại và hủy diệt. Thấy tất cả chúng sanh từng sanh ra, hình thành, biến hoại và hủy diệt trong vô lượng vô số kiếp, nhưng đó chỉ là những biểu hiện duyên khởi bề ngoài chứ không hề hấn gì tới thực tướng của pháp giới. Ví như hằng triệu đợt sóng lô nhô trên mặt biển cả, nhưng lòng đại dương không vì có những hiện tượng như thế mà sanh diệt, diệt sanh. Đạt đến đó, Ngài chứng được Thiên nhãn Minh.

Thiên nhãn là cái nhìn thông thấu vượt không gianthời gian, không phải bằng mắt thịt. Minh là sáng, thấy rõ như ban ngày, tất cả chúng sanh hình thù lớn nhỏ vi tế, tạo nhân gì, nghiệp gì luân chuyển trong ba cõi là dục, sắc và vô sắc; hoặc lăn lóc trong sáu nẻo luân hồi là trời người, a tu la, súc sanh, ngạ quỷđịa ngục; hoặc quanh quẩn trong bốn loài là sanh thai, sanh trứng, sanh nơi ẩm thấphóa sanh. Thấu suốt tận nguồn vô minh, nhân quả rõ ràng như ban ngày, trong nhân có quả, trong quả có nhân, nối chuyền không đứt đoạn. Trong phiền nãoBồ đề, niệm trướcchúng sanh vô minh, niệm sau là Giác Phật, cho nên gọi chẳng phải Bồ đề, chẳng phải phiền não. Nếu còn chấp vào phiền não, bồ-đề là bệnh, ví như mặt trời là một định tinh vẫn luôn luôn chiếu sáng trong hư không, do tâm phân biệt chấp có mặt trời mọc, lặn; ngày sáng, đêm tối; đó là bệnh chấp về ngã, về pháp rất nặng.

Đến canh ba, Ngài quán chiếu sâu thẳm của vô thỉ vô minh, thấu tột cội nguồn các pháp:

– Đây là phiền não, ô nhiễm, khổ đau.

– Đây là nguyên nhân tập khí gây ra phiền não, ô nhiễm, khổ đau:

– Đây là sự chấm dứt phiên não, ô nhiễm, khổ đau.

– Đây là phương pháp dẫn đến sự chấm dứt phiền não, ô nhiễm, khổ đau.

Quán chiếu như thế, tâm Ngài hoàn toàn giải thoát khỏi Dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), Hữu lậu (ô nhiễm sự luyến ái của đời sống) và Vô minh lậu (ô nhiễm của vô minh), dứt hẳn sanh tử luân hồi, khổ đau vạn kiếp. Đạt đến đó Ngài chứng được Lậu tận Minh.

Ngài thấu rõ Khổ tướng hiện tại, đoạn mọi phiền não lậu hoặc dứt khổ sanh tử, an vui giải thoát. Thấy rõ mầm mống của phiền nãosanh tử. Chuyển phiền não thành Bồ đề, sanh tử thành Niết bàn, màn vô minh đã được giải tỏa thì trí tuệ phát sinh. Rõ được sự sanh sự tử là phi sanh phi tử. Cũng còn gọi là nhứt niệm vô sanh, tánh không tịch diệt, hay là Kim cang đại định.

Ngài thấy rõ được kho tàng tích chứa tập khí hữu lậu vô minh phiền não từ lâu đời. Những chủng tử thiện nghiệp hoặc ác nghiệp của chúng sanh từ vô thủy đến nay nó giống như một cuộn phim được chiếu lại, ngài biết rõ chúng sanh trôi lăn trong sáu đường, thấu suốt từng nghiệp nhânnghiệp quả của chúng sanh khắp tam thiên đại thiên thế giới.

Lúc ấy, ngoài trời cơn mưa đã thưa dần và tạnh hẳn; sấm sét ngừng im, mây đen cuốn sạch, vầng trăng vằng vặc hiện trên nền không gian trong suốt. Từ phương đông, ánh sao mai lấp lánh, cũng là lúc Ngài hoàn toàn chứng được Tam minh, thành tựu Chánh đẳng Chánh giác vào lúc 35 tuổi, ngày Rằm tháng Vesàkha, năm 588  trước TL, theo sử Nam tông, hoặc mùng 8 tháng chạp theo sử Bắc tông. Từ đó Ngài được gọi là Phật (Buddha), người tỉnh thức, một trong mười tôn hiệu và cây Pippala được gọi là cây Bồ-đề (Bodhirukkha)

Trong khuôn viên Đại tháp nơi ngài Thành Đạo tại quận Gàya thuộc bang Bihar, Ấn Độ hiện bây giờ còn bảy trụ đá, có trụ cao khoảng 2,70m do vua A Dục tạo dựng, ghi dấu nơi Phật Thành đạo, cùng những chỗ chung quanh sau khi Ngài rời khỏi tòa ngồi với những hiện tượng lạ xảy ra. Sau này trong những đợt trùng tu, người ta có tạc thêm bảy bảng đá của mỗi trụ; mỗi bảng hình chữ nhật được khắc hai thứ tiếng, một bên tiếng Anh và một bên tiếng Hindi, thứ tự như sau:

Bảng đá thứ nhất, bên cạnh cội Bồ đề Linh thọ gọi là BODHI PALLANKA  (Nơi Thành Đạo), “Thái tử  Sĩ-đạt-ta ngồi dưới cội Bồ-đề đạt đến quả vị Toàn Giác vào đêm trăng tròn, tháng Vaisakha năm 623 (?) trước Tây lịch.  Kim cương tòa ở dưới cội Bồ-đề này là chỗ trung tâm của sự tôn kính.” “BODHI PALLANCA, (The place of enlighten-ment). Prince Siddhattha attained Buddha-hood (Full enlightenment)  in the year 623 BC on the Vaisakha full moonday sitting under this Peepul (Bodhi) tree. The Vajrasana or the Diamod throne which is under this Bodhi tree is the central place of worship”.

Bảng đá thứ hai, bên tháp nhỏ Animesa- locana Cetiya, từ ngoài cổng  Đại tháp  nhìn vào  bên mặt, bên đường vòng lớn kinh hành gọi là ANIMESA LOCANA (Nơi nhìn không nháy mắt). “Sau khi Thành Đạo, đức Phật trải qua tuần lễ thứ hai chăm chú nhìn cây Bồ đề không nháy mắt.” “ANIMESA LOCANA (The place of unwinking gazing). After enlightenment Lord Buddha spent the second week in meditation here gazing unwinking at the Bodhi tree”.

Bảng đá thứ ba, nằm bên phải ngay cạnh Đại tháp gọi là CANKAMANA (Đường kinh hành). “Đức Phật thiền hành lên xuống suốt tuần thứ ba. Trên đường hành lang những chỗ có những hoa sen đở chân của đức Phật trong lúc  đi bộ.” “CANKAMANA (Cloister walk), Lord Buddha spent the third week here walking up and down in the meditation. On the platform lotuses indicate the places where the Lord’s feet rested while walking”.

Bảng đá thứ tư, cách trụ Cankamana khoảng 25 mét về hướng Tây Bắc, gọi là RATANA-GHARA ( Nơi nghiệm tưởng cơ bản). “Suốt tuần thứ tư Đức Phật trong thiền định để suy nghiệm luận chứng luật nhân quả tương quan”.  “RATANAGHARA (The place of basic contemplation) Lord Buddha spent the fourth week here in meditation rylecting on the Patthana or the causal law”.

Bảng đá thứ năm, ngay lối vào Đại tháp, bên cạnh trụ đá nhỏ của vua A Dục gọi là AJAPALA NIGRODHA TREE (cội Ni-câu-đà). “Tuần lễ thứ năm Đức Phật thiền định dưới cội cây Ajapala chứng nghiệm Hạnh phúc Giải thoát. Nơi đây Ngài đã trả lời một vị Bà-la-môn về những tiêu chuẩn để trở thành Thánh nhân, không còn thọ sanh nữa.” “AJAPALA NIGRODHA TREE (Panyan Tree) Lord Buddha spent the fifth week under this tree in meditation after enlightenment. Here He replied to a Brahmana that only by one’s deeds one become Brahmana, not by birth not by birth”.

Bảng đá thứ sáu nằm trước hồ cá cách Đại tháp khoảng 40 mét về hướng Nam gọi là MUCALINDA LAKE, (Nơi ở của mãng xà vương)  “Đức Phật đã trải qua tuần thứ sáu thiền định tại đây, trong lúc đang thiền định, bão tố sấm sét nổi lên dữ dội. Mãng xà vương Mucalinda bò đến bao che bảo vệ cho Ngài được bình an, tránh khỏi gió mưa mãnh liệt.”  “MUCALINDA LAKE (The abode of snake king). Lord Buddha spent the sixth week in meditation here. While he was meditating severe thunder storm broke out. Mucalinda snake go to protect him from the violent wind and rain even the creatores came out for his safety”.

Bảng đá thứ bảy nằm cách cội Bồ-đề 15 mét về hướng Đông Nam gọi là RÀJÀYATANA (một loại cây rừng) “Sau khi đức Phật trải qua tuần thứ bảy trong tuệ giác thanh tịnh ở dưới cội cây này. Vào ngày cuối, có hai nhà lái buôn Tapussa và  Bhallika  dâng  tặng  cho  Ngài bánh và mật ong, và được quy y nơi Ngài. Lúc này Ngài chỉ truyền cho họ Quy y Phật, Quy y Pháp, chứ không có Quy y Tăng. Vì chưa có giáo đoàn Tăng già”. “RAJAYATANA (A kind of forest tree). After Lord Buddha spent the seventh week here in meditation enlightenment. At the end of medi-tation, two merchants: Tapussa and Bhallika offered rice cake and honey to the Lord and took refuge.

– Buddham saranam gachami.

– Dhammam saranam gacchami.

(Sangha was not founded then)”

Trong tác phẩmĐỨC PHẬT VÀ PHẬT PHÁP” (Buddha and His Teaching) của Ngài Narada Mahathèra, Phạm Kim Khánh dịch, NXB TpHCM 1998, giải thích những hiện tượng 7 tuần “Sau Khi Phật Thành Đạo” như sau:

“Tuần lễ đầu sau khi thành đạo, Đức Phật ngồi không cử động dưới tàng cây Bồ-đề chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (Vimutti Sukkha). Trong đêm cuối tuần Ngài xuất thiền và suy niệm về 12 Nhơn Duyên (Paticca Samuppàda) theo chiều thuận... Khoảng canh giữa đêm, Ngài suy niệm 12 Nhơn Duyên theo chiều ngược... 

Tuần thứ nhì trải qua một cách bình thản, nhưng trong sự yên lặng ấy, Đức Phật đã ban bố cho thế gian một bài học luân lý quan trọng. Để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với cây Bồ-đề vô tri vô giác đã che mưa đỡ nắng cho Ngài suốt thời gian chiến đấu (49 ngày thiền định) thành tựu quả vị tối thượng. Ngài đứng cách một khoảng xa để chăm chú nhìn cây Bồ-đề trọn 7 ngày.

Tuần thứ ba, vì khoảng thời gian đầu sau khi Thành đạo, đức Phật không rời nơi trú ngụ mà Ngài vẫn còn quanh quẩn bên cội Bồ đề, Chư Thiên nghi ngờ không biết Ngài đã chứng Thánh quả tối thắng hay chưa. Đọc được tư tưởng ấy, Ngài đã dùng oai lực thần thông tạo ra một đường hành lang bằng ngọc (Ratana canka mana)đi lên đi xuống thiền hành trên ấy suốt 7 ngày, có 18 đóa sen đỡ chân của Phật.

Tuần thứ tư, đức Phật ngự trong Bảo cung (Ratanaghara) do Ngài biến hiện để suy niệm về những luận chứng cao siêu (Abhidhamma), về lý nhơn quả tương quan (Patthàna). Lúc ấy, thân và tâm Ngài trở nên hoàn toàn tinh khiết. Ngài phóng ra vầng hào quang sáu màu (xanh,vàng, đỏ, trắng, cam và màu hỗn hợp).

Tuần thứ năm, đức Phật lại ngồi dưới cội cây Ajapalà Nigrodha, chứng nghiệm Hạnh phúc Giải thoát. Ngày cuối, khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái siêu thể ấy, có một người Bà-la-môn ngã mạn (Huhunkajãtika) đến hỏi Ngài:

– Này Sa môn Cồ Đàm, đứng về phương diệnđiều kiện nào ta trở thành một thánh nhơn (Brahmana) ?

Để trả lời, đức Phật liền đọc lên bài kệ:

            “Người  lánh xa tội lỗi,

             Tâm ngã mạn không còn.    

             Thanh lọc mọi nhiễm ô.

             Sáu căn thường thu nhiếp.

             Suốt thông các pháp học.

             Chơn chánh sống Phạm hạnh.

             Tự tạian nhiên.

             Dù bất cứ nơi đâu

             Người ấy là Thánh nhơn”

                                                (Udana phần I)

Tuần thứ sáu, Từ cây Ajapàla, đức Phật sang qua cây Mucalinda và ngự tại đây để chứng nghiệm Hạnh phúc Giải thoát. Bỗng nhiên có một trận mưa to kéo đến, bầu trời tối sẫm dưới lớp mây đen và gió lạnh thổi suốt nhiều ngày. Vừa lúc ấy trong bọng cây Mucalinda, thần mãng xà từ ổ chui ra quấn chung quanh mình Phật bảy vòng, và lấy bảy cái đầu to che trên đỉnh đầu Ngài, nhờ vậy mà mưa to gió lớn không động đến thân Phật. Cuối ngày thứ bảy trời quang mây tạnh, rắn thần Mucalinda tháo mình ra và biến thành một thanh niên cúi đầu cung kính chấp tay đứng trước mặt Phật. Ngài bèn nói kệ:

            “ Sống ẩn dật biết đủ.

               Lãnh hội được Chơn lý.

               Thật là người hạnh phúc.

               Tâm lành biết thu thúc, 

               Đối với mọi chúng sanh.

               Thật là người hạnh phúc.

               Không luyến ái đam mê,

               Vượt lên khỏi dục vọng.

               Thật là người hạnh phúc.

               Phá bỏ được Chấp Ngã

               Là hạnh phúc tối thượng.”

Tuần thứ bảy, đức Phật sang cội cây Ràjayatana và ở đó chứng nghiệm Quả phúc Giải thoát. Đây là lời Phật nói đầu tiên khi vừa Thành đạo:

Ta lang thang trong vòng luân hồi trải qua bao kiếp sống. Ta đi tìm mãi mà không gặp kẻ làm nhà. Cứ lập đi lập lại đời sống quả thật phiền muộn. Này hỡi kẻ làm nhà, nay ta đã khám phá ra ngươi, Từ đây ngươi không còn cất nhà cho Như lai nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy đổ, kèo cột bị phá tan. Mọi ái dục Như lai đã đoạn trừ. Như lai đã chứng quả Vô sanh Bất diệt.”     ( Kinh Pháp cú)

Lúc này có hai nhà lái buôn Tapassu và Bhallika từ Ukkala (Orissa) trên đường về quê nhà tại Miến Điện, (có chỗ nói họ dẫn theo 500 thương nhân), được chư thiên mách bảo nên cúng dường đức Như Lai vừa mới thành đạo. Họ hết sức vui mừng đến chỗ Phật ngự, dâng tặng cho Ngài bánh và mật ong. Ngài giảng một thời pháp ngắn và họ đã xin quy y nơi Ngài. Lễ truyền quy y đầu tiên chỉ có nhị bảo: Quy y Phật, Quy y Pháp, vì lúc ấy chưa có giáo đoàn Tăng già.” Đức Phật tặng cho họ vài sợi tóc. Sau này những sợi tóc ấy được lập bảo tháp thờ tại Miến Điện.     

Tóm lại, SỰ KIỆN THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI qua phương thức Thiền quán, ngài đã chứng được Tam Minh, đó là đỉnh cao của trí tuệ siêu tuyệt. Minh là sáng suốt, không mê lầm. Không mê lầm gọi là tỉnh thức Giác ngộ hoàn toàn. Như vậy, không phải ngài nhìn vào sao Mai mà tỏ ngộ. Chư Tổ bảo: “Nếu cho rằng Đức Thích-ca Mâu-ni nhìn vào ánh sao mà tỏ ngộ chẳng khác gì mạt vàng rơi vào con mắt.”

Tam Minh là ba nguồn Tâm lực sáng suốt, thấu tột khắp không gian, thời gian, không chướng ngại. Theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy đó là Ba Pháp Yếu từ Bát Chánh Đạoxưa kia Bồ tát Tất-đạt-đa tu hành trải qua ba vô số kiếp, đối trị với ba căn bệnh độc chướng Tham-sân-si và nay Ngài đã thành tựu Vô thượng Bồ đề:

Giới  gồm Chánh ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh mạng.

Định gồm Chánh Tinh tấn, Chánh NiệmChánh định.

Huệ  gồm Chánh kiến, Chánh Tư duy.

Đó là điều kiện tiên quyết để đi vào Thánh đạo và đạt tới Niết-bàn.

Phật giáo Phát triển hiểu Bát chánh đạo có phần khác với Phật giáo Nguyên thủy. Nếu Phật giáo Nguyên thủy xem Bát chánh đạocon đường dẫn đến Niết-bàn thì Phật giáo Phát triển đặc biệt coi trọng phương pháp giải thoát khỏi vô minh để Giác ngộ Tánh Không Bát nhã (śūnyatā prajnã), là Bản thể của mọi hiện tượng sự vật.

Ngoài ra Ba minh khác với Sáu thông. Vì sáu thông (Thiên nhãn, thiên nhỉ, tha tâm, thần túc, túc mạnglậu tận thông), do nơi kỹ năng tu tập từ sáu căn mà được Sáu phép thần thông của các bậc A-la-hán. Tam minh biểu hiện năng lực trí tuệ của chư Phật .

Căn cứ Luận câu xá, quyển 27, trong 5 phép thần thông đầu, mọi người kể cả thiên ma ngoại đạo đều có thể tu chứng, nhưng phép thần thông thứ 6 thì chỉ có những bậc A-la-hán và Bồ tát ở ngôi bát địa mới có thể đạt được. Tuy nhiên trong sáu loại thần thông này, Thiên nhãn thông, Túc Mệnh thôngLậu tận thông, dùng năng lực Trí Tuệ quán chiếu chuyển thành Minh tuệ gọi là Tam minh. Tam Minh cũng còn gọi Tam Đạt, sau khi đã tu Tám pháp Giải thoát (Bát Chánh đạo), A La Hán có đủ sáu thông và suốt biết (chánh biến tri ) gọi là Minh. Đại A-la-hán (Phật) thấu triệt tận cùng gọi là Đạt.

Bằng tuệ giác thực chứng Tam Minh, dẫn dắt mọi hành động hợp với bản hoài Tự giác - Giác thaGiác hạnh viên mãn, đức Phật đã từ tòa ngồi dưới cội cây Bồ đề đứng lên tuyên bố: "Lạ thay ! Lạ thay ! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai, chỉ vì vô minh, vọng tưởng, chấp trước mà không chứng ngộ được”. “Như lai là Phật đã thành. Nhân loại chúng sanh là Phật sẽ thành". Điều đó dạy cho chúng ta có một tầm nhìn thấu rõ các pháp đúng Như thật: “Tâm–Phật–Chúng sanh không sai khác”. Chúng ta hãy tự chủ vươn lên, ứng dụng Giáo pháp, để đem lại an lạc cho thân tâm mình và cho cộng đồng xã hội.

 

Thích Giác Nguyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11161)
"Đêm Trước Một Cành Mai" là một bài thơ thường được nhắc nhở tới mỗi khi người ta nói đến dòng văn học Thiền. Đó là một bài thơ có vẻ như dễ hiểu và có tính chỉ thẳng (trực chỉ)...
(Xem: 10966)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.
(Xem: 11202)
Trời Cali suốt cả tháng cuối năm mưa buồn như mưa Huế. Trong bầu trời tím lịm của mưa lạnh, người ta mới nghĩ tới mùa Xuân. Tôi lắng lòng nhìn lại cột mốc mùa Xuân của đời mình...
(Xem: 11253)
Trong một năm, thời khắc thiêng liêng đầy xúc cảm, đó là đêm giao thừa, thời điểm giao thoa giữa năm cũ và năm mới, cảm xúc giữa cái cũ và cái mới.
(Xem: 14238)
Tôi yêu hoa cải, yêu màu vàng rụm của những đám hoa cải dọc bãi bờ sông Hồng. Màu vàng hoa cải giống màu y của quý thầy, sư cô đã từng đi cả vào giấc mơ của tôi...
(Xem: 12486)
tất cả bồ tát đều đã xuống trần gian làm hạnh nguyện của mình giữa thời mạt pháp có duyên thì mới gặp hay phải gặp mới có duyên...
(Xem: 26344)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 11707)
Ước mơ về một mùa xuân tràn đầy hạnh phúcmiên viễn luôn thao thức trong tâm hồn mọi người. Chẳng thế mà bao nhiêu thi nhân, nhạc sĩ không ngừng viết về những khát vọng...
(Xem: 29261)
Bóng dáng mùa xuân - Tác giả: Cư Sĩ Liên Hoa
(Xem: 11656)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật đản...
(Xem: 10793)
Trong những ngày đầu năm, chúng ta có thể hạ quyết tâm thực hiện công cuộc thay đổi vận mệnh của mình bằng phương thức chuyển nghiệp qua nhiều bước từ cạn tới sâu...
(Xem: 11097)
Phật Giáo, Đạo của an lạc, Đạo của thương yêu, Đạo sống chân thật trong từng phút giây mình có, Đạo của tâm từ luôn hướng người nên tin tưởng vào ngày mai...
(Xem: 10946)
Món chay ngày nay thật hấp dẫnphong phú chứ không đơn điệu với đậu phụ, rau củ như bạn nghĩ. Tham khảo nhé!
(Xem: 10766)
Hạnh quay nhìn về nơi gốc cây cổ thụ. Người khách lạ đã lẫn đâu mất giữa đám đông người qua lại. Cô chưa kịp hỏi tên nhưng cũng thầm cảm ơn cuộc hạnh ngộ này.
(Xem: 11326)
“Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành cho mọi Phật tử...
(Xem: 10779)
Hạnh phúc từ cấp độ thô thiển nhất cho đến cấp độ cao siêu, bền vững nhất, là gì? Khi nào chúng ta cảm thấy hạnh phúc?
(Xem: 12248)
Xuân về, những chậu hoa trong vườn tôi nở rộ, tỏa ngát hương. Xuân mang không khí hân hoan bủa khắp, cây lá thay áo mới, mặt người hớn hở, không còn nét lạnh lùng mùa Đông...
(Xem: 11297)
Thời gian trôi một dòng, trôi không trở lại. Quà tặng của thời gian là dành cho những ai quên nó, có nghĩa là quên chiều dài để vươn tới chiều cao thời gian cũng chính là không gian cao rộng.
(Xem: 10056)
Thực tế, dưới triều đại vua Lý Nhân Tông, thì cả dân tộc đang bước vào thời kỳ phục hưng mọi giá trị văn hóa sau hơn 1.000 năm bị phong kiến Trung Hoa xâm lược. Phật giáo trở thành quốc giáo...
(Xem: 11408)
Ngày xuân mà thiếu trà là thiếu hương vị đậm đà của xuân. Người xưa coi trà như lẽ sống, người nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một người bạn hiền, một khung cảnh ấm áp...
(Xem: 13408)
Cây mai vàng Yên Tử tượng trưng cho tinh thần bền bỉ, vượt lên mọi khó khăn theo truyền thống Thiền môn mà các hoà thượng đã dày công vun xới và phát triển hệ phái Trúc Lâm Yên Tử.
(Xem: 11252)
Buổi chiều đó, gương mặt thời gian như hiển hiện thật lâu, khắc khảm một năm những buồn vui được mất cho những ưu phiền tan đi như làn gió và chỉ để còn giữ lại cõi lòng thơm thảo vô ưu...
(Xem: 11461)
Kobayashi Yatarõ được tôn sùng khắp hoàn cầu với cái tên Issa, có nghĩa là Một Tách Trà. Issa sanh năm 1763 làng Kashiwabara trong nông trại quận Nagano trung tâm Nhật Bản bây giờ.
(Xem: 12694)
Nhà thiền có danh từ “Tọa Xuân Phong” để diễn tả hạnh phúc khi thầy trò, đồng môn, được ngồi yên với nhau, không cần làm gì, nói gì mà như đang cho nhau rất đầy, rất đẹp.
(Xem: 13781)
Mỗi Mùa Thắng Hội Vu Lan Ai ai cũng cảm bàng hoàng tâm tư Một năm man mác còn dư Đến Mùa Thắng Hội thêm như thế này
(Xem: 13190)
Quê tôi còn đó dòng sông Nước đi nước đến chờ con nước về Quê tôi còn đó sơn khê Sắt son tô thắm ước thề không phai
(Xem: 12807)
Quê Cha ngàn dặm mù khơi Đất Mẹ vạn lý một đời chia xa Thương non, ôm ấp mái nhà Nhớ núi, sầu mộng sơn hà chờ ai
(Xem: 12166)
Thắng Hội Vu Lan nhớ Mẹ hiền Noi gương hiếu hạnh Mục Kiền Liên Thanh trai lễ vật lòng tha thiết Nguyện Đức Từ Bi cứu đảo huyền
(Xem: 30121)
Ở nơi đâu hoa xuân rồi cũng úa Chỉ sắc Thiền tươi thắm đóa nghìn năm Niềm vui nào lòng người rồi cũng nhạt...
(Xem: 38126)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 24902)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 10966)
Sương phủ dầy đặc, 10 giờ 30 đêm mà cứ như khuya lắm; chim chóc im bặt, cảnh vật chìm vào u tịch. Trong màn đêm, xa xa còn le lói ánh sáng mờ đục của những ngọn đèn...
(Xem: 11727)
Dù ở nơi đâu, dù trong tổ chức nào, người Việt ly hương vẫn tìm đến nhau dưới mái chùa để cùng nhau chia sẻ niềm vui trong những ngày Tết...
(Xem: 10661)
Ðạo Phật ra đời nhằm xây dựng một đời sống hạnh phúc, an lạc cho mọi người. Cho nên khát vọng trở nên người giàu có nhằm vơi đi khổ đau do đời sống vật chất đem lại...
(Xem: 11225)
Thằng Hào cảm thấy hạnh phúc vô bờ, nó cứ muốn cho giây phút này kéo dài ra, dài ra mãi mãi… Nó cảm nhận được, cảm thấy được từ bên ngoài vừa có một mùa Xuân an vui...
(Xem: 11516)
Trong giáo lý đạo Phật tuyệt nhiên không có chuyện đốt vàng mã cho người đã chết. Kinh điển của Phật có dạy rằng, một người bình thường chúng ta sau khi chết rồi...
(Xem: 12898)
Mấy độ xuân lai nắng lên vàng cả hiên ngoài xuân về chim hót gọi mùa xuân lai
(Xem: 12090)
Sáng sớm mùng 1 Tết, tiết trời Đà Lạt (Lâm Đồng) thường se lạnh, mưa xuân lất phất bay, ngoài đường phố cũng thường thưa thớt người bởi hầu hết các gia đình còn tất bật làm cơm cúng tân niên.
(Xem: 11314)
Tết Nguyên Đán, hầu như nhà ai cũng có một mâm ngũ quả đặt trên mâm bồng. Đó là mâm trái cây, ít nhất là phải đủ 5 thứ quả theo thuyết Ngũ hành.
(Xem: 10206)
Ngày còn nhỏ, dĩ nhiên chúng tôi chưa biết ăn chay là gì. Chỉ thấy cứ vài ngày trong tháng là Má tôi lại ngồi ăn riêng. Má không ăn đồ ăn ‘bình thường’ của chúng tôi, mà Má có chén chao, và rau luộc.
(Xem: 11809)
Thỏng tay ra phố một mình Đêm ba mươi xả buông giành áo cơm Mặc người chộn rộn lo toan Ta tìm ta giữa ngổn ngang dập dìu
(Xem: 11205)
Năm nay, Tết Nguyên Đán Canh Dần nhằm vào cuối tuần, cho nên đêm Giao Thừa và ngày Mùng Một Tết, nhằm Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày 13, 14 tháng 2 năm 2010, tất cả các Chùa đều tấp nập người đến Lễ Phật...
(Xem: 10902)
Sau nhiều trận long tranh hổ đấu thật hào hứng ở vòng loại, tứ kết, rồi bán kết, còn lại hai ứng cử viên nặng ký ngang sức ngang tài, từng hòa nhau hai trận không tỉ số với chất lượng chuyên môn rất cao...
(Xem: 13076)
Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam.
(Xem: 10201)
Thật ra, sự giàu có là một khái niệm rất mơ hồ và chỉ dễ sử dụng khi nói về người khác. Bản thân bạn có phải là người giàu có hay không? Nếu bạn dành thời gian để suy nghĩ thật kỹ về câu hỏi này...
(Xem: 10876)
Đi bách bộ ra sân, hít thở không khí trong lành buổi sáng, tôi cảm nhận rõ sự sảng khoái sau một đêm dài ngon giấc. Sân trước vang lên tiếng chổi quét cùng tiếng cười nói của mấy chủ Tiểu ở chùa.
(Xem: 10946)
Tất cả mọi thất bại hay thành công trên cuộc đời đều bắt nguồn từ tâm. Tâm cũng là gốc của sanh và tử, là cội nguồn của mọi bất hạnh cũng như hạnh phúc.
(Xem: 14536)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 10692)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
(Xem: 21958)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 12072)
Nụ cười, tuệ giácmùa xuân là ba khái niệm và ba hình ảnh riêng biệt. Nhưng khi kết hợp và hòa quyện vào nhau sẽ thành nguồn vui Di Lặc.
(Xem: 11432)
Đức Phật ra đời, những lời dạy của Ngài phải chăng đây là lời giải đáp cho sự tìm kiếm và trao chìa khóa để con người mở tung cánh cửa cuộc đời để đi vào thế giới an toànthực hiện ước mơ của mình.
(Xem: 30177)
Xuân Tân Mão chuyển mình Thung lũng phủ màu xanh Vận hành sức diệu dụng Tiếp nguồn sống tâm linh.
(Xem: 19587)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 20580)
Chùa Phật Đà tổ chức Cung Nghinh Chiêm Bái Phật Ngọc và Xá Lợi Phật tại CALIFORNIA CENTER FOR THE ARTS, Escondido - 340 N. Escondido Blvd., Escondido, CA 92025 từ ngày 29/1 đến 6/2/1011
(Xem: 12558)
Xuân sanh, Hạ chín, Thu héo, Đông tàn. Nếp nghĩ xuôi dòng đang đi theo một con đường mòn miên viễn như thế. - Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 12555)
Chưa bao giờ tôi thèm khát nhào đến ôm chầm lấy chồng và con mình như trong giây phút này... Tâm Không Vĩnh Hữu
(Xem: 21191)
Mục đích của quyển sách này là trình bày phương pháp thực hành thiền quán vipassana. Tôi lặp lại, phương pháp thực hành. Đây là một kim chỉ nam thiền tập...
(Xem: 13254)
Một buổi sáng ra vườn, chợt thấy mấy chồi non vừa nhú, rụt rè, mảnh mai, run rẩy trước làn gió nhẹ. Những giọt sương trong vắt còn đọng trên lá cây, phản chiếu tia nắng mai lóng lánh ngũ sắc.
(Xem: 14465)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 30418)
Trang Vesak tứ từ rơi bụi đỏ sử triết văn đội chữ, gậy đường khuya đức Phật hiện chân dung sen khiết bạch
(Xem: 28021)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 28352)
Xuân đã về chưa, đã về chưa? Nắng đang hong ấm nụ giao mùa Chập chờn én liệng lưng trời tím...
(Xem: 20951)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28677)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27230)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 21947)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21486)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26220)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21628)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23406)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 26405)
Vu Lan về mười phương ngưỡng vọng Mẹ Quán Âm tưới giọt Cam lồ
(Xem: 23201)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19834)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22929)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21165)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 19961)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15414)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 25660)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 14129)
Hiện nay, càng có nhiều người đang xoay qua và đặt kỳ vọng vào Thiền. Cho nên, họ rất cần thiết những phương thức hướng dẫn đơn giản nhất, để cho họ có thể tự tu tập...
(Xem: 26064)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22515)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
(Xem: 29129)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22536)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22867)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 13212)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 23191)
mừng vui ngày báo hiếu hoa cài trái tim xuân
(Xem: 13167)
“Các vị là Phật sẽ thành, tôi không ngần ngại đảnh lễ quý vị, giống như Phật đang ngồi trên cao. Các vị và Phật không khác nhau.”
(Xem: 28960)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 30489)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 14248)
Năm giờ sáng, mây xám tuy mỏng, nhưng che phủ bầu trời, che cả những vì sao muộn khiến không gian ẩm tối, lạnh lẽo và rưng rức quạnh hiu! Vậy mà có vị Phật lặng thinh ngồi đó...
(Xem: 26260)
Tuồng như có cái bóng tôi Trong hình bóng mẹ đang ngồi trước sân Tuồng như thông điệp thiện chân Trái tim mầu nhiệm mẹ phân thân vào
(Xem: 33228)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35559)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 8625)
Tác Giả- Hirosachiya - Dịch Giả-Thích Viên Lý, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới Xuất bản 1998
(Xem: 13313)
Đạo Phậttôn giáo đầu tiên vượt thoát ra khỏi giới hạn tự chiêm nghiệm và đặt định của con người để vươn tới cõi bao la vô cùng, vô tận của thế giới tâm linh... Trần Kiêm Đoàn
(Xem: 30659)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 22140)
Này em ! Có phải khi mình mất đi hạnh phúc Thì mới hay... hạnh phúctrong đời.
(Xem: 21771)
Cho luôn cho mượn cho là Tồn sinh cốt yếu như hà hình dung?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant